Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài tập môn tôn giáo đạo cao đài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.22 KB, 19 trang )

BÀI TẬP NHÓM 11
A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Tôn giáo là một hình thành tố của kiến trúc thượng tầng, là một hình thái của ý
thức xã hội, phản ánh sự tồn tại xã hội. Song sự phản ánh đó là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc người ta những sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ,
chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh ở thế gian đã mang hình thức sức mạnh
siêu thế gian. Nó có tác động rất lớn đối với xã hội, con người. Như C.Mác đã nhận xét
rằng: “ Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo
là thuốc phiện của nhân dân.” Ở nước ta, trong quá trình dựng nước và giữ nước, cùng
với việc hình thành các giá trị văn hóa, hệ thống các tôn giáo của cộng đồng người Việt
cũng được hình thành. Do đó, sự quản lý của nhà nước về tôn giáo là vô cùng quan trọng.
Đạo Cao Đài là một trong số những tôn giáo lớn của nước ta với số lượng tín đồ tương
đối đông. Để tôn giáo này phát triển theo đúng định hướng thì sự quản lý và quan tâm
của Đảng và Nhà nước là vô cùng quan trọng.
B.

PHẦN NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về các tôn giáo ở Việt Nam

Cũng như ở nhiều quốc gia khác, tôn giáo ở Việt Nam rất đa dạng, có sự xuất hiện
của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới như: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi
giáo…, những tôn giáo nội sinh đặc trưng như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo… và nhiều
tôn giáo nội sinh khác. Bản thân mỗi tôn giáo chứa đựng nội dung phong phú về lịch sử,
tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa… riêng biệt. Việc tìm hiểu sâu để có cái nhìn tổng
quát về các tôn giáo không chỉ ở trong nước và trên thế giới, về khía cạnh quản lý nhà
nước là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách tôn giáo đúng đắn; về phía các tổ chức


tôn giáo là để củng cố, phát triển tôn giáo mình trong tính nhân văn, tình đoàn kết, sự
thân hữu. Đó là điều cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện nay, đặc biệt trong việc phát huy
các giá trị nhân bản, ưu việt của các tôn giáo vì mục đích chung phục vụ cuộc sống hòa
bình và sự phát triển của xã hội.
Hiện nay, ở nước ta có sáu tôn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận về tổ chức
là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà Hảo với khoảng 20 triệu tín
đồ. Trong đó, Phật giáo không chỉ là một tôn giáo lớn trên thế giới mà ở nước ta số lượng
tín đồ và người có cảm tình với Phật giáo đông nhất ở nước ta. Nước ta là nước đa tôn


giáo, trong khi đó ở nhiều tôn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo. Nhiều tín
đồ tôn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít, gia nhập đạo phần nhiều do lan
truyền tâm lý, hoặc do vận động, lôi kéo; ý thức tôn giáo ở phần lớn tín đồ không thật sâu
sắc. Bởi vậy, tôn giáo là một vấn đề rất tế nhị, nhạy cảm và phức tạp. Do đó, để giải
quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải hết sức thận trọng, tỉ mỉ và chuẩn xác;
vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt, đúng như tinh thần
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là: không
"tuyên chiến" với tôn giáo mà tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân. Chính vì vậy, Ở nước ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến chính sách luôn
được Đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện.
II.

Đạo Cao Đài
1. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài trên đất
nước Việt Nam
a. Quá trình hình thành đạo Cao Đài ở Việt Nam

Đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn
tăng cường áp bức bóc lột, vơ vét tài nguyên, đàn áp nhân dân để phục vụ lợi ích của
chúng. Cuộc sống của nhân dân lao động, đặc biệt là người nông dân Nam bộ bị bần cùng

hoá, phải đi làm thuê, làm mướn. Các cuộc đấu tranh của nhân dân đều thất bại. Bất lực
trong cuộc sống, khủng hoảng về tư tưởng, đồng thời các tôn giáo và đạo lý đương thời bị
suy thoái đây là tiền đề và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của đạo Cao đài.
Đạo Cao Đài là tên gọi tắt của một tôn giáo bản địa Việt Nam, có tên đầy đủ là
“Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”. Đạo Cao Đài ra đời vào đêm Noel năm 1925 trong bối cảnh
cách mạng nước ta đang bị khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo, còn chính
sách cai trị thực dân Pháp đang đẩy nông dân Nam Bộ vào con đường cùng không lối
thoát, trong khi các tôn giáo khác dần dần bị mất uy tín. Đó còn là hệ quả trực tiếp và
điển hình của tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” (Phật – Lão – Nho), là sự hòa nhập giữa
trào lưu “Thần linh học” – một hình thức mê tín của dân phương Tây với tục cầu hồn, cầu
tiên của người Việt trong những năm 1924 – 1926, đã tạo nên phong trào cầu cơ – chấp
bút (gọi tắt là cơ bút), khá sôi nổi ở vùng Nam Bộ. Nhu cầu lúc bấy giờ của nhân dân
Nam Bộ là muốn có một tôn giáo mới phù hợp với tâm trạng của họ và đạo Cao Đài ra
đời đã đáp ứng được vấn đề tư tưởng tình cảm và tôn giáo của nông dân nơi đây. Vì lẽ
đó, ngay lập tức đạo Cao Đài được đông đảo quần chúng đón nhận và được thống đốc
Nam Kỳ đồng ý vào tháng 10 năm 1926. Đạo Cao đài do một số người thuộc tầng lớp


trên (tư sản, địa chủ, tiểu tư sản), công chức chủ trương, ban đầu vốn là một trào lưu
chính trị với mục đích thành lập đạo để tập hợp lực lượng quần chúng mà chủ yếu là
nông dân chống lại sự kỳ thị, bóc lột, chèn ép của thực dân Pháp. Song sau đó trào lưu
này đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớn tại Nam Bộ cho đến tận ngày nay.
Sự hình thành đạo Cao Đài ở Việt Nam gắn với một số nhân vật và câu chuyện về
cuộc đời của 3 nhân vật chính đó là ông Ngô Minh Chiêu, ông Lê Văn Trung và ông
Phạm Công Tắc.
Ông Ngô Minh Chiêu sinh năm 1878 tại chợ Bình Tây, Chợ Lớn Sài Gòn. Theo
truyện kể lại từ khi sinh ra ông đã không biết bú mẹ chỉ uống nước gạo để lớn lên. Ông
học giỏi, là thư ký của Sở di trú tại Sài gòn rồi tri phủ Phú Quốc. Ông ham mê truyện
thần tiên và cầu cơ, tiếp thu “Thông linh học”. Ông tổ chức cầu cơ và tuyên truyền là
mình đã tiếp xúc được với một đấng thiêng liêng là Cao Đài tiên ông và được vị tiên này

phán bảo sứ mệnh xây dựng một tôn giáo mới ở phương Nam. Đến khi đạo Cao Đài
chính thức ra đời, ông nhường quyền lãnh đạo cho ông Lê Văn Trung rồi trở về Cần Thơ
tu luyện và hình thành phái Cao Đài Chiếu Minh đàn (là biến âm của tên ông). Ông mất
năm 1932.
Ông Lê Văn Trung sinh năm 1876 tại Chợ Lớn, Sài gòn. Năm 1893 tốt nghiệp
trường trung học và được bổ làm văn phòng thống đốc Nam Kỳ, sau đó chuyển sang làm
thầu khoán và được bầu làm nghị sĩ, tham gia hội đồng tư vấn phủ Thống đốc. Năm
1920, ông bị thua lỗ trong kinh doanh và bị phá sản, ông quay sang hoạt động tôn giáo.
Nhờ sự thông minh, tài ngoại giao và tài tổ chức, ông đã nhanh chóng tiếp thu sứ mệnh
khai đạo của ông Ngô Minh Chiêu và trở thành Giáo tông đứng đầu “Cửu Trùng Đài” –
cơ quan hành pháp của đạo Cao Đài. Ông mất năm 1934.
Ông Phạm Công Tắc sinh năm 1890 tại Tân An. Ông bắt đầu làm công chức ngành
thuế từ năm 1940. Sau do bị chèn ép nên ông bỏ nhiệm sở chuyển sang hoạt động đạo
Cao Đài với chức Hộ pháp, đứng đầu Hiệp Thiên Đài – cơ quan lập pháp của đạo này.
Sau khi ông Lê Văn Trung chết, Phạm Công Tắc trở thành lãnh tụ tối cao nắm cả hai cơ
quan Hành pháp và Lập pháp và cũng từ đó mâu thuẫn trong nội bộ đạo Cao Đài nổ ra và
chia rẽ thành nhiều hệ phái.
Để thành lập cho ban hành đạo cao đài qua “ cầu tiên giáng bút”, Cao Đài tiên ông
ứng cho 4 câu thơ đó là:


“Chiêu kì trung độ dẫn hoài danh
Bán đạo khai sang quý giáng thành
Hậu tức đắc cư thiên địa cảnh
Hưởng minh mẫu đáo thú đài danh”
Vận ra thành 12 người đó là:
1.
2.
3.
4.

5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

Ngô Minh Chiêu
Vương Quang Kì
Lê Văn Trung
Nguyễn Văn Hoài
Đoàn Văn Bản
Cao Hoài Sang
Nguyễn Văn Qúy
Lê Văn Giang
Nguyễn Trung Hậu
Trương Hữu Đức
Phạm Công Tắc
Cao Huỳnh Cư
b. Quá trình phát triển của đạo Cao Đài ở Việt Nam

Ngày 12/2/1926, trong một bài cơ Đức Thượng đế đã phán dạy hai nhóm cơ bút
thống nhất hình thành đạo Cao Đài. Ông Ngô Minh Chiêu được Thiên phong phẩm vị
Giáo tông đầu tiên của đạo Cao Đài.
Ngày 7/10/1926, 28 người đại diện cho 247 tín đồ đã thống nhất ký tên vào Tờ
khai đạo gửi chính quyền Pháp. Giữa tháng 11/1926, những chức sắc Thiên phong đầu
tiên của đạo Cao Đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén, Tây Ninh, chính thức cho ra
mắt Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, gọi tắt là đạo Cao Đài.

Năm 1926 khi Cao Đài mới ra đời có tới 10.000 tín đồ. Chỉ 4 năm sau, đến năn
1930 theo thống kê của nhà cầm quyền Pháp lúc đó tín đồ đạo Cao Đài tăng lên 500.000
người, đạo Cao Đài nhanh chóng phát triển ra lục Nam Kỳ, Sài Gòn, Gia Định, Bến Tre,
Cần Thơ, Cà Ma, Long Xuyên, Đồng Tháp, Đồng Nai…
Từ 1931 đến 1934, mâu thuẫn giữa một số chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài ngày càng nặng nề, tình hình nội bộ Giáo hội mất đoàn kết ngày càng tăng, một số


chức sắc cao cấp bất đồng với Toà thánh đã tự hoạt động theo ý riêng, tiến hành lập nhiều
đàn cơ để lôi kéo tín đồ. Vì vậy, nội bộ chức sắc xuất hiện tư tưởng ly khai khỏi Toà
thánh như các ông: Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Hữu Chính, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc
Tương, Lê Bá Trang. Các vị chức sắc rời Toà thánh Tây Ninh về các địa phương lập ra
các chi phái Cao Đài mới như: Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài
Chơn lý, Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Bạch y...
Thực ra, mâu thuẫn đã xuất hiện từ những ngày đầu tiên, khi ông Ngô Minh Chiêu
từ chối ngôi Giáo Tông, tách ra và lập nên phái Chiếu Minh để theo đường tu tịnh luyện,
nội bộ Cao Đài bắt đầu bị chia cắt. Từ đó, những chức sắc cao cấp, vốn có những quan
điểm bất đồng trong việc hành Đạo cũng bắt đầu tách ra riêng để "thể hiện bản lĩnh của
mình".
Trong vấn đề phân hóa, có 1 yếu tố nữa dẫn đến việc này đó là chính quyền Pháp
vì sợ sự phát triển mạnh mẽ, quá nhanh của đạo Cao Đài có thể sẽ gây bất lợi cho việc đô
hộ Việt Nam. Vì thế mà chính quyền Pháp đã dùng đến những thủ đoạn là dụ dỗ, đe dọa
về sự an toàn của các con em lưu học sinh tại Pháp có thân nhân là chức sắc cao cấp
trong tổ chức hành chính đạo. Vì thế mà các chức sắc cao cấp có thỉnh cầu Thánh Ý của
ơn trên về việc lập thêm chi phái để che mắt người Pháp về sự chia rẽ của đạo Cao Đài,
để tạo nên sự an toàn cho các lưu học sinh và cho người Pháp cảm thấy rằng đạo Cao Đài
không có gì ghê gớm, cũng dễ dàng bị bọn họ chia cắt.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, đạo Cao Đài tổ chức “Cao
Đài cứu quốc” là thành viên của mặt trận Việt Minh.
Trong thời kì kháng chiến chống pháp ở Nam Bộ (1945-1954) một số tín đồ ở Nam

Bộ đứng ra vận động các tín đồ thành lập hội cứu quốc là thành viên của mặt trận Liên
Việt. Cho đến năm 1954 đạo Cao Đài phân thành 12 nhóm với trên 1 triệu tín đồ.
Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) chiến tranh ác liệt kéo
dài đã tạo thuận lợi cho đạo cao đài phát triển. Đồng thời sự tàn khốc của chiến tranh
cũng làm cho đạo Cao Đài tiếp tục phân rã. Mỹ ngụy xem vào chiếm lấy 1 số chức sắc,
một số hệ phái Cao Đài ngăn cản tín đồ tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc ví dụ
như tổ chức Cao Đài thống nhất do Phan Khắc Sửu và Nguyễn Bửu Tốn lập ra năm
1958, phái Cao Đài Việt Nam Bến Tranh, Cao Đài Việt Nam Bình Đức, do Trần Lệ Xuân
chỉ đạo tay sai tạo ra… Tuy vậy dù bị Mỹ Ngụy thao túng nhưng phần đông các tín đồ
đều ra sức tham gia kháng chiến.


Từ năm 1955, các phái Cao Đài Minh Châu Đạo, Tiên Thiên, Bạch Y Cao Thượng
Bửu Tòa, Chiêu Minh, Long Châu đã đấu tranh đòi Mỹ Diệm phải thi hành hiệp định
Giơnevơ chống khủng bố Cao Đài. Sau phong trào Đồng Khởi của đồng bào miền Nam,
mở đầu đấu tranh chống Mỹ Diệm các khối Cao Đài nói trên đã hình thành khối Cao Đài
liên giao I (1962), liên giao II (19720) đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thu hút 18 hệ phái
Cao Đài tham gia. Cho đến năm 1975 đạo Cao Đài có hơn 2 triệu tín đồ, với 20.000 chức
sắc.
Từ sau năm 1975, các phái Cao Đài không hoạt động theo mô hình tổ chức cũ. Các
Hội thánh Cao Đài xây dựng tổ chức hành chính đạo theo hai cấp: cấp Trung ương là Hội
thánh, cấp cơ sở là Họ đạo. Từ năm 1995 đến năm 2000, lần lượt 9 Hội thánh Cao Đài có
đông chức sắc, tín đồ tổ chức Đại hội thông qua Hiến chương, chương trình hành đạo,
xây dựng tổ chức giáo hội 2 cấp, hoạt động theo 3 Hội: Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn
sanh và xác định đường hướng hành đạo “Nước vinh, Đạo sáng”.

Hiện nay, đạo Cao Đài có 9 Hội thánh có tổ chức giáo hội gồm: Cao Đài Tây Ninh,
Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Minh Chơn đạo, Truyền giáo Cao
Đài, Cao Đài Cầu Kho Tam Quan, Cao Đài Chơn lý, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu,
Cao Đài Bạch y.

Ngoài ra, đạo Cao Đài còn có tổ chức Pháp môn Cao đài Chiếu Minh Tam Thanh
Vô Vi là pháp môn tu hành của đạo Cao Đài theo “Nội giáo tâm truyền” không có chức
sắc, không lập giáo hội, chỉ chuyên tu tâm, luyện tính theo truyền dạy của ông Ngô Minh
Chiêu (được công nhận năm 2010). Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) cũng là một
phái Cao Đài có tổ chức giáo hội 02 cấp nhưng mới được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo
năm 2009.
Bên cạnh các tổ chức giáo hội, đạo Cao Đài còn có trên 20 tổ chức Cao Đài hoạt
động độc lập không phụ thuộc vào các tổ chức Hội thánh nêu trên như: Cao Đài Thượng
đế, Cao Thượng Bửu Toà, Nam Thành Thánh Thất, Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại đạo,
Liên Hoa Cửu Cung Thiên đạo học đường, Thánh tịnh Tân Minh Quang, Thánh tịnh
Huỳnh Quang Sắc, Thánh tịnh Thiên Trước, Thánh thất Bàu Sen.
Theo thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao Đài, đến nay đạo Cao Đài có trên 1
vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở


được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài, thành lập 65 Ban Đại diện,
1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4 ngàn tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài).
Nếu như trước ngày miền Nam giải phóng số tín đồ là hơn 2 triệu thì năm 1995
theo thống kê của ban tôn giáo và sở văn hóa thông tin các tỉnh thành phố có tín đồ đạo
Cao Đài thì số liệu tín đồ cao đài như sau:
Tỉnh, thành phố
An Giang
Bến Tre
Cần Thơ
Đồng Tháp
Hồ Chí Minh
Kiên Giang
Long An
Minh Hải
Tây Ninh

Tiền Giang
Trà Vinh
Vĩnh Long
Sông Bé
Bình Thuận
Ninh Thuận
Phú Yên
Bình Định
Quảng Ngãi
Quảng Nam
Lâm Đồng
Tổng

Số tín đồ
59.300
36.600
29.468
3.100
8000
40.000
100.000
40.000
261.000
41.689
7.826
19.871
4.500
1.100
2643
1.865

21640
1.750
20.000
12.094
712.446

Như vậy sau 20 năm so với năm 1975 thì số tín đồ đã giảm đi 61%. Có thể do 2 lý
do chính là do sự hỗn dung giáo lý đạo Cao Đài và do hện thực cuộc sống thời bình có
nhiều lựa chọn nhưng hiện nay đạo Cao Đài vẫn đang phát triễn ngày càng mạnh mẽ.
Nhìn chung trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, đông đảo chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài đã tích cực tham gia đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện


nay, đồng bào đạo Cao Đài đang cùng toàn dân tham gia vào công cuộc đổi mới, góp
phần xây dựng đất nước.
2.

Cấu trúc tôn giáo của đạo Cao Đài
a. Giáo lý của đạo Cao Đài

Trong đạo Cao Đài , hệ thống các tín điều không có chiều sâu, dựa trên cơ sở triết
lý thần học riêng, mà chỉ vay mượn giáo lý có sẵn trong đạo Phật, Nho, Lão và Thiên
chúa giáo. Hay nói cách khác, nội dung giáo lý của đạo Cao Đài là sự vay mượn, chắp vá,
kết hợp, nhào trộn các giáo lý của các tôn giáo đã có từ cổ chí kim, từ đông sang tây.
Tôn chỉ Cao Đài là "Tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục nhất". Tam giáo tức là
Tam giáo đạo gồm: Phật giáo – Lão giáo – Nho giáo.
Tam giáo quy nguyên: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ xây dựng một nền giáo lý toàn
diện tức là giáo lý Đại Đạo trên nền tảng tổng hợp giáo lý Tam giáo đạo. Cái cao thâm,
tinh khiết đó là từ bi bác ái của Phật, công bằng nhân nghĩa của Nho, phù phép thần tiên

của Lão. Như vậy, Tam giáo có đủ khả năng xây dựng con người chân chính, xã hội an
lạc (Nho giáo), dạy con người biết tu dưỡng thể xác và tinh thần để sống thung dung tự
tại (Lão giáo), và giải khổ (Phật giáo). Do đó tôn chỉ "Tam giáo quy nguyên" là đường lối
để thực hiện mục đích "Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát". Có thể nói, tư tưởng
“Tam giáo đồng tôn” Phật, Nho, Lão được xem như là trung tâm của giáo lý đạo Cao
Đài.
Tam giáo quy nguyên được suy luận mở rộng ra gọi là “ Hiệp nhất ngũ chi” tức là
thống nhất năm nghành đạo.Nhân đạo là từ Nho, Thần đạo là từ đạo thờ các chủ thần,
Thánh đạo là Thiên chúa giáo, Tiên đạo là Đạo giáo và đạo Phật . Đó là đường lối tu
hành tuần tự như lên năm nấc thang. Phục nhất có nghĩa là thống nhất thành một hệ thống
bổ sung cho nhau, hiệp thành đạo pháp nhất quán hầu đưa người tu đạt đến mục đích.
Tóm lại, tôn chỉ của đạo Cao Đài là đường lối tổng hợp nhất quán cứu cánh hoàn thiện và
giải thoát nhân sinh của vạn giáo. Song song với tôn chỉ "Tam giáo quy nguyên ngũ chi
phục nhất", Cao Đài còn nêu lên tinh thần "vạn giáo nhất lý".
Qua tiêu ngữ này, Cao Đài công nhận mục đích cứu cánh của tất cả tôn giáo chân
chính có cùng một chân lý là hướng dẫn con người sống có đạo đức, hoàn thiện hóa bản
thân, hoàn thiện hóa xã hội và giải thoát linh hồn.


Từ đó, Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của mọi tôn giáo và nêu lên
nguyên lý chung của mọi nền giáo lý tức là giáo lý Đại Đạo khả dĩ giác ngộ nhân loại
toàn cầu.
Giáo lý Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn bản là: thiên địa vạn vật
đồng nhất thể: Trời đất vạn vật có cùng một bản thể ; và nguyên lý thứ hai là nhất bản tán
vạn thù, vạn thù quy nhất bản: Một gốc phân tán ra vạn hình thức (sai biệt), vạn hình thức
(sai biệt) quay về một gốc.
Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý Cao Đài quan niệm Trời và Người có cùng bản thể,
có thể tương thông tương ứng và hợp nhất được. Kế đến chúng sanh cũng đồng bản thể
nên phải thương yêu nhau, nhất là giữa người với người phải xem nhau như anh em một
Cha, từ đó phải thực hiện mục đích đại đồng nhân loại.

Từ nguyên lý thứ hai, giáo lý Cao Đài quan niệm vũ trụ là một trường tiến hóa có
khởi điểm từ bản thể Đại Linh Quang, tức Thượng Đế, phóng phát các điểm linh quang
tiềm tàng trong vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, đến thảo mộc, thú cầm, đến con
người. Rồi từ con người đến các bậc Thiêng liêng Thần Thánh Tiên Phật để trở về hợp
nhất với Thượng Đế. Trong đạo Cao Đài, Thượng Đế có danh xưng bằng nhiều tên như:
Ngọc Hoàng, Ngọc Đế, Cao Đài, Huyền Khung, Cao Thượng đế, Ngọc hoàng đại thiên
tôn… nhưng tên thông dụng thường được xưng là “ Cao Đài Tiên ông Đại Bồ tát
Mahatát”. Đây là cái tên bao trùm được cả “Quy nguyên Tam giáo Cao Đài là Nho, Tiên
ông là Lão, Bồ tát Mahatát là Phật”.
Do đó cứu cánh của con người là tiến hóa trở về với Thượng Đế, tức nguồn gốc
của mình mà cũng là của vũ trụ. Muốn thế, con người phải biết tu công lập đức để hoàn
hảo hóa bản thân đến mức chí chân chí thiện. Giáo lý Cao Đài gọi đó là "Phản bổn hoàn
nguyên".
Giáo lý của đạo Cao Đài đặc biệt quan tâm và đề cao tính thiêng liêng huyền diệu
của cơ bút, coi đó là linh hồn của đạo. Mỗi khi cần ban bố trong đạo điều gì về giáo lý, về
thánh lễ đều phải qua lễ cầu cơ. Chỉ có những hàng chức sắc trong hiệp thiên đài mới
được cầu tiên, ngoài ra đây là điều cấm kỵ đối với mọi tín đồ.
Các giáo lý và điều luật của đạo Cao Đài được thể hiện ở các kinh sách như sau:
Đại thừa Chân giáo, Ngọc đế Chân truyền, Pháp Chánh truyền, Thánh ngôn hợp tuyển.


b.

Giáo chủ của đạo Cao Đài :

Nói một cách tổng quát Giáo Chủ là người làm chủ một nền Đạo, một tôn giáo,
một môn phái tín ngưỡng. Các tổ chức đạo giáo ấy dù đơn sơ hay qui mô, số tín đồ đông
hay ít, vai trò của người đứng đầu là Giáo Chủ.Như vậy người đầu tiên sáng lập ra một
đạo giáo đương nhiên là giáo chủ. Sau khi vị sáng lập qua đời, quyền lãnh đạo tối cao của
tổ chức được trao lại cho các đệ nhất cao đồ trong các thế hệ kế tiếp. Các vị đệ nhất cao

đồ này cũng có thể xưng là giáo chủ hoặc chọn danh xưng khác nhưng trên thực tế vẫn là
người nắm giữ quyền hành tối cao của tổ chức đạo giáo ấy về phương diện hữu hình.Tóm
lại danh từ giáo chủ được sử dụng tùy theo sáng kiến về quan niệm tổ chức của mỗi đạo
giáo không giống nhau và cũng không có qui luật nào buộc các tổ chức đạo giáo mới phải
tuân theo cách xưng hô của các tổ chức đạo giáo đã có từ trước.
Trong lịch sử Đạo Cao Đài có hai người xưng Giáo Chủ là Hộ Pháp Phạm Công
Tắc và Ngài Ngô Văn Chiêu.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc có xưng danh giáo chủ Đạo Cao Đài khi giao tiếp
với quốc tế. Ngài được Đức Chí Tôn phong Hộ Giá Tiên Đồng tá cơ Đạo Sĩ và được
Đức Chí Tôn trục xuất chơn thần Ngài để chơn linh Hộ Pháp giáng linh ngự thể, chứng
cho chư vị Thiên phong lập thệ. Ngài cũng là một vị phò cơ phong Thánh và lập giáo
cùng với Đức Cao Thượng Phẩm. Nhưng nếu bình tâm nhận xét, chỉ có Ngài là người
thủ vai chính cầm cây bút thiêng liêng cho Đức Chí Tôn và các Đấng lập Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ, còn các vị đồng tử khác là thứ yếu. Danh xưng này xuất hiện từ ngày Đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên, Đại Hội nhơn sinh bất thường tại Tòa
Thánh ngày 8-11-1935 và Đại Hội Hội Thánh thường niên ngày 17-10- Ất Hợi, toàn đại
hội đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến
ngày có Đầu Sư chánh vị.
Trong lời thuyết đạo đêm rằm tháng 11 Kỷ Sửu (1949) Ngài đã nói rõ như sau :
" Bần Đạo dám tự xưng là Giáo Chủ, vị giáo chủ tức nhiên là người thay thế hình
ảnh cho Đức Chí Tôn đặng làm chúa phần hồn toàn mặt địa cầu nầy. Nhưng Bần Đạo
chỉ biết làm phận sự, làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn, thay thế hình ảnh của Ngài đặng
làm bạn , làm anh em với con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy mà thôi, chớ chưa hề
biết làm chủ. Cả Hội Thánh cũng vậy, chỉ làm bạn, làm anh em dìu dắt con cái Ngài về
phần hồn đặng đoạt cơ giải thoát mà thôi ".


Nói tóm lại hai tiếng giáo chủ chỉ là danh xưng như trăm ngàn danh xưng khác
nơi mặt thế này, hành tàng của Đức Ngài mới là thiệt tướng.
Ngài Ngô Văn Chiêu được Đức Chí Tôn dùng huyền diệu thu phục và độ rỗi trước

tiên nhưng về sau không chịu đứng chung trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khi tổ chức
tôn giáo này thành hình. Ngài chuyên chú về khoa tịnh luyện, thiền định và truyền bá
pháp môn này cho những người tin theo. Ngài đứng đầu phái Cao Đài Chiếu Minh, liễu
đạo năm 1932. Cho tới nay không thấy sử liệu nào chứng minh rằng ngài Ngô Văn
Chiêu có xưng danh giáo chủ Đạo Cao Đài trong lúc còn sanh tiền. Nhưng sau khi Ngài
liễu đạo trong hệ tư tưởng của phái Cao Đài Chiếu Minh danh xưng giáo chủ Đạo Cao
Đài có hai xu hướng : xu hướng thứ nhất là: Cao Đài giáo chủ là Đức Chí Tôn vô hình;
xu hướng thứ hai là: Ngài ngô Văn Chiêu là giáo chủ.
Như vậy trong lịch sử Đạo cao Đài có hai trường hợp xưng giáo chủ là: Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc chính thức xưng danh giáo chủ Đạo Cao Đài trong giai đoạn Ngài
cầm quyền thống nhất Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Ngài Ngô Văn Chiêu qua cơ
bút trong môn phái của Ngài được tôn vinh lên làm giáo chủ Đạo cao Đài sau khi Ngài
đã qui thiên .

c.

Nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài

Đạo Cao Đài đặt ra nhiều qui định về luật lệ, lễ nghi để hướng dẫn người theo đạo
tu tập và xử thế. Luật đạo có nhiều nhưng có một số nội dung quan trọng là “ngũ giới
cấm”, “tứ đại điều qui”,…
Ngũ giới cấm (tức 5 điều cấm kỵ) : bất sát sinh, bất du đạo, bất tà dâm, bất tửu
nhục, bất vọng ngữ. Thứ nhất, bất sát sinh là không được sát sinh, tức là giết hại, tiêu diệt
sự sống còn của muôn loài vạn vật trên thế gian. Thứ hai, bất du đạo là cấm gian tham,
trộm cướp, lấy ngang lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả, hoặc chứa đồ gian,
hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, để ý hại người mà lợi cho mình, cờ
bạc gian lận. Thứ ba, bất tà dâm là cấm lấy vợ chồng người, thả theo đàng điếm, xúi giục
người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt
(vợ chồng không gọi tà dâm). Thứ tư, bất tửu nhục là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá



độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ
đồ mỹ vị. Thứ năm, bất vọng ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình,
bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai,
nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng, thô tục,
chửi rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.
Tứ đại điều quy là bốn điều trau dồi đức hạnh được rút ra từ Nho giáo đó là ôn,
cung, khiêm, nhường. Ôn là ôn hòa, tuân theo lời dạy của bề trên, chịu cho bậc thấp hơn
điều độ, lấy lẽ hòa người làm lời, phải ăn năn chịu thiệt. Cung là chớ khoe khoang, kiêu
ngạo, quên mình làm nên cho kẻ khác, giúp người nên đao chớ cứu riêng, chớ che lấp
người hiền. Khiêm là tiền bạc xuất nhập phân minh, đừng vay mượn không trả, khiêm tốn
kính trên dạy dưới. Nhường là trước mặt sau lung đều đồng một bậc, đừng kính trước
khinh sau, đừng thấy đồng đạo tranh đấu mà không lời hòa giải, đừng cậy quyền mà yểm
tài người.
Các đạo tâm sau khi nhập môn trở thành tín đồ của đạo Cao đài thì việc ăn chay là
một quy định bắt buộc. Mới nhập môn chưa quen ăn chay thì người tín đồ chỉ tập ăn chay
mỗi tháng 6 ngày, gọi là lục trai, gồm các ngày mùng 1, mùng 8, ngày 14, 15, 23 và 30
Âm lịch. Trải qua 6 tháng quen rồi, người tín đồ cần phải tiến lên một nấc cao hơn là ăn
chay mỗi tháng 10 ngày, gọi là thập trai, gồm các ngày mùng 1, mùng 8, ngày 14, 15, 18,
23, 24, 28, 29 và 30 Âm lịch, tháng nào thiếu (không có ngày 30) thì ăn chay ngày 27 thế
vào cho đủ 10 ngày chay. Khi giữ được 10 ngày chay quen rồi, nên tiến lên một nấc
thang cao hơn nữa là ăn chay suốt trong 3 tháng Âm lịch, đặc biệt: Tháng Giêng (Thượng
ngươn), tháng Bảy (Trung ngươn), tháng Tám (Hạ ngươn). Sau đó có thể tiến lên bậc
Thượng thừa tức là ăn chay trường (ăn chay suốt đời) luôn thì rất tốt.
Việc ăn chay trong đạo Cao đài là vô cùng quan trọng, ăn chay là thể hiện lòng từ
bi thương yêu và tôn trọng sự sống của muôn loài vạn vật, ăn chay sẽ giúp cho tâm hồn
được thanh khiết không có vướng bận quá nhiều trượt khí và sau khi chết đi sẽ dễ dàng
thăng về chín tầng trời và quy hồi về nơi Bạch Ngọc. Đặc biệt, ăn chay là nhằm giữ điều
thứ nhất của Ngũ giới cấm - “bất sát sanh”. Ngũ giới cấm là giới luật rất quan trọng đối
với người tín đồ, đặc biệt là người tu ở bậc Thượng thừa, nếu không giữ tròn Ngũ giới

cấm thì không thể đắc đạo được.
Người tín đồ Cao đài cho rằng nếu ăn chay trường thì sẽ giữ được Ngũ giới cấm dễ
dàng hơn vì:Thứ nhất, ăn chay thường sẽ tránh được sự sát sinh trong ăn uống. Đã không


nỡ giết hại sinh vật để ăn thịt thì cũng không nỡ giết chúng để làm trò chơi (bất sát
sanh).Thứ hai, nếu không ăn thịt thì cũng kiêng được rượu dễ dàng, vì rượu và thịt luôn
đi kèm với nhau như hình với bóng (bất tửu nhục).Thứ ba, không ăn thịt, không uống
rượu thì dục lòng lắng xuống nên không nghĩ đến tà dâm (bất tà dâm).Thứ tư, nhờ ăn
chay trường mà lòng tham vật chất không có cơ hội nẩy nở, vì đã tu rồi thì còn cầu chi
tiền tài, của cải. Do đó việc trộm cướp hay gian lận tài sản của người khác rất ít khi xảy
ra (bất du đạo).Thứ năm, nhờ ăn chay trường mà tâm hồn trở nên thanh cao, tránh được
việc nói dối, lừa gạt người, gây đau khổ cho người mà đem lợi lộc về cho mình (bất vọng
ngữ).
Các thức ăn chay của người đạo Cao đài là các loại thực phẩm hoàn toàn xuất phát
từ thảo mộc hoặc được chế biến từ thảo mộc như rau đậu, hoa quả, ngũ cốc, không dùng
bất cứ sản phẩm động vật nào, dù nhỏ hay lớn. Các thứ này nhờ hấp thụ trực tiếp ánh
sáng mặt trời, dưỡng khí, đạm khí của không khí, lại hấp thụ các chất khoáng trong lòng
đất, nên các thức ăn chay có hai tác dụng bổ dưỡng: Bổ dưỡng xác thân nhờ những chất
khoáng hấp thu trong lòng đất và đạm khí trong không khí; Bổ dưỡng chơn thần nhờ hấp
thu ánh sáng và dưỡng khí.
Như vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, với chế độ ăn chay đầy đủ gồm nhiều
rau đậu, ngũ cốc và trái cây, thì ăn chay rất tốt so với ăn mặn vì nó bổ dưỡng cả thể xác
và chơn thần. Ăn chay không nhất thiết phải quá khắc khổ mà vẫn chú trọng dinh dưỡng
đầy đủ để cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần sáng suốt mới đủ sức đi trọn con đường tu học
hành đạo. Người ăn chay trường lâu năm tạo được vùng hào quang trong sáng nơi đỉnh
đầu, chơn thần cũng được trong sáng, tinh tấn, nhẹ nhàng.
Đạo Cao Đài còn những quy định về việc nhập môn cầu đạo, xây dựng thánh thất,
tổ chức quan, hôn, tang, tế… đạo Cao Đài rất chú trọng giáo dục các tín đồ về đạo đức
theo tiêu chuẩn đạo đức Tam cương, ngũ thường của Nho giáo.

Bởi quan niệm rằng con người có xác và hồn, khi chết xác hư hoại nhưng hồn vẫn
tồn tại nên các nghi thức áp dụng trong tang lễ của người tín đồ Cao Đài đặt trên căn bản
một cuộc tiễn đưa linh hồn người quá cố đi qua một thế giới mới khác hơn cuộc sống trần
tục của chúng ta.
Nội dung các bài kinh đọc trong suốt các diễn tiến của đám tang đều có cùng ý
nghĩa là tỏ lòng thương tiếc, biết ơn đối với người đã chết, dặn dò vong linh đừng luyến
tục, luôn luôn hướng về nguồn cội của linh hồn là Thượng Đế để được thăng lên cõi giới


an nhàn cực lạc. Những người thân trong gia đình và bạn bè của người chết tập trung cầu
nguyện cho linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thoát qua lời kinh cầu siêu. Đó là
một phương pháp truyền năng lực sống tâm linh (gọi tắt là truyền thần) cho vong linh vừa
rời khỏi thân xác cho họ thêm sức sống trong cõi giới mới nầy, chẳng khác nào chúng ta
tặng quà cho người đi xa vậy. Các bài kinh ấy gồm có :Kinh cầu hồn khi hấp hối và chết
rồi, Kinh tẩn liệm, Kinh cúng tế của người thân trong gia đình (vợ tế chồng, chồng tế vợ,
con tế cha mẹ, em tế anh), Kinh cầu tổ phụ đã qui liễu, Kinh cúng tế của thân bằng quyến
thuộc.
Đặc biệt đối với người làm nghề dạy học, các học trò cũ sẽ đọc bài kinh tế Thầy, ca
ngợi công ơn của vị Thầy đã dạy dỗ mình nên danh phận với đời như : kinh cầu siêu,
kinh đưa linh cửu đến nơi an tang.Việc đọc kinh trong tang lễ của người tín đồ Cao Đài
hoàn toàn tự nguyện, do đồng nhi thực hiện, người tham dự có thể cùng đọc theo hay
lắng nghe hòa tâm ý của mình vào lời kinh cũng được.
Trong các nghi thức tang lễ của người tín đồ Cao Đài, phép độ thăng là phần sinh
hoạt cao cấp nhất thuộc lãnh vực huyền linh và rất khó thực hiện. Trước nhất nó đòi hỏi
người chết phải có một đời sống tu hành tối thiểu là giữ được giới luật 10 ngày chay mỗi
tháng một cách nghiêm chỉnh và thứ đến phải có chức sắc được thọ truyền bí pháp độ
thăng có đủ quyền năng linh hiển mới thực hiện được. Vì chức sắc hành pháp phải truyền
vào vong linh người chết một làn khí thanh và thần lực đầy an tĩnh, thoát tục, lấy từ năng
lực tinh thần của chính mình và số người tham dự cầu siêu có thành tâm và có đời sống tu
hành tương đối tốt. Trong phút chốc vong linh người chết cảm thấy mình được nhẹ nhàng

thanh thoát và sáng suốt hơn trạng thái sống trước đó. Đây là sự thay đổi trạng thái tâm
linh của chơn thần người chết nhờ vào tha lực. Dĩ nhiên phải có Thần linh giáng ngự trên
chơn thần và thể phách của vị chức sắc hành pháp để hỗ trợ cho động tác độ thăng được
linh hiển. Người hành pháp phải có đủ công đức mới diêu động nổi khối điển quang của
Thần linh và khối người cầu siêu giúp đỡ hữu hiệu cho vong linh.
Phương pháp này chỉ là sự giúp đỡ một phần nào cho vong linh người chết được
nhẹ nhàng siêu thoát, chớ tự nó không phải là một phép mầu xóa bỏ được tất cả mọi tội
tình oan nghiệt trong kiếp sanh của kẻ ấy. Hành trang mà chơn thần người chết mang
theo là nghiệp qủa của kiếp sống họ đã nghĩ và hành động theo hướng nào hoặc thiện
hoặc ác, giờ đây họ phải gánh chịu, không thể chối bỏ được.


Thăng hay đọa là kết quả của cả kiếp người. Làm phép xác, cắt dây oan nghiệt, độ
thăng là giúp thêm sức cho chơn thần dễ dàng thăng tiến cũng ví như một khách lữ hành
đi tới ngã ba đường đang khát nước, được giúp một bát nước cho mát dạ, còn sự đói no
ấm lạnh của họ trong suốt cuộc hành trình là do túi hành trang, lương thực mà họ mang
theo đầy hay vơi.
Linh tượng thờ chủ yếu của đạo Cao Đài là hình con mắt, gọi là Thiên Nhãn. Thờ
Thiên Nhãn là thờ một con mắt trái. Một trong những đặc điểm của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ
Ðộ gọi tắt đạo Cao Đài đó là biểu tượng Thiên Nhãn, Thiên Nhãn là Mắt Trời, thờ Thiên
Nhãn tức là thờ Trời. Thiên Nhãn là biểu tượng nhắc nhở tình "yêu thương" dưới ánh mắt
của đấng tạo hóa chúng sinh bình đẳng, tất cả đều được nhận ân Trời không có phân biệt.
Việc thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa rất quan trọng với người tín đồ Cao đài, nhắc nhở tín đồ
rằng mọi cử chỉ, hành động luôn có Thượng đế soi xét; Thiên Nhãn giúp người tín đồ
Cao đài nhận được Thần của Đức Chí Tôn khi chăm chú nhìn Thiên Nhãn trong lúc tụng
kinh và người tu luyện định Thần, Thần đó sẽ kết hợp với Tinh và Khí trong bản thân
mỗi người để thành Tam Bửu.
Các ngày lễ của đạo Cao Đài bao gồm:Hàng ngày có 4 khóa lễ vào các giờ: sáng
sớm, giữa trưa, chập tối và đêm khuya. Hàng tháng có 2 ngày lễ vào ngày rằm và mồng
một, âm lịch. Hàng năm có các ngày lễ chính (theo âm lịch) là ngày 9 tháng Giêng, 15

tháng hai, 8 tháng tư, 15 tháng bảy, 15 tháng tám, 15 tháng mười và ngày 15 tháng
Chạp.Lễ nghi của đạo Cao Đài khá rườm rà và cầu kỳ. Đạo Cao Đài giải thích rằng lễ
nghi sinh hoạt tôn giáo cũng thể hiện tinh thần tổng hợp tôn giáo. Đạo phục chung là màu
trắng. Riêng các chức sắc dùng màu theo ngành: Thái – thuộc Phật – màu vàng; Thượng
– thuộc Lão – màu xanh; Ngọc – thuộc Nho – màu đỏ.
Về thờ cúng, các tín đồ đạo Cao Đài phải tôn thờ đấng trí tôn là Cao Đài thượng
Đế, đồng thời họ vẫn có thờ cúng tổ tiên, nhưng không được cúng lễ vật bằng đồ mặn,
không được đốt vàng mã.
d.

Tổ chức tôn giáo của đạo Cao Đài

Đạo Cao Đài có tổ chức giáo hội như là một tổ chức hành chính nhà nước. Mỗi hệ
phái của đạo Cao Đài có tổ chức giáo hội riêng. Nhưng nhìn chung tổ chức giáo hội của
đạo Cao Đài được mô phỏng theo mô hình thể chế chính trị quân chủ lập hiến. Bởi lẽ, đa
số những người sáng lập, lãnh đạo đạo Cao Đài đều là tư sản, công chức tiểu tư sản, công
chức tiểu tư sản, địa chủ nên họ khá am hiểu các thể chế chính trị trên thế giới. Họ cho


rằng chế độ quân chủ lập hiến kiểu Nhật Bản là hình thức chính quyền hợp với Việt Nam.
Vì nó vừa trung thành được với truyền thống, đồng thời lại phát huy được tinh thần của
thời đại mới. Do đó, khi thiết kế tổ chức xã hội đạo Cao Đài, họ rập khuôn theo bộ máy
nhà nước Nhật Bản, nhưng nhiều chỗ rườm rà, quan liêu hơn, đặt tên gọi các tổ chức,
chức sắc bằng những tên Hán Việt cầu kỳ, tăng vẻ huyền bí tôn giáo.
Thành phần của giáo hội Cao Đài gồm chức sắc, chức việc và tín đồ. Hệ thống tổ
chức cấp trung ương của đạo có ba đài là: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài.
Đầu tiên là Bát Quái Đài ( phần vô hình), là ý niệm thiêng liêng thờ phụng của đạo,
gồm các vị thánh thần tiên phật do Lý Thái Bạch ( còn gọi là Lý Đại Tiên) thay mặt
Thượng đế làm trưởng quân.
Tiếp theo là Hiệp Thiên Đài, đây vừa là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan tư pháp.

Về lập pháp, trước khi ban hành những điều về nội dung tôn giáo hay xã hội, Hiệp Thiên
Đài tổ chức Cầu cơ, hiệp thông với đấng thiêng liêng để nhận “thánh chỉ”. Đạo Cao đài
thực hiện chế độ lập pháp theo chế độ “Tam viện” hay còn gọi là “Quyền vạn linh”. Ba
viện đó là: hội nhân sinh ( gồm đại diện các tín đồ), hội thánh ( gồm đại diện các chức
sắc Thiên phong của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài) và thương hội ( gồm các chức
sắc đại Thiên phong của Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài). Đứng đầu Hiệp thiên đài là
chức Hộ pháp, dưới Hộ pháp là Thưởng thẩm và Thượng sanh và dưới hai chức đó là
Thập nhị thời quân (12 vị thời quân), chia là ba chi gọi là Pháp, Đạo, Thế. Dưới ba chi
gồm có các cơ quan giúp việc, đó là: Bộ Chánh pháp với các chức sắc như: luật sư,
truyền trạng, thừa sử, giám đạo, trưởng án, tiếp dẫn, đạo nhân,…và Hàn Lâm viện với 12
chức sắc chuyên môn gọi là “ Thập nhị bảo quân”.
Và cuối cùng là Cửu Trùng Đài. Đây là cơ quan hành pháp, gồm 9 viện: Hộ,
Lương, Công, Học, Y, Nông, Hòa, Lại, Lễ với chức năng như 9 bộ của Chính phủ. Đứng
đầu Cửu Trùng Đài là chức Giáo tông giống như Thủ tướng hoặc Tổng thống. Chức sắc
của Cửu Trùng Đài chia làm ba ngành, gồm Thái ( thuộc Phật), Thượng ( thuộc Lão),
Ngọc ( thuộc Nho). Chức sắc lại có 9 bậc ( cửu phẩm), mỗi bậc lại có một số lượng nhất
định, chia đều cho 3 ngành, sắp xếp theo bậc hàm cao thấp như sau: Giáo tông 1 vị,
Chưởng pháp 3 vị, Đầu sư 3 vị, Phối sư 36 vị, Giáo sư 72 vị, Giáo hữu 3000 người. Để
giám sát việc hành pháp của Cửu Trùng Đài. Hiệp Thiên Đài đặt ra một số chức sắc của
mình trong Cửu Trùng Đài, đó là 3 vị Chưởng pháp ở giữa giáo tông và chức đầu sư.


Ngược lại để giám sát công việc của Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài cũng đặt các chức “
Thượng phẩm” và “ Thượng sanh” giữa Hộ pháp và Thập nhị thời quân.
Hiện nay tổ chức hành chính của đạo Cao Đài được sắp xếp lại còn hai cấp: trung
ương và cơ sở. Tương ứng với bộ máy tổ chức ấy, đạo Cao Đài có một hệ thống chức sắc
bao gồm nhiều cấp bậc khác nhau với những qui định về số lượng khá cụ thể. Trước kia,
mọi chức sắc quan trọng của đạo được bổ nhiệm thông qua cơ bút, còn ngày nay, mọi
chức sắc của đạo đều thông qua điều lệ cầu phong, cầu thăng theo luật công cử.
e.


Niềm tin tôn giáo của đạo Cao Đài

Những người khởi xướng cho việc hình thành đạo Cao Đài đều tin tưởng vào một
thế giới siêu thực, một thế giới tồn tại bởi các siêu linh, nơi đó có sự tồn tại của các vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật… và vong hồn của những người quá vãng, đó là cảnh “Bồng
Lai”, một thế giới hoàn toàn khác thế giới trần tục. Do tin tưởng sự tồn tại của thế giới
siêu thực đó mà những người như: Ngô Văn Chiêu, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản,
Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung… đều là những bậc trí thức, có địa vị cao
trong xã hội lúc bấy giờ, đã tìm cách tiếp xúc bằng các hình thức khác nhau như cầu cơ,
xây bàn.
Thông qua những lần tiếp xúc với thế giới siêu linh, những người này lại càng
củng cố niềm tin của mình về sự tồn tại của các “chơn linh siêu việt” ở thế giới bên kia.
Những nhân vật như: Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Lữ Đồng Tân, Bạch Hạt Đồng Tử… là những nhân vật tưởng như không thật được biết
đến trong các truyện thần tiên của Trung Quốc thì nay lại xuất hiện, trò chuyện với họ
thông qua thuật xây bàn hoặc cầu cơ. Điều này đã làm cho họ “ngây ngất” và tin tưởng
tuyệt đối vào sự tồn tại của thế giới siêu linh. Tất cả những điều trên đã nói lên rằng, niềm
tin về một thế giới bên kia cùng với sự tồn tại của các chơn linh siêu việt đã được củng cố
ngay từ buổi đầu khi đạo Cao Đài có những yếu tố manh nha hình thành trong bối cảnh
thế giới cũng quan tâm nghiên cứu về linh hồn. Đây chính là niềm tin để dẫn đến sự ra
đời của một tôn giáo bản địa.

III.

PHẦN KẾT LUẬN

Trải qua quá trình hình thành và phát triển gần 90 năm, các tín đồ đạo Cao Đài đã
tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Sự



hợp tan – tan hợp của tôn giáo này biến đổi theo sự biến động thăng trầm của cuộc
kháng chiến và kiến quốc của nhân dân ta. Để vận động tín đồ của đạo Cao Đài thực
hiện tốt quan điểm của Đảng và chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với các tôn giáo
thì việc quản lý nhà nước phải nắm vững những đặc trưng trong giáo lý, tổ chức của đạo
Cao Đài. Những năm qua, Nhà nước đã lần lượt công nhận tư cách pháp nhân từng chi
phái của đạo Cao Đài. Khi nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm Tòa Thánh Tây
Ninh, một luồng gió mát thổi vào làm cho các tín đồ phấn khởi, đỡ mặc cảm, yên tâm
làm ăn. Họ đang đấu tranh sao cho nội bộ lãnh đạo từng hệ phái đoàn kết thống nhất để
phát triển đạo, không để kẻ xấu bên ngoài lợi dụng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình Quản lý nhà nước về tôn giáo và dân tộc ( Học viện Hành chính
Quốc gia)
Tạp chí về tôn giáo của Viện nghiên cứu Tôn giáo của nhà nước Việt Nam
Sách Trắng về “ Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” ( Ban Tôn
giáo Chính Phủ, Bộ Ngoại giao Việt Nam)
Đạo Cao Đài – Hai khía cạnh lịch sử và tôn giáo ( Nhà xuất bản Tôn giáo)
Một số website tham khảo khác.




×