Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

bài tậpmôn QLNN về dân tộc và tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.04 KB, 22 trang )

BÀI TẬP NHÓM
Môn: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
Nhóm 5
Đề bài: Tìm hiểu về chính sách: Bảo tồn và phát triển văn hóa
Danh sách nhóm:
1, Nguyễn Khánh Như ( Nhóm trưởng)
2, Nguyễn Thị Lan Anh
3, Kiều Thị Thu Thúy
4, Liêu Thị Hồng
5, Đặng Thị Kim Phượng
6, Bùi Thị Hoa
Bố cục của bài:
I. Khái quát chung
II. Thực trạng
III. Đánh giá
IV. Nguyên nhân
V. Đề xuất giải pháp

Mở đầu
Việt Nam là một đất nước thống nhất đa dân tộc với nền văn hóa nhiều màu sắc.
Nhằm bảo tồn và phát triển tính đa dạng của văn hóa dân tộc Việt Nam, Đảng và
Nhà nước đã đề ra nhiều chính sách liên quan đến công tác bảo tồn, phát triển văn
hóa dân tộc thiểu số(VHDTTS), có tác dụng tích cực đối với việc kế thừa, phát
triển truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc thiểu số, đồng thời thúc đẩy bình
đẳng, đoàn kết, tiến bộ toàn dân tộc.
Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.

1



- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội.
Theo UNESCO: Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua
hàng bao thế kỷ nó cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống
mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng dân tộc. Nó được truyền lại, tiếp nối và
phát huy qua các thế hệ người Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội để các giá trị văn hoá trở thành nền tảng tinh thần vững bền của xã hội,
trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
- Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hoá. Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội
nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc
là văn hoá.
Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng của
nền văn hoá Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với xu thế hội
nhập và phát triển, những luồng văn hoá khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội
ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do
vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý
nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài

I. Khái quát chung
Bản thân lĩnh vực văn hóa là rất rộng lớn và người ta thường gắn khái niệm "bảo
tồn văn hóa" với những đối tượng cụ thể như: bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo
tồn văn hóa vật thể, bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di sản văn hóa phật giáo,
bảo tồn văn hóa nông thôn… Hiểu theo nghĩa chung nhất thì bảo tồn văn hóa là gìn
giữ, lưu lại những giá trị văn hóa.

Phát triển văn hóa là một tất yếu khách quan của sự vận động của lĩnh vực văn hóa
nhằm đem tới sự biến đổi giá trị và hệ giá trị nhằm vươn tới cái đẹp hơn cho cuộc
sống của con người.
Bảo tồn văn hóa không phải là hoạt động cản trở sự phát triển văn hóa, mà trong
một chừng mực nào đó còn là cơ sở cho sự phát triển văn hóa theo đúng hướng.
Bản thân quá trình phát triển văn hóa có sự đào thải yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc
hậu, không phù hợp với hiện thực khách quan. Sẽ là sai lầm khi coi bảo tồn văn
hóa triệt tiêu sự phát triển văn hóa và ngược lại phát triển văn hóa sẽ triệt tiêu bảo
2


tồn văn hóa. Bảo tồn và phát triển văn hóa có thể được coi là thúc đẩy nhau; bảo
tồn văn hóa giữ vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa. Bên cạnh đó,
thông qua phát triển văn hóa, con người nhận thức và thực hiện hoạt động bảo tồn
văn hóa nhằm thể hiện bản sắc riêng của mình. Cũng bởi tầm quan trọng của việc
bảo tồn văn hóa mà trong quá trình phát triển chứa đựng sự đánh giá, xác lập vị thế
của yếu tố văn hóa mới dựa trên nền tảng giá trị đã được bảo tồn.
Tại điều 13 Nghị định số 5/2011/NĐ-CP của Chính phủ : Về Công tác dân tộc
có quy định về chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa Việt Nam.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá
các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”, đây là sự kiện quan trọng tiếp tục
thể hiện chính sách của Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5
khoá VIII.

II Thực trạng thực hiện chính sách.
( Lấy trọng tâm thực trạng chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa của đồng bào
Khmer ở Tây Nam Bộ)
1.Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc

Việt Nam.
Bảo tồn "động", tức bảo tồn các hiện tượng văn hóa phi vật thể đó ngay chính
trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường không chỉ sản sinh ra
các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu và phát
huy nó trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, hiện tại có một nghịch lý là nhiều hiện tượng văn hóa, nhất là văn hóa
phi vật thể vốn là của nhân dân sáng tạo ra nay lại "xa lạ" với họ, thậm chí nay chỉ
tìm thấy trên sách vở của các nhà nghiên cứu, do vậy, để bảo tồn chúng trong đời
sống, chúng ta lại phải đưa nó trở lại với nhân dân "xã hội hóa" nó. Văn hóa phi vật
thể là văn hóa tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của một số người, mà lâu nay
chúng ta mệnh danh họ là những nghệ nhân hay là những "báu vật sống".
Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với việc
"bảo tồn" các "báu vật sống" đó. Đó chính là việc nhà nước, cộng đồng thừa nhận
những tài năng dân gian đó, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo những điều kiện tốt
nhất trong hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khỏe mạnh, phát huy khả năng
của mình trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
trong điều kiện xã hội hiện đại hóa và công nghiệp hóa ngày nay.
3


a.Ưu tiên đầu tư kinh phí cho các dự án, đề tài nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số
theo quy định của pháp luật.
Xây dựng và khôi phục văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số theo mô hình văn
hóa cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ theo nghị định
05/2011/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án bảo tồn,
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó điều tra, khảo sát,
thống kê, quản lý, trùng tu các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, khu
vực sinh thái đặc biệt, vườn Quốc gia, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sưu tầm,
giữ gìn, nghiên cứu và phát huy những bản sắc truyền thống của đồng bào các

dân tộc thiểu số. Đề ra giải pháp quản lý, giữ gìn và phát huy lễ hội văn hóa
truyền thống, phong tục tập quán lành mạnh của vùng đồng bào dân tộc thiểu
số.
Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của cồng chiêng, hàng năm chính quyền
các tỉnh Tây Nguyên đã đầu tư kinh phí tổ chức nhiều hoạt động như: mở lớp
dạy cho lớp trẻ học các kỹ thuật đánh và chỉnh chiêng, phát triển không gian
văn hoá cồng chiêng, tổ chức các liên hoan văn hóa cồng chiêng, dân ca dân vũ,
nhạc cụ dân tộc, hội diễn văn nghệ quần chúng… nhằm bảo tồn giá trị của các
thiết chế văn hóa cồng chiêng.
Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tạo điều kiện hợp tác, giao lưu văn hóa
để quảng bá cồng chiêng trong phạm vi quốc gia và quốc tế nhằm xây dựng các
chương trình nghiên cứu và phục hồi không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên. Bởi không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là giá trị đặc sắc và độc
đáo đã được UNESCO công nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân
loại”…
b.Nâng cao năng lực của chủ thể văn hóa; có hình thức khen thưởng, động
viên, hỗ trợ nghệ nhân, người tham gia hoạt động truyền dạy văn hóa nghệ
thuật truyền thống; sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu, truyền dạy những làn điệu
dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số, sáng tạo các giá trị văn hóa
nghệ thuật mới phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số
Nghị định số 62/2014/NĐ-CP quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân
dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể có hiệu lực từ
ngày 7-8-2014, được xem là một bước ngoặt quan trọng trong việc bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Để nghị định sớm đi vào cuộc sống,
cần sự “vào cuộc” tích cực của các cơ quan hữu quan, chính quyền các cấp,
nhất là việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân một cách thiết thực,
hiệu quả.
c. Sưu tầm, xuất bản, giới thiệu văn học dân gian của các dân tộc thiểu số.

4



Hiện nay văn học dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số đã được đưa vào
chương trình dạy và học bâc giáoục tiểu học,THCS băng các thể loại như
truyện ngắn ,truyên ngụ ngôn bâc THPT : nổi tiếng như các truyền thuyết , sử
thi "Đam San" của đồng bào dân tộc Ê Đê, sử thi "đẻ đất đẻ nước" của đồng
bào dân tộc mường Truyện thơ phát triển đề tài của tự sự xã hội
Chim sáo,
Nàng Kim Quế (Tày Nùng) ..
Truyện thơ phát triển đề tài của dân ca trữ tình về tình yêu và hôn nhân
Nàng Nga Hai Mối (Mường). Nàng Ớm chàng Bồng Hương (Mường)..Tiếng
hát làm dâu (HMông). Nam Kim Thị Ðan (Tày). Khun Lú Nàng Uía (Thái) ...
Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) được suất bản và in ấn rộng rãi
.d. Sản xuất các tác phẩm điện ảnh phản ánh cuộc sống xã hội miền núi vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
Ví dụ: Vợ chồng A Phủ => có trích đoạn phim.(video)
Sáng tác từng giúp Tô Hoài nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996
đã được đưa lên màn ảnh nhỏ và trở thành một trong những phim kinh điển
của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm hay nhất trong tập Truyện Tây Bắc được nhà văn Tô
Hoài viết năm 1952. Hai nhân vật chính là A Phủ và Mỵ - một đôi nam nữ thanh
niên nghèo bị thống lý Pá Tra, một chúa đất gian ác, cấu kết với Pháp, áp bức bóc
lột đến cùng cực. Hắn bắt Mỵ về làm vợ lẽ cho con trai là A Sử, và bắt A Phủ đến ở
không công suốt đời để trả nợ. Khi A Phủ bị trói vì tội đánh mất trâu, sắp chết đau,
chết đói, chết rét, Mị cắt dây trói cứu thoát anh. Hai người trốn đến Phiềng Sa rồi
nên vợ nên chồng. Sau này, nhờ có Đảng lãnh đạo, A Phủ và Mỵ đã vùng dậy, đấu
tranh để tự giải phóng, cùng nhân dân xây dựng một cuộc đời ấm no, hạnh phúc.
Vợ chồng A phủ được chính tay Tô Hoài chuyển thể thành kịch bản và được "nhào
nặn" bởi đạo diễn Mai Lộc. Với cốt truyện hấp dẫn, cảm động, bộ phim tiếp tục lôi
cuốn người xem bằng hình ảnh đẹp của miền Tây Bắc và phần âm nhạc xuất sắc

của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Bài hát Bài ca trên núi qua giọng hát của nghệ sĩ
Kiều Hưng cũng nhận được sự yêu thích của đông đảo người yêu nhạc
Bộ phim do xưởng phim Việt Nam sản xuất và đã được trao giải thưởng Bông sen
bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 năm 1973
e. Sưu tầm, phục dựng và phát huy các nghề và làng nghề thủ công truyền
thống của các dân tộc thiểu số; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, văn nghệ
truyền thống đặc sắc các dân tộc thiểu số.

5


Nhà nước đầu tư phát triển sản xuất những sản phẩm dệt thủ công, sản xuất đa
dạng với những mẫu mã truyền thống, màu sắc và kiểu dệt khác nhau. Ví dụ tiêu
biểu đó là áo chàm của người H’mông, Tày, Nùng và vải thêu kim tuyến của người
H’mông, Dao, Pà Thẻn, Phù Lá, Hà Nhì, La Hù và Lô Lô ở phía Bắc Việt Nam và
các dân tộc Gia-rai, Ê-đê, Xtiêng và Cơ-tu ở miền Trung Việt Nam.
Đồ đan lát được phổ biến ở rất nhiều vùng và bao gồm những sản phẩm có kích cỡ
đa dạng từ thảm đến giỏ đựng đồ, từ nón mũ đến dụng cụ bắt cá. Ví dụ như: Dân
tộc Khme nổi tiếng với những chiếc bát được trang trí rất đẹp, những cái rổ mở có
nắp, thảm và túi làm từ cói tự nhiên hoặc cói nhuộm. Người chăm và một vài dân
tộc ở Tây Nguyên (Gia-rai, Ê-đe, Xtiêng, Chơ-ro, Ra-glai) cũng nổi tiếng với
những kĩ năng làm đồ thủ công truyền thống.
Đồ thủ công từ gỗ thường là những vật dụng hàng ngày, bao gồm: dụng cụ bắt cá
(giỏ, bẫy, cũi), và các vật dụng: nỏ, xiên, cung, mũi tên, tẩu thuốc, bát, thìa, lược.
Một vài cộng đồng dân tộc thiểu số cũng bảo tồn những dụng cụ âm nhạc nghệ
thuật tự tạo như: đàn luýt, sáo, đàn trumpet, đàn môi, và …. được sản xuất từ nhiều
nguyên liệu tự nhiên khác nhau, kể cả vỏ quả bầu và tre.
Các cộng đồng dân tộc Mường, Khơ-mú, Lô Lô, Pu Péo của miền bắc xa xôi tiếp
tục sử dụng trống đồng trong những dịp lễ hội vv..
f. Ưu tiên nghiên cứu, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng hoặc công nhận các di sản văn

hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật
về di sản văn hóa.
g. Xây dựng các đề án, chương trình kiểm kê, nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản,
trưng bày, tuyên truyền các di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc
thiểu số.
Để tạo điều kiện cho việc phát triển và bảo tồn văn hoá dân tộc, Đảng và Nhà
nước ta đã có những chính sách đúng đắn và phù hợp, góp phần nâng cao đời sống
văn hoá tinh thần của người dân. Riêng ở Kiên Giang, Nhà nước đã quan tâm giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện để nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho đồng bào
các dân tộc trong tỉnh, nhất là đối với người Khmer đã có những ưu đãi rất đặc
biệt. Bằng chủ trương chính sách và sự đầu tư cụ thể, trong khoảng 10 năm gần
đây, vùng biên giới và vùng đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Kiên Giang đã có
những biến đổi quan trọng trên các mặt kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc
phòng. Đời sống của đồng bào Khmer ở Kiên Giang đã được cải thiện một bước
6


đáng kể. Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, có nhiều chủ trương đã được triển khai,
nhất là việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.
Để văn hóa truyền thống dân tộc Khmer được bảo tồn, phát huy tốt hơn, những
năm qua, các công trình điều tra, sưu tầm, nghiên cứu và phát huy vốn văn hoá vật
thể và phi vật thể của đồng bào dân tộc Khmer cũng được quan tâm thực hiện.
Cụ thể, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo thực hiện các công trình
nghiên cứu như sau: Phim tài liệu khoa học “Lễ tang, lễ cưới truyền thống của
người Khmer”; Phim tài liệu “Lễ hội Okombok”- nét sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng người Khmer ở Kiên Giang (2007); Phim tài liệu: U Minh Thượng – nét đẹp
văn hóa (2006); Sách nghiên cứu “Người Khmer trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam ở Kiên Giang”, Sách “Người Khmer ở Kiên Giang”. Năm 2012, Sở Văn hóa
Thể thao và Du lịch Kiên Giang cũng triển khai đề tài nghiên cứu khoa học: “Xây
dựng mô hình Câu lạc bộ thanh niên Khmer học tập kỹ năng phát triển kinh tế gia

đình và thực hiện nếp sống văn minh tại huyện Gò Quao”. Mục tiêu nhằm giúp
thanh niên Khmer xã Định Hòa huyện Gò Quao nâng cao năng lực kiến thức và kỹ
năng nghề nghiệp để phát triển gia đình. Đồng thời biết cách tổ chức các hoạt động
vui chơi giải trí bổ ích, xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh, góp phần phát triển
kinh tế xã hội. Kết quả đã thành lập được 1 mô hình Câu lạc bộ với 20 thành viên,
từ mô hình thí điểm này mở ra triển vọng có thể nhân rộng ra các xã có đông đồng
bào dân tộc Khmer trong tỉnh.
2.Hỗ trợ việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số
Trong tình hình hội nhập với trong nước và thế giới, việc biết nhiều thứ tiếng ngoài
tiếng mẹ đẻ là cần thiết. Ai cũng có quyền sử dụng ngôn ngữ dân tộc khác, nếu
ngôn ngữ đó cần thiết cho sự thành đạt. Nhưng ở nước ta hiện nay có không ít các
bộ phận người dân tộc thiểu số chỉ muốn sử dụng tiếng Việt, bỏ tiếng dân tộc mình.
Hiện tại có ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số đã có dấu hiệu suy thoái. Một số
gia đình ở vùng cao dạy con cái từ khi sinh ra nói tiếng phổ thông, không nói tiếng
mẹ đẻ. Đấy là điều rất kỳ cục, nguy hiểm cho tương lai của đứa bé và cho cả dân
tộc đó. Con cái của họ lớn lên sẽ nói một thứ ngôn ngữ hổ lốn tạp pí lù, tiếng Việt

7


và tiếng dân tộc lẫn lộn, tất yếu dẫn đến sự suy giảm trí tuệ của thế hệ sau. Bởi vì,
đối với con người đòi hỏi cần phải nắm vững đầy đủ ngôn ngữ cụ thể để tư duy.
Có một thực tại là hiện nay người miền núi nói tiếng phổ thông thường hay lẫn lộn
về quy tắc, còn khi họ nói tiếng dân tộc thì đế bằng tiếng phổ thông. Đây là nguyên
nhân dẫn đến tư duy không mạch lạc, hành văn viết ra sẽ lủng củng sai ngữ pháp.
Nhưng nếu con cái họ được dạy từ bé sử dụng ngôn ngữ dân tộc, khi lớn lên sẽ học
tiếng phổ thông, chắc chắn khả năng sử dụng cả hai ngôn ngữ sẽ tốt như nhau.
Ngôn ngữ của mỗi dân tộc không phải đơn giản chỉ là phương tiện để thông tin mà
ngôn ngữ còn hàm chứa trong đó rất nhiều các yếu tố huyền bí của văn hóa của
riêng từng dân tộc. Ngôn ngữ chỉ linh thiêng khi nó là tiếng mẹ đẻ. Tất cả các pháp

thuật, bùa chú, lời sấm, lời nguyền… chỉ thiêng với người nói bằng tiếng mẹ đẻ.
Liên hợp quốc đã khuyến cáo các dân tộc thiểu số trên thế giới cần phải dạy cho
con trẻ nắm chắc ngôn ngữ của dân tôc mình rồi mới học các ngôn ngữ khác
a.Hỗ trợ việc nghiên cứu, sưu tầm, khôi phục tiếng nói và chữ viết của các dân tộc
thiểu số theo quy định của pháp luật
Mỗi dân tộc có tiếng nói chữ viết riêng, quyền bình đẳng và tự do phát triển ngôn
ngữ của mỗi dân tộc. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ đã đã chỉ rõ:
“Tiếng nói, chữ viết và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được đưa vào
chương trình giảng dạy trong các trường phổ thông, trường phổ thông dân tộc nội
trú, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, trường dạy
nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với địa bàn vùng dân
tộc”.
Việt Nam hiện có 54 dân tộc anh em, trong đó khoảng 30 dân tộc thiểu số có chữ
viết, tiêu biểu như: Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na,
Xơ Đăng, Cơ Ho, Chăm, Mnông... Hiện nay đã có một số ngôn ngữ, chữ viết dân
tộc thiểu số được sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng từ trung ương
tới địa phương, như: Tày, Thái, Dao, Mông, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Chăm,
Khmer… Cả nước hiện có trên 30 tỉnh, thành phố đang tổ chức dạy tiếng nói và
chữ viết dân tộc thiểu số. Nhiều địa phương đã triển khai thực hiện dạy tiếng dân
tộc cho học sinh trong trường phổ thông đạt kết quả tốt.hóa.
b. Tổ chức các hình thức giao lưu văn hóa, văn nghệ các dân tộc;
Khuyến khích và tạo điều kiện cho nghệ nhân các dân tộc thể hiện những tiết mục
bằng tiếng dân tộc mình; tổ chức thi hát dân ca, kể chuyện, đặt lời mới cho làn điệu
dân ca, hát những bài hát mới có lời bằng tiếng dân tộc thiểu số.
c. Ưu tiên tổ chức xuất bản sách, báo của ngành bằng tiếng dân tộc thiểu số hoặc
bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số; hỗ trợ cấp sách, báo, tạp chí cho thư
viện công cộng vùng dân tộc thiểu số.
d. Tổ chức sáng tác văn học nghệ thuật bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số,
dịch các tác phẩm có nội dung phù hợp từ tiếng Việt sang tiếng dân tộc thiểu số;


8


ưu tiên đầu tư kinh phí cho các sáng tác mới và tổ chức phổ biến bằng tiếng dân
tộc thiểu số; khuyến khích việc sáng tác các tác phẩm bằng tiếng mẹ đẻ trong giới
văn nghệ sỹ người dân tộc thiểu số.
e. Ưu tiên sản xuất phim có thuyết minh hoặc lồng tiếng dân tộc thiểu số, băng
hình có lời thuyết minh giới thiệu bằng tiếng dân tộc, băng, đĩa ca nhạc bằng tiếng
dân tộc thiểu số.
* Đồng bào Khmer ở Kiên Giang
Hiện trong toàn tỉnh có 5 trường dân tộc nội trú với tổng số học sinh là 1.369
em. Hàng năm, Sở Nội vụ đều mở lớp học tiếng Khmer cho cán bộ người Kinh
theo học tiếng Khmer để thuận lợi trong giao tiếp. Hỗ trợ nghiệp vụ và tạo điều
kiện cho các điểm chùa mở lớp học chữ Khmer cho con, em người dân tộc. Nhằm
duy trì và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào Khmer, hầu hết các chùa Khmer
trong tỉnh đều mở lớp dạy chữ Khmer trong nhà chùa. Công tác vận động, tuyên
truyền trong đồng bào dân tộc về xóa mù chữ, nâng cao dân trí được chú trọng
hơn, chương trình dạy song ngữ cho con em đồng bào Khmer được quan tâm
thường xuyên ở các trường dân tộc nội trú và một số chùa Khmer. Để bảo tồn và
phát huy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu trong trong tỉnh, những năm qua
ngành Văn hóa đã xuất bản và phát hành các ấn phẩm văn hóa – thông tin bằng
tiếng dân tộc. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên
truyền kịp thời đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh Kiên Giang hàng ngày có phát sóng chương
trình tiếng Khmer. Bộ đội Biên phòng có chương trình “Đẩy mạnh, nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa thông tin tạo điều kiện cải thiện một bước đời
sống văn hóa tinh thần cho đồng bào các dân tộc trên tuyến biến giới, biển đảo,
vùng sâu, vùng xa”.
3.Ưu tiên xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa phục vụ đồng bào các dân tộc.
Ưu tiên đầu tư, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, hỗ trợ trang thiết bị, phương

tiện phục vụ vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo các chương trình, đề án đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Hỗ trợ kinh phí theo phân cấp quản lý để thực hiện các hoạt động sau:
Tổ chức trưng bày, triển lãm các sản phẩm kinh tế - văn hóa;
Trang bị máy chiếu phim cho các Đội chiếu phim lưu động;
Đầu tư trang thiết bị, sách, báo cho hệ thống thư viện công cộng để luân chuyển
phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
*Đồng bào Khmer ở KG
Các thiết chế văn hóa vùng đồng bào dân tộc Khmer từng bước được đầu tư, hoàn
thiện. Về cơ bản đã đưa được các hoạt động văn hóa về cơ sở phục vụ cho đồng

9


bào vùng sâu, vùng xa có đông đồng bào dân tộc Khmer. Hiện nay, nhiều xã đã có
trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, đội thông tin lưu động, nhà truyền thống, thư viện,
đội văn nghệ quần chúng, bưu điện văn hóa xã... Ngân sách địa phương cũng đã
cấp 5 tỉ đồng để xây dựng 5 trung tâm văn hóa làm mô hình thí điểm cho các xã
Long Thạnh (Giồng Riềng), Tân Hiệp A (Tân Hiệp), Mỹ Đức (Hà Tiên), Đông
Hưng A (An Minh), Vĩnh Hiệp (Rạch Giá).
Tỉnh đã hỗ trợ đầu tư đóng mới 23 ghe ngo và trang bị 08 dàn nhạc ngũ âm cho các
chùa Khmer trị giá trên 2,5 tỷ đồng. Ngành Văn hóa Kiên Giang trong thời gian
qua đã cấp hàng chục bộ âm thanh, nhạc cụ cho đội văn nghệ quần chúng ở các xã
và chùa Khmer trong tỉnh, giúp đồng bào có điều kiện, phương tiện nhạc cụ để tập
luyện và biểu diễn. Riêng Thành phố Rạch Giá đã đầu tư hơn 220 triệu đồng đóng
2 ghe ngo, khôi phục các đội văn nghệ dân tộc; Kiên Lương thành lập Đội Văn
nghệ Khmer xã Bình An, đầu tư mua sắm trang thiết bị trị giá hơn 100 triệu đồng
Các hoạt động văn hoá thể thao được tổ chức trong nhà chùa cũng khá phong phú,
đa dạng. Đó là văn nghệ Rôbăm (kịch múa) Dùkê (kịch hát) Aday (hát đối) múa
Lămthon, nhạc ngũ âm, trống Chhây yăm…. Thể thao có chơi cờ Ôc, nhảy bao,

kéo co, bóng chuyền, đặc biệt là ghe ngo mang danh nghĩa của Chùa chứ không
mang danh nghĩa của địa phương. Thanh niên trai tráng trong các Phum, Sóc
thường được tập trung về chùa sau giờ lao động mệt nhọc, vui chơi giải trí sinh
hoạt và tổ chức các hoạt động xã hội khác. Nhà chùa đã thực sự trở thành một
Trung tâm sinh hoạt văn nghệ thể thao góp phần phát huy vốn văn hoá truyền
thống trong XDĐSVH và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào.
4.Bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống của các dân tộc.
Kiểm kê, chọn lọc và hướng dẫn đồng bào dân tộc thiểu số phục dựng các lễ hội
truyền thống tiêu biểu, trò diễn dân gian phù hợp với thuần phong mỹ tục và tình
hình thực tế ở địa phương tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của lễ hội truyền thống.
Ở các làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn… vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được
Nhà nước quan tâm hỗ trợ để xây dựng các Nhà văn hoá, Nhà Rông, Nhà Gươl văn
hoá… làm nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hoá - văn nghệ và hội họp
chung của cộng đồng; Công tác đào tạo đội ngũ những người hoạt động văn hoá,
nghệ thuật vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa được chú trọng bước
đầu; Một số di sản văn hoá của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn vinh,
đặc biệt Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được Tổ chức Văn hoá,
Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn
hoá phi vật thể đại diện nhân loại; Tăng cường giao lưu văn hoá qua các hoạt động

10


mang tính chất vùng, miền góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá dân tộc,
góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Khuyến khích việc phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài các lễ hội truyền
thống các dân tộc thiểu số có giá trị tiêu biểu như:
+ Lễ cúng tổ tiên của người Lô Lô ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang
là di sản văn hoá phi vật thể thuộc loại hình Tập quán xã hội và tín ngưỡng, đã

được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn
hoá phi vật thể quốc gia năm 2012. Đây là một nghi lễ cổ truyền của người Lô Lô,
thường được tổ chức hàng năm vào ngày 14 tháng 7 (Âm lịch) tại các gia đình
trưởng họ.
+ Lễ Cấp Sắc của người Dao
Người Dao quan niệm, đàn ông nếu chưa trải qua lễ cấp sắc thì dù già vẫn coi là trẻ
con vì chưa có thầy Cấp sắc, chưa được cấp đạo sắc, chưa có tên âm. Người đã qua
Cấp sắc dù ít tuổi vẫn được coi là người trưởng thành, được tham gia vào các công
việc hệ trọng của làng, được giúp việc cho thầy cúng, được cúng bái.
Đó là các Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Ngày hội văn
hóa dân tộc Mông, dân tộc Chăm, dân tộc Khmer… Tạo điều kiện để đồng bào các
dân tộc thiểu số được giao lưu, học hỏi, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thắt chặt
tình đoàn kết các dân tộc, đồng thời với việc làm cho nhiều giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của các dân tộc tiếp tục được khơi dậy, bảo tồn và phát huy trong đời
sống cộng đồng.
* Đồng bào Khmer ở KG
Công tác tổ chức và quản lý lễ hội có nhiều chuyển biến tích cực, việc triển khai
Quy ước thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội và hoạt
động tín ngưỡng tôn giáo nơi thờ tự, bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan… đã tạo được
sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Các lễ hội
truyền thống tiêu biểu như: Lễ hội Chôl-Chnăm-Thmây, Đôl-Ta, Ok-Om-Bók của
người Khmer luôn được các cấp chính quyền địa phương và cơ quan chủ quản
quan tâm tạo điều hiện thuận lợi. Hàng năm tổ chức Ngày hội Văn hóa – Thể thao
và Du lịch dân tộc Khmer vào tháng 10 âm lịch tại Gò Quao tạo nên bầu không khí
vui tươi, lành mạnh, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Khmer.
Việc sân khấu hóa các lễ hội như hiện nay đã làm mất đi phần nhiều các giá trị
nhân bản của truyền thống. Nguồn gốc của các lễ hội là bắt đầu từ lao động sản
xuất, mô phỏng và cách điệu hóa các động tác lao động sản xuất để cho cuộc sống
tinh thần được thăng hoa. Sân khấu hóa lễ hội chính là đã làm ngược lại quy luật
của tự nhiên, tước đi tính đánh thức con người bản thể là đặc điểm quan trọng của

lễ hội.

11


Thông thường lễ hội ở mỗi nơi đều có tính chất và ý nghĩa khác nhau, một làng
bản muốn thể hiện được sự thăng hoa của làng bản mình đều phải thể hiện qua lễ
hội. Đối với một lễ hội truyền thống, quan trọng nhất là giữ gìn sự độc đáo riêng.
Nếu lễ hội bị sân khấu hóa thì sẽ mất đi sự độc đáo đó. Phải có lễ hội độc đáo thì
khách du lịch và người các nơi mới đến xem. Thử hỏi, nếu nơi nào cũng tổ chức
một kiểu lễ hội như nhau thì ai cần đến sự đơn điệu tẻ nhạt đó. Cũng trong các lễ
hội, người ta thường tổ chức các cuộc thi tài năng, việc trao giải thưởng bằng tiền
thay cho hiện vật như trước đây cũng làm mất đi một phần giá trị của lễ hội. Thông
thường mỗi lễ hội, bao giờ cũng có một loại phần thưởng gắn với nguồn gốc của lễ
hội đó, có thể phần thưởng không có giá trị cao về mặt kinh tế nhưng có giá trị tinh
thần rất lớn.
Việc sân khấu hóa lễ hội từ trung ương đến các địa phương để truyền hình trực tiếp
như hiện nay sẽ góp phần làm méo mó và mất đi tính nhân bản của lễ hội. Nhiều lễ
hội tổ chức ở miền núi rồi truyền hình lên vệ tinh nhưng không thấy sự đặc của văn
hoá miền núi vùng cao, người đạo diễn đã bỏ qua văn hoá dân tộc thiểu số.
*Du lịch
1. Hội Roóng Poọc của người Giáy
Hàng năm vào ngày Thìn tháng Giêng âm lịch người Giáy ở Tả Van (huyên Sapa)
lại mở hội Roóng Poọc để cầu mùa màng bội thu, người yên vật thịnh, mưa thuận,
gió hoà.
Tuy vốn là lễ hội dân tộc truyền thống của người Giáy ở Tả Van, nhưng nhiều năm
nay đã lan rộng, trở thành lễ hội chung của cả vùng thung lũng Mường Hoa. Từ
sáng sớm, làn sương còn giăng mù mịt từng đoàn người tíu tít nói cười trong mây,
hồ hởi về dự hội. Người Mông từ Hầu Thào, Lao Chải dồn xuống, người Dao từ
Bản Hồ, Bản Phùng ngược lên, du khách từ thị trấn SaPa cũng tới dự làm cho lễ

hội đông vui tới vài nghìn người.
Địa điểm mở hội là một khu ruộng tương đối bằng phẳng phía đầu bản. Trung tâm
hội dựng cây còn cao vút bằng cây mai có một vòng tròn trên ngọn. Vòng tròn đó
một mặt dán giấy đỏ tượng trưng cho mặt trời, một mặt dán giấy vàng tượng trưng
cho mặt trăng. Mâm cúng của thầy mo gồm các lễ vật tượng trưng cho sự no ấm
như : vải, trứng , măng , bạc trắng và 6 qủa còn của các cô gái chưa chồng.
Mở đâu lễ hội là cúng thần linh cầu cho người yên, vật thịnh. Khi lễ cúng kết thúc
là dàn nhạc trống, chiêng điệu kèn pí lè tấu lên thông báo các chò chơi mang tính
nghi lễ tượng trưng bắt đầu.
Mở đầu là chò chơi ném còn. Những người cao tuổi (nam một bên, nữ một bên) lấy
6 quả còn cùng ném tượng trưng 3 lần khai mạc, rồi sau đó mọi người vào cuộc
12


chơi. Những quả còn tua xanh đỏ vun vút lao len phông còn.tiếng xuýt xoa hò reo
cổ vũ rền vang.Phông còn bị ném thủng là báo hiệu cho một năm mùa màng tươi
tốt.
Cùng với ném còn là chơi kéo co cũng bắt đầu bằng hình thức kéo nghi lễ. Tốp
nam đứng phía đông cầm phần gốc dây song (dây kéo co).Tốp nữ đứng phía tây
cầm phần ngọn. Hồi trống kèn nổi nên thùc giục.Bên nam(đằng đông tượng trưng
cho dương, mặt trời) luôn kéo thắng. Bên nữ (tượng trưng cho âm) giả vờ thua. Và
như vậy, năm đó cả làng sẽ được mùa. Phần nghi lễ kết thúc, đông đảo nam nữ
thanh niên cùng ùa vào chia phe thi kéo, kể cả du khách cũng có thể tham gia.
Các trò chơi đang tiếp diễn, thì những đôi nam nữ lặng lẽ rút khỏi cuộc chơi tìm
góc vắng tâm tình qua đàn môi, tiếng khèn, lời hát. Ngày hội rồi cũng đến hồi kết
thúc, các già làng làm lễ khấn và hạ cột còn. Hai thanh niên khoẻ mạnh cùng 2 con
trâu mộng được chọn cầy 5 đường “xuống đồng” tượng trưng cho vụ mùa mới bắt
đầu.
2. Lễ hội “Nào Cống”
Hàng năm vào ngày Thìn, tháng 6 âm lịch, các làng người Mông, người Dao,

người Giáy ở Mường Hoa đều tụ tập về miếu thờ ở bản Tả Van làm lễ “Nào Cống”.
Mỗi gia đình cử một người đại diện (có thể là chồng hoặc vợ), không phân biệt
nam, nữ, già, trẻ. Lễ Nào Cống trông coi các thần hộ trì người yên vật thịnh, mùa
màng bội thu. ngoại giả, trong lễ hội, những người đứng đầu sẽ ban bố những bản
quy ước chung và kết thúc bằng buổi ăn uống vui vẻ.
3. Lễ Tết nhảy
Tết nhảy là lễ hội quan yếu và được chuẩn bị khá công phu của người Dao ở Tả
Van, thường được tổ chức vào ngày mùng 1 hoặc mùng 2 Tết âm lịch. Nội dung
chính của buổi lễ là ngóng “Người yên vật thịnh”, “Uống nước nhớ nguồn”. Các
hoạt động tế lễ trong Lễ Tết nhảy khôn cùng đặc sắc với 14 điệu nhảy múa của một
số nam thanh niên được chọn, hay những lễ thức độc đáo do thầy cúng thực hiện…
4. Lễ hội “Nhặn Sồng” và “Nào Sồng”
Đây là Lễ hội của người Dao đỏ ở làng Giàng Tả Chải (Tả Van – Sapa) mang ý
nghĩa giáo dục cao với dân làng, phòng nạn phá rừng. hiện, chỉ năm nào rừng bị
phá nhiều, trâu ngựa thả rông phá vườn tược hoa mầu, người Dao mới tổ chức lễ
“Nhặn Sồng”. Trong buổi lễ, “Chẩu chiếu” – người đứng đầu nom rừng do dân
làng bầu ra đứng lên ban bố những điều luật ngăn chăn nạn phá rừng, trị những ai

13


vi phạm. Sau khi được dân làng luận bàn sẽ được Chẩu chiếu tổng hợp thành quy
ước riêng của làng, mọi người tự giác tuân theo.
Người Mông ở Séo Mí Tỷ, ở Dền Thàng Tả Van cũng như ở Lao Chải, Hầu Thào,
trước đây đều tổ chức lễ ăn ước hao hao gọi là lễ “Nào Sồng”, ngày cúng thường là
ngày Thìn của tháng giêng. Nội dung quy ước của lễ “Nào Sồng” có sự mở mang
phạm vi điều chỉnh hơn làng người Dao. Bên cạnh việc bảo vệ rừng, chống thả
rông gia súc, quy ước còn đề cập đến các vấn đề buồng ăn cắp, bảo vệ mùa màng,
tương trợ trợ giúp lẫn nhau..
5. Lễ quét làng của người Xá Phó

Hàng năm, người Xá Phó thường tổ chức lễ quét làng vào ngày ngọ, ngày mùi
hoặc ngày con người (à thá cũng) vào tháng hai âm lịch với mục đích để năm mới
mọi người được bình yên, hoa màu tốt tươi, súc vật nuôi không bị ốm chết. Trong
lễ quét làng, mọi người góp lợn, gà, dê, chó, gạo… để làm mâm cúng các loài ma
(theo quan niệm của người Xá Phó), thầy cúng làm lễ, cùng dân làng vẽ mặt nhảy
múa ngóng bình yên. Cuối buổi lễ, mọi người cùng nhau ăn uống vui vẻ. Các thức
ăn cúng ma đều phải ăn hết không được mang vào trong làng.
6. Hội Gầu Tào của người Mông
Hội Gầu Tào là lễ hội quan yếu của người Mông. Lễ hội mở ra nhằm một trong hai
mục đích cầu phúc hoặc cầu mệnh. Một gia chủ nào đó không có con, thưa con
hoặc sinh con một bề, sẽ làm lễ nhờ thầy cúng bói xin cho mở hội Gầu Tào nhằm
nhóng có con – đó là hội cầu phúc. Một gia chủ khác nếu thường ốm đau bệnh tệt,
con cái yếu ớt, thậm chí có con bị chết, mùa màng, vật nuôi lụi dần, cũng nhờ thầy
cúng bói xin mở hội Gầu Tào – đó là hội cầu mệnh. Lễ hội cũng thường được tổ
chức dịp đầu năm.
7. Lễ hội Xuống đồng Sapa – Lào Cai
Lễ hội xuống đồng đầu xuân của đồng bào dân tộc Tày, Dao xã Bản Hồ- Sa Pa
(Lào Cai) khai hội sáng ngày mồng 8 Tết ( ngày 2/2) đã thu hút rất đông nhân dân
địa phương và du khách thập phương, có rất nhiều khách du lịch nước ngoài đã đến
dự vui và khám phá nét văn hoá đặc sắc của đồng bào vùng núi cao phía bắc.
Phần lễ được bắt đầu từ tục rước đất, rước nước. Đoàn rước bao giờ cũng đi từ rất
sớm khi trời còn chưa rõ mặt người. Trong đoàn gồm có: thầy cúng, đội trống, đội
khèn, hai đôi nam nữ chưa vợ chưa chồng khiêng kiệu rước. Kiệu rước được trang
trí sặc sỡ nhiều mầu theo biểu tượng âm dương ngũ hành. Đi đầu đoàn rước là thầy

14


cúng, người được dân bản giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh, trên
tay thầy cầm cây nêu biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở. Đi sau là kiệu rước nước,

nước được đựng trong hai ống bương to một ống bố và một ống mẹ. Tiếp đến là
kiệu rước đất, đất thiêng được lấy từ trên núi cao gọi là đất mẹ.
Sau đó là các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn (bên
trong các quả còn có đựng các hạt giống), mâm xôi 7 màu, bánh dày ngũ sắc và thủ
lợn, gà luộc, hoa quả… Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để
thầy cúng giao linh với thần linh. Khi đoàn rước về đến địa điểm làm lễ, thầy cúng
ra hiệu cho đội nhạc lễ tấu lên ba hồi kèn trống vang vọng cả núi rừng, trời đất, tiếp
đó thầy cúng thực hiện nghi lề cúng. Thầy khấn và phun nước làm phép để xua
đuổi ma quỉ, xua đuổi điều không may, rồi thầy tung lộc (là các hạt giống) của thần
linh cho dân bản.
Phần hội được bắt đầu bằng các điệu múa và các tiết mục văn nghệ dân gian đặc
sắc của người Tày, người Dao. Nhưng nổi bật nhất, vui nhất, nhiều người tham gia
nhất là những màn xoè, khi tiếng kèn trống vang lên các cô gái Tày mở đầu màn
xoè với những động tác xoè duyên dáng, điệu nghệ mời mọi người tham gia, vòng
xoè cứ rộng mãi đi đều trong tiếng kèn, tiếng trống dập dìu.
Khi các màn xoè kết thúc mọi người lại đổ tới khu chơi trò chơi. Các trò chơi ở
đây đa số là trò chơi dân gian. Đầu tiên là trò chơi ném còn, hai đôi nam thanh nữ
tú được vinh dự ném quả còn đầu tiên, sau đó tất cả mọi người đều được tham gia.
Trò chơi ném còn được tiếp tục cho đến khi quả còn được ai đó ném qua vòng.
Tiếp theo là các trò chơi như đẩy gậy, kéo co, đánh quay, đánh bóng, bịt mắt bắt dê,
leo cột mỡ…
Hội xuống đồng Bản Hồ- Sa Pa tiếp thêm sinh lực mới cho người dân trong sản
xuất và xây dựng, gìn giữ bản sắc văn hoá.

• Bản sắc văn hóa miền núi: Những góc khuất
Bia thay rượu cần!
(Trích dẫn)
Nhiều lễ hội của đồng bào vùng cao thời gian gần đây ít thấy xuất hiện rượu cần,
nếu có cũng chỉ để “tượng trưng” cho phần lễ lạt. Có lần tôi dự lễ “đổ rượu cần”
truyền thống ở nhà ông Alăng T. (ở một thôn của huyện Đông Giang) và không

khỏi ngạc nhiên khi thấy ông kéo thùng bia Larue mời gia đình em rể. Bởi “đổ
rượu cần” là một tập tục đẹp trong đời sống văn hóa của đồng bào Cơ Tu, là dịp để
người chị (hoặc em) gái được đón về thăm nhà hằng năm kể từ khi về nhà chồng.
15


Tập tục này đã có từ rất lâu đời và ngày nay vẫn được đồng bào Cơ Tu gìn giữ khá
nguyên vẹn. Chỉ có điều, tập tục vẫn giữ nhưng cách thức thực hiện có nơi đã bị
“biến tấu”. Và lời giải thích “không có rượu cần nên phải lấy bia thay thế thôi” của
gia chủ, khiến tôi - một đứa con Cơ Tu không khỏi ngậm ngùi. Dù các nghi thức
đều thực hiện đầy đủ theo truyền thống, nhưng thú thật, tôi thấy lòng mình nặng
trĩu suốt cuộc vui hôm đó.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến rượu cần ngày càng vắng bóng ở các lễ hội, sinh
hoạt văn hóa của đồng bào. Nhưng điều đau lòng nhất là ngay chính đồng bào cho
rằng dùng bia tiện hơn nhiều so với ủ rượu cần với nhiều công đoạn rườm rà, tốn
công sức - Bản sắc mất ngay trong nhận thức của chủ thể văn hóa. Do vậy, ngoài
những dịp bắt buộc phải có rượu cần như lễ cưới, lễ cúng thần linh,… còn lại rất ít
khi đồng bào ủ rượu cần để sử dụng, kể cả trong những ngày Tết Nguyên đán như
trước đây. Không chỉ với đồng bào Cơ Tu, “văn hóa rượu cần” cũng dần vắng bóng
trong đời sống ẩm thực của đồng bào người Co, Ca Dong, Ve, Tà Riềng…
Hiện đại hóa lễ hội
Theo quan niệm của đồng bào các dân tộc thiểu số, mỗi dịp tổ chức lễ hội là mỗi
dịp báo cáo với Giàng về những sự kiện đã hoặc sắp sửa diễn ra của làng, gia đình
hoặc dòng tộc. Đây thường là những sự kiện lớn, có sức lan tỏa rộng trong đời
sống tâm linh của đồng bào. Đi kèm với các sự kiện bao giờ cũng có nghi lễ cúng
bái, tùy theo mức độ lớn nhỏ mà có đâm trâu hoặc chỉ mổ lợn, gà,... và làm đúng
theo nghi thức truyền thống. Tuy nhiên, thực trạng đáng buồn hiện nay là nhiều
không gian văn hóa, lễ hội của đồng bào đang dần bị hiện đại hóa về trang phục
truyền thống và đi ngược với bản sắc vốn có.
Bản sắc văn hóa Ơ Đu trước nguy cơ mai một

Người Ơ Đu cũng quan niệm thế giới bên kia giống người Thái, song ngoài các
then Luông, then Vi, then Bắc còn có thêm then Na cai quản ruộng nương vì họ
cho rằng những người bị hổ báo ăn thịt hoặc mất tích trong rừng là do then Na bắt
đi làm người hầu trông coi ruộng nương. Người Ơ Đu cũng kiêng không được xoa
đầu trẻ con vì họ cho rằng, nếu làm vậy linh hồn sẽ sợ đi mất, trẻ con sẽ ốm đau.
Theo chế độ phụ quyền nên người đàn ông Ơ Đu có quyền quyết định tất thảy mọi
việc trong nhà, phụ nữ không được hưởng thừa tự.
Những năm qua, để bảo tồn văn hóa truyền thống của tộc người Ơ Đu, ngành văn
hóa huyện Tương Dương đã mở lớp dạy tiếng Ơ Đu bằng hình thức truyền miệng,
nhưng việc bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn do người dân Ơ Đu chưa có ý thức
dùng tiếng nói của mình để giao tiếp trong sinh hoạt. Điều đáng báo động là các
quan hệ xã hội, văn hóa của người Ơ Đu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa Thái,
Khơ Mú, như sử dụng thành thạo các nhạc cụ của hai dân tộc này, trang phục mặc
16


theo kiểu người Thái, người Kinh.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến không gian văn hóa, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, ngôn ngữ của người Ơ Đu đang bị mất dần, thay vào đó là không gian văn
hóa lai tạp với người Thái, người Khơ Mú là ở ý thức bảo tồn nòi giống của người
Ơ Đu còn nhiều hạn chế và nguồn lực đầu tư chưa có, phương pháp tiến hành bảo
tồn chưa đúng và thiếu đồng bộ. Nhất là việc bảo tồn và phát triển tộc người Ơ Đu
mới chỉ dừng lại ở mặt nâng cao đời sống vật chất, còn yếu tố văn hóa thì diễn ra
quá chậm, không hiệu quả.
Thiết nghĩ, để bảo tồn và phát triển văn hóa của tộc người Ơ Đu, rất cần có sự
quyết tâm từ Trung ương đến địa phương, trước hết là khôi phục lại không gian
văn hóa người Ơ Đu bao gồm quy hoạch lại bản Văng Môn theo cấu trúc không
gian làng bản truyền thống của người Ơ Đu cổ xưa và phục dựng một số lễ hội
quan trọng như lễ Chăm phtrong, lễ ăn cơm mới, rước hồn lúa và mừng nhà mới.
Về lâu dài, các cấp, các ngành cũng cần có cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển

kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất; bố trí sử dụng cán bộ tộc người Ơ Đu
đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học, trung học chuyên nghiệp để thông qua
đội ngũ này có thể bảo tồn được một tộc người đang đứng trước nguy cơ đánh mất
bản sắc văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của dân tộc mình...

III. Đánh giá
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực văn hoá ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cấp bách cần khắc
phục, những nhu cầu bức thiết cần phải giải quyết. Đời sống kinh tế- xã hội của các
dân tộc thiểu số rất ít người (dưới 5.000 người và dưới 10.000 người) đều rất khó
khăn so với các dân tộc có số dân đông hơn. Trong đó, vấn đề đặc biệt cấp bách đặt
ra là bản sắc văn hóa của các tộc người này bị mai một nhanh chóng. Thậm chí có
dân tộc (như người Ơ Đu) ít tìm được các nét văn hóa đặc trưng.
Nhiều chính sách được thực hiện thông qua những dự án, đề án, và chương trình
mục tiêu quốc gia còn chưa thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của văn hóa/chính
sách văn hóa đối với các chính sách cũng như biện pháp phát triển kinh tế- xã hội ở
vùng các dân tộc thiểu số và đối với các dân tộc thiểu số; Sự chênh lệch về hưởng
thụ văn hoá còn lớn: Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây,
vùng biên giới, hải đảo, hoạt động văn hoá còn nghèo nàn, sự chênh lệch về hưởng

17


thụ văn hoá so với thành thị còn lớn; Đầu tư của Nhà nước cho bảo tồn văn hoá
còn thấp và manh mún, đặc biệt đầu tư bảo tồn và phát triển văn hoá vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do chính sách
khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực; Vai trò của chủ thể, của người dân, của
cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây dựng

dự án cũng như triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở đối với các
dự án nói chung và các chương trình, dự án về văn hoá, ảnh hưởng tới chất lượng
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số Việt Nam; Đội
ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn
thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực là người dân tộc thiểu số. Người
có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính sách, biện
pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học sinh các dân tộc
thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt trong việc bảo tồn và
phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; Di sản văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam
đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và
phát triển.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu,
đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng Then của các dân tộc
Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng nghìn làng, bản, buôn…
truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc (kiến trúc, trang phục
dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền thống, các làn điệu dân ca, dân
vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến mất theo xu hướng kiên cố hoá, hiện
đại hoá hoặc do tác động mặt trái của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh chóng
được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại.
Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá nhìn chung vẫn ở
tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn thấp. Việc
đưa văn hoá, văn nghệ đến phục vụ đồng bào các dân tộc tuy đã có cố gắng nhưng
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn
thiếu các sản phẩm văn hoá, nhất là các sản phẩm văn hoá có nội dung và hình
thức phù hợp với trình độ và thị hiếu của đồng bào.
Toàn cầu hoá hiện nay đang diễn ra với một tốc độ cực kỳ nhanh chóng về mọi mặt, đã lôi kéo tất cả các quốc
gia dân tộc trên hành tinh vào vòng xoáy của nó. Đất nước ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đang chủ động từng bước hội nhập với khu vực và thế giới.Trước bối cảnh đó, bên cạnh tập trung giải
quyết các vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá

truyền thống các dân tộc ở thiểu số là một nhiệm vụ quan trọng góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa
dạng, thống nhất, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

18


IV. Nguyên nhân
Những bất cập trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản và then chốt:
+ Nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của việc bảo tồn, phát triển
văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa đúng,
chưa thật đầy đủ, chưa thống nhất cao;
+Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số đã
được thể chế hoá, nhưng từ văn bản đến hiện thực vẫn còn nhiều khoảng cách mà
nguyên nhân là thiếu sự tương thích giữa bảo vệ, giữ gìn với phát huy phát triển.
Điều này có nguyên nhân sâu xa từ chỗ chưa có sự đồng thuận của những chủ thể
văn hóa;
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn rất
thiếu, trình độ không đồng đều, nhiều nơi còn rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu
công tác trong tình hình mới;
+ Nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng; chưa làm rõ nhiều
vấn đề có liên quan đến văn hoá, đặc biệt là văn hoá các dân tộc thiểu số trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những giá trị
truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan
hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn hoá
và kinh tế… còn lúng túng.
Các chính sách về văn hóa dân tộc thiểu số từ trước đến nay đều chung chung,
mang tính chất ứng phó hơn là tính chiến lược lâu dài. Không có chính sách riêng
để phát triển văn hóa của từng dân tộc. Xoá nhoà sự độc đáo đặc sắc của mỗi dân
tộc. Sự kỳ thị văn hóa dân tộc thiểu số luôn thể hiện trong chính sách: văn hóa dân
tộc thiểu số ở miền núi luôn bị coi là lạc hậu, phải đem ánh sáng từ miền xuôi lên

để soi sáng cho vùng cao… Đây là sự thể hiện nhận thức hạn chế của người soạn
chính sách và vô tình đã hạ thấp văn hóa của các dân tộc thiểu số. Trên thực tế, văn
hóa của các dân tộc thiểu số có rất nhiều điểm mạnh, không ít cuộc thi nghệ thuật
và giao lưu văn hoá quốc tế, văn hóa dân tộc thiểu số đã đem về cho cả nước nhiều
thành tích rất đáng tự hào.
Đã nhiều năm, họat động văn hóa của ngành văn hoá tổ chức thường chỉ lặp đi lặp
lại một vài hoạt động: lễ hội cồng chiêng, lễ hội lồng tồng, liên hoan dân ca, triển
lãm trang phục, triển lãm ẩm thực, gần đây thi hoa hậu các dân tộc… Từ trung
ương đến địa phương cùng một kiểu làm rập khuôn giống nhau, năm nào cũng
giống năm nào, không sáng tạo cái mới. Nhu cầu thưởng thức văn hóa của người
dân sẽ không chấp nhận sự nhàm chán đó, cuộc sống luôn cần những cái mới hơn.
Điều cần thiết nhất cho việc phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi hiện
nay là phải có các chính sách đúng đắn mang tính chiến lược. Phải khắc phục ngay
tình trạng văn hóa đang theo xu hương rơi tự do. Tại sao sau bao năm các cơ quan
19


trung ương và các tỉnh tổ chức thi hát dân ca, liên hoan dân ca, liên hoan lễ hội…
nhưng các dân tộc thiểu số vẫn chưa có một bản băng đĩa dân ca đúng nghĩa để
nghe. Sự suy thoái về thuần phong mỹ tục vẫn tiếp diễn không được ngăn chặn,
các bản nhà sàn bị dỡ bỏ hàng loạt đem về xuôi nhưng các cấp chính quyền đều bỏ
mặc, để miền núi hiện nay mất gần hết nhà sàn, hay là các trò chơi dân gian rất đặc
sắc cũng bị biến mất. Biết bao pho sách quý và các loại chữ viết cổ của Tày, Thái,
Chăm không được tổ chức sưu tầm, dịch thuật và truyền dạy cho thế hệ sau. Chữ
Nôm Tày hiện nay chỉ còn có vài ba người biết đọc biết viết, trong khi đó kho sách
Nôm Tày rất khổng lồ, bao gồm các lĩnh vực: văn học, y học, lịch sử, địa lý, thiên
văn, phong thuỷ, gia huấn, cúng tế, phép thuật...
Chính sách phát triển văn hóa cho miền núi trong thời gian tới dứt khoát phải định
hình hướng đi cho từng dân tộc một cách cụ thể. Nếu chính sách nào chỉ muốn xây
dựng văn hóa miền núi giống hệt như miền xuôi thì tức là vô hình chung là đã thủ

tiêu văn hóa các dân tộc thiểu số. Quan điểm đem ánh sáng văn hóa miền xuôi lên
miền núi chính là đã giết hại văn hóa dân tộc thiểu số.

IV. Giải pháp
+ Tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và các cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học về
văn hoá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đặc sắc của tỉnh; tổ chức thực hiện
có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá, quy hoạch, dự án phát
triển văn hoá.
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng
lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác văn hoá dân tộc; có chính sách,
cơ chế phát huy những người có uy tín, nghệ nhân, thế hệ trẻ của các dân tộc thiểu
số trong việc bảo tồn, phát huy văn hoá truyền thống;
+ Coi trọng và làm tốt công tác bảo tồn di sản văn hoá của các dân tộc; Thống kê,
lập hồ sơ các di sản văn hóa; khuyến khích tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
nghiên cứu, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; áp dụng
các biện pháp cần thiết của chính quyền các cấp để bảo vệ các giá trị văn hóa
truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền.
Có chính sách tạo điều kiện bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc.
Khuyến khích sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, thống kê, phân loại và lưu giữ các tác
phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân
gian...Khuyến khích việc duy trì những phong tục tập quán lành mạnh của các dân
tộc; phục hồi và phát triển các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu;
nghiên cứu và ứng dụng các tri thức về y, dược học cổ truyền; khôi phục và nâng
cao các lễ hội truyền thống ,bài trừ hủ tục có hại đến đời sống văn hóa của nhân
dân; chống các biểu hiện tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và các hoạt động

20



lễ hội; duy trì và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực, giá trị về trang phục truyền
thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.
+Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho văn học, nghệ thuật phát triển mạnh
mẽ, đa dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể
nghiệm. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xã hội hoá trên lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật để có nhiều công trình, nhiều sản phẩm văn hoá đáp ứng nhu cầu của công
chúng. Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và
có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.
+Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng
đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền
thống văn hoá trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp
nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thực hiện quyền làm chủ của
mình.
+ Tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc; cân đối phân bổ ngân sách thực hiện
các dự án thuộc Chương trình. Có chính sách hỗ trợ công tác bảo tồn, phát triển
văn hoá, công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hoá và văn nghệ sĩ các dân tộc
trong tỉnh; lồng ghép các chương trình đầu tư vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn
vào việc hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hoá để nâng cao mức hưởng thụ về
văn hoá cho đồng bào các dân tộc./.
+ Tổng rà soát, tái cơ cấu nguồn lực trong các chương trình, dự án trực tiếp và
gián tiếp tác động tới bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số theo hướng
ưu tiên các nhiệm vụ trọng tâm. Hỗ trợ bảo tồn khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo
vệ trước nguy cơ mai một văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người (đặc biệt 10 dân
tộc: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao),
định hình, phát triển văn hoá phù hợp ở những khu vực tái định cư các công trình
thuỷ điện, đồng thời với tập trung đào tạo nguồn nhân lực nòng cốt cho bảo tồn,
phát huy văn hoá dân tộc ở các cấp huyện, tỉnh, gắn bảo tồn, phát triển văn hoá dân
tộc với phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, ở địa phương;
+ Phối hợp giữa Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát

thanh và Truyền hình các địa phương xây dựng các chuyên mục tuyên truyền về
bảo tồn, phát triển văn hoá dân tộc thiểu số, ưu tiên sử dụng ngôn ngữ, chữ viết của
dân tộc có ngôn ngữ, chữ viết;
+ Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng cao đời sống văn
hóa cho vùng các dân tộc thiểu số, chú trọng các chính sách, chế độ khuyến khích
các nghệ nhân trao truyền di sản văn hóa, khuyến khích lớp trẻ tiếp thu các di sản

21


văn hóa, chính sách này lồng ghép với các chính sách ưu đãi đối với nghệ nhân
nhân dân và nghệ nhân ưu tú ở các dân tộc;
+ Nghiên cứu, định hướng, nhấn mạnh vai trò sáng tạo, xác lập hệ giá trị mới, phù
hợp đối với văn hoá các dân tộc thiểu số trong xu thế giao lưu, hội nhập, phát triển;
+Tăng cường giao lưu văn hoá, xây dựng các chương trình hoạt động, lễ hội, biểu
diễn văn hoá, nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, vùng và quốc gia định kỳ hằng năm
và cả giai đoạn 2011-2020 xuất phát và đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tinh
thần từ cộng đồng của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam hoà nhập với xu
thế phát triển chung của đất nước, dân tộc và thời đại.

Kết
Văn hóa dù là văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần cũng đều do con người sáng
tạo ra mới có. Quá trình sáng tạo có thể là trong thời gian rất dài, gắn với sự lịch
sử hình thành mỗi dân tộc. Văn hóa của các dân tộc thiểu số dù ở vùng núi Việt
Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, đồng bằng Nam Bộ hoặc ở đâu cũng
vậy, phải có chính sách đúng đắn và phù hợp. Trước đây bài trừ tận gốc các hình
thức cúng bái Tảo, Mo, Then… dẫn đến cấm hát then, cấm gảy đàn tính, đốt hết
sách cúng bái. Các chính sách cực đoan như vậy bây giờ đã hết thời. Hiện tại, văn
hóa các dân tộc thiểu số đang rất cần sự định hướng để phát triển lành mạnh và
ngày càng phong phú.

Một bài hát của một tác giả miền xuôi có câu “Cô giáo hiền như con nai rừng…”.
Cách ví von như vậy có thể đúng với người miền xuôi, nhưng hoàn toàn không
đúng với người miền núi. Bởi người miền núi có thành ngữ: “Nghịch như hươu
như nai”. Nếu đem cô giáo để ví với hươu nai thì chắc chắn học trò sẽ hiểu cô là
người hư hỏng. Bởi vì hươu nai là loài thú rừng hay phá họai mùa màng, giẫm nát
lúa ngô. Người miền núi sẽ không thể chấp nhận cô giáo “hiền như nai rừng”.
Chúng ta cần phát huy sự độc đáo của văn hoá mỗi dân tộc nhưng cũng rất cần sự
thông đạt lẫn nhau về văn hoá giữa các dân tộc để tránh làm văn hoá về miền núi
mà ví von như bài hát này.
Trước đây cũng như hiện nay, nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương xây
dựng Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa đa sắc tộc. Để thực hiện thành
công điều đó rất cần có sự trao đổi để hiểu biết lẫn nhau giữa người soạn thảo
chính sách với cộng đồng các sắc dân thiểu số.

……………………..……………

22



×