Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Bội chi ngân sách quản lý tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.92 KB, 27 trang )

BÀI TẬP NHÓM

MÔN QUẢN LÍ TÀI CHÍNH CÔNG
CHỦ ĐỀ: BỘI CHI NGÂN SÁCH

Lớp KH 14 Nhân sự 2
Nhóm sinh viên: Nhóm 1


Danh sách thành viên nhóm 1 – KH14NS2
TÊN
Đinh Thị Lan Anh
Lê Tú Anh
Nguyễn Minh Anh
Nguyễn Thị Lan Anh
Nguyễn Thị Quỳnh Anh
Nguyễn Thị Minh Châu
Vũ Thị Chi
Trịnh Thị Giang
Hoàng Thị Hải
Ma Thị Hằng
Đào Thị Hảo
Bùi Thị Hoa
Phan Thị Hoa
Chu Thị Hóa
Bàn Huy Hoàng
Liêu Thị Hồng
Trần Thị Huệ
Đàm Minh Hoàng
Đỗ Thị Hương
Quàng Thị Hương


Khương Văn Huy
Nguyễn Thị Thu Huyên
Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lê Thị Lam

CHỨC VỤ
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Trưởng nhóm
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên
Thành viên



MỤC LỤC
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH
1.1

Khái niệm……………………………………………………………………….

1.2 Cách xác định bội chi ngân sách nhà nước………………………………....
1.3 Phân loại bội chi ngân sách nhà nước………………………………………
1.4 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước……………………………….
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH HIỆN NAY
( GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 )
2.1 Thực trạng …………………………………………………………………….
2.2 Nguyên nhân…………………………………………………………………..
CHƯƠNG III: Giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước hiện nay
3.1 Nhận xét chung……………………………………………………………….
3.2 Giải pháp………………………………………………………………………
3.2.1 Tăng thu chi giảm thuế…………………………………………………….
3.2.2 Vay nợ nước ngoài …………………………………………………………
3.2.3 Vay tiền………………………………………………………………………
3.2.4 Tăng cường vai trò quản lý nhà nước ………………………………………
CHƯƠNG IV : KẾT LUẬN


CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH
1.1 Khái niệm
1.1. Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước được cơ
quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm nhằm thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. (Điều 1 Luật Ngân sách nhà nước
2002)
1.2. Bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách là chênh lệch dương giữa tổng số chi ngân sách nhà
nước thực tế và tổng số thu ngân sách nhà nước thực tế. Bội chi ngân sách nhà
nước trong thực tế người ta còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở
thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển. Tuy nhiên, ở mỗi nước, những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tình
trạng này có khác nhau.
Ví dụ 1: Thực tế bội chi ngân sách năm 2015
Tại báo cáo về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2015 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 và Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 tại phiên họp Ủy ban thường vụ
Quốc hội ngày 07 tháng 3, Bộ Kế hoạch đầu tư cho biết: Cụ thể, tổng thu ngân
sách nhà nước cả năm đạt 996.870 tỷ đồng, tăng 85.770 tỷ đồng so với dự toán
và cao hơn mức đã báo cáo Quốc hội là 69.370 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách nhà
nước đạt 1.262.870 tỷ đồng, tăng 10,1% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà
nước năm 2015 là 256.000 tỷ đồng, bằng mức đã được Quốc hội cho phép.
Ví dụ 2: Thực tế Bội chi ngân sách 6 tháng đầu năm 2016
Theo số liệu Tổng cục Thống kê về thu, chi ngân sách Nhà nước trong 6
tháng đầu năm 2016


Cụ thể, tổng thu Ngân sách Nhà nước 6 tháng đạt khoảng 425.600 tỷ
đồng, chỉ đạt được 42% so với dự toán. Trong đó, thu nội địa đạt 342.800 tỷ
đồng, thu từ dầu thô đạt 17.700 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách hoạt động xuất nhập khẩu từ 63 tỉnh thành đạt 63.000 tỳ đồng. Trong khi đó, chi ngân sách Nhà
nước từ đầu năm đến nay khoảng 508.500 tỷ đồng, bằng 39,9% dự toán. Chỉ
trong 6 tháng đầu năm 2016 ngân sách đang bị bội chi 82,9 nghìn tỷ đồng.
1.2 Cách xác định bội chi ngân sách nhà nước

Mục đích sử dụng của các báo cáo về bội chi NSNN cũng ảnh hưởng đến
việc quyết định các khoản thu, chi trong cân đối NSNN. Nếu báo cáo được sử
dụng cho mục đích đánh giá sự tích lũy của chính phủ cho nhu cầu đầu tư phát
triển thì bội chi NSNN là bội chi ngân sách vãng lai. Là chênh lệch của số thu, chi
thường xuyên.
Bội chi ngân sách vãng lai = Chi thường xuyên – Thu thường xuyên
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tình hình ngân sách
tổng thể của nhà nước và tác động của nó đến môi trường kinh tế vĩ mô (tình
hình lưu thông tiền tệ, cầu trong nước và cán cân thanh toán quốc tế) thì bội chi
NSNN là bội chi ngân sách qui ước (bội chi ngân sách thông thường).
Bội chi ngân sách qui ước = Thu thường xuyên và viện trợ không hoàn lại
– tổng chi (bao gồm cả cho vay thuần).Trong đó: Cho vay thuần = Số cho vay ra –
Số thu hồi nợ gốc.
Tuy nhiên, cách tính này chưa cho phép phân tích sự tác động của bội chi
NSNN đến tổng cầu cũng như sự phân bổ nguồn lực và tái phân phối thu nhập
trong nền kinh tế. Cùng một mức bội chi như nhau nhưng nếu cơ cấu thu, chi và
nguồn bù đắp bội chi khác nhau thì tác động hoàn toàn khác nhau. IMF khuyến
cáo rằng khi phân tích ngân sách để lập dự toán thì chỉ nên coi các nguồn viện
trợ, kể cả viện trợ không hoàn lại, là nguồn bù đắp thâm hụt như các khoản vay
nợ.
Nếu báo cáo được sử dụng cho mục đích đánh giá tính bền vững tài khóa
thì bội chi ngân sách căn bản sẽ thích hợp.
Bội chi ngân sách căn bản = Bội chi ngân sách qui ước – Chi trả lãi
Với các tính này, nếu Chính phủ có các quyết định thu – chi làm giảm bội
chi ngân sách căn bản, thì số chi cho hoạt động của chính phủ trong cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công sẽ ít đi. Nếu Chính phủ mở rộng các nhu cầu tài chính của
mình và làm tăng chi trả lãi thì có nghĩa là chính phủ phải giảm các cơ hội chi


thường xuyên không bắt buộc cũng như chi đầu tư để có thể cải thiện hệ thống

giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng...
1.3 Phân loại bội chi ngân sách nhà nước
Theo tài chính công hiện đại, phân loại bội chi NSNN thành hai loại: bội
chi cơ cấu và bội chi chu kì.
1.3.1 Bội chi cơ cấu
Bội chi cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính
sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay
quy mô chi tiêu cho giáo dục,quốc phòng,...
Ví dụ: Tổng chi NSNN năm 2013 ước tính đạt 986,2 nghìn tỷ đồng, bằng
100,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển 201,6 nghìn tỷ đồng, bằng
115,1% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 196,3 nghìn tỷ đồng, bằng 115,4%);
chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước,
Đảng, đoàn thể (bao gồm cả chi thực hiện cải cách tiền lương) ước tính đạt
679,6 nghìn tỷ đồng, bằng 100,8%; Nguyên nhân dẫn đến bội chi cơ cấu chủ yếu
là nguyên nhân chủ quan là do quản lý, điều hành ngân sách nhà nước bất hợp
lý. Biểu hiện qua những vấn đề như việc khai thác và đánh giá nguồn thu chưa
tốt, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập, dẫn đến thất
thoát và lãng phí nguồn lực tài chính của nhà nước, hay vấn đề phân cấp quản lý
ngân sách ngân sách nhà nước chưa khuyến khích địa phương nổ lực trong khai
thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả.
1.3.2 Bội chi chu kì
Bội chi chu kì là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh
tế, nghĩa là mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: Tỷ
lệ bội chi ngân sách Nhà nước năm nay ở mức 5,3% GDP, vượt mức 4,8% đã dự
toán.
Nguyên nhân chủ yếu do doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về vốn, sản
phẩm tồn kho tiêu thụ chậm dẫn đến thua lỗ.
Nguyên nhân dẫn đến bội chi chu kì thường là nguyên nhân khách quan:
Do nền kinh tế suy thoái và khủng hoảng, của cải vật chất tạo ra ít, năng suất
lao động của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng, làm cho nguồn thu vào ngân sách

nhà nước bị giảm sút, nhưng nhu cầu chi tiêu lại gia tăng để giải quyết những
vấn đề khó khăn mới về kinh tế - xã hội như: trợ cấp xã hội, các khoản chi để
phục hồi nền kinh tế… đồng thời nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế.


Điều đó dễ dẫn đến tình trạng thu không đủ chi và ngân sách nhà nước bị thâm
hụt. Ngược lại, khi kinh tế ở giai đoạn phồn thịnh, thu vào Ngân sách nhà nước
liên tục tăng lên mà không phải chi các khoản chi bất thường thì ngân sách nhà
nước tăng lên và đảm bảo thực hiện tốt những dự toán đã được đề ra. Bên cạnh
đó, thiên tai và tình trạng bất ổn về an ninh chính trị của quốc gia, thế giới cũng
ảnh hưởng rất lớn đến ngân sách nhà nước, do nhu cầu chi tiêu cho quốc phòng
và an ninh trật tự xã hội tăng lên và phải chi nhiều để khắc phục hậu quả thiên
tai.
Việc phân biệt hai loại bội chi trên đây có tác dụng quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách
tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế
nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong
từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
Ngoài ra, căn cứ vào yếu tố thời gian, có sự phân chia bội chi ngân sách
bội chi ngắn hạn và bội chi dài hạn. Dựa trên những nguyên nhân cụ thể mà dẫn
đến tình trạng bội chi ngân sách.Theo quan điểm của phó chủ nhiệm Ủy ban tài
chính và ngân sách quốc hội thì bội chi dài hạn sẽ ảnh hưởng rất xấu đối với an
ninh tài chính quốc gia và nền kinh tế nước ta chỉ chịu được bội chi ngắn hạn và
không nên duy trì quá lâu tình trạng bội chi cao như hiện nay.
1.4 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách nhà nước còn gọi là thâm hụt ngân sách nhà nước. Bội
chi ngân sách nhà nước có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế tùy
thuộc vào tỉ lệ thâm hụt của nó. Sự thâm hụt ngân sách được sử dụng như là
một công cụ của chính sách tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng
nếu bội chi với tỷ lệ cao có thể dẫn đến các tình trạng ảnh hưởng xấu đến nền

kinh tế như:
1.4.1 Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế
Xuất phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội
GDP= C+I+G+NX
Trong đó:
GDP là tổng sản phẩm quốc nội
C là tiêu dùng tư nhân


I là tổng đầu tư
G là chi tiêu chính phủ
NX là xuất khẩu ròng
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T)
S + (T – G) = I
Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là
chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức
NSNN cân bằng, trường hợp (T – G); 0 NSNN có thặng dư, trường hợp (T – G)
NSNN bội chi. Trong bối cảnh NSNN bội chi, Chính phủ phải tìm cách bù đắp bội
chi bằng cách vay trong nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết
kiệm tư nhân giảm, tổng đầu tư giảm; để duy trì được mức tổng đầu tư chính
phủ phải lựa chọn phương án đi vay nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá
một đồng vượt số thu ngân sách, buộc phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một
đồng.
1.4.2 Ảnh hưởng lạm phát
Bội chi ngân sách xảy ra khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu ngân sách
huy động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số thu ngân sách thì có bội
thu ngân sách. Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng
của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng

của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì chính phủ có thể tăng
mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy họat động kinh tế. Vì vậy, bội
chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển
mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển
nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường
để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: giao thông,
điện, nước… Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và
Đông Nam Á, cũng bội chi ngân sách.
Việc xử lý bội chi ngân sách là một nội dung quan trọng của chính sách tài
khóa của nhà nước, có tác động đến nền kinh tế vĩ mô. Thực tế trong những năm
gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ 2 nguồn là vay
nước ngoài và vay trong nuớc nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là


không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính Phủ cho tiêu dùng thường xuyên
và cho đầu tư lại tăng lên. Trong báo cáo của Chính phủ xây dựng chỉ tiêu là
5,5% cho năm bội chi ngân sách năm 2011. Tuy nhiên, nếu ta tính những khoản
ngoài ngân sách vào như: ODA (tương đương khoảng 3,2 tỷ USD), trái phiếu
Chính phủ (45.000 tỷ đồng); các khoản ghi thu, ghi chi (khoảng 12.500 tỷ đồng).
Cộng những khoản này vào thì chi ngoài ngân sách khoảng 82.500 tỷ đồng. Như
vậy bội chi ngân sách của chúng ta thực tế lớn hơn rất nhiều và tác động của nó
tới lạm phát sẽ còn lớn hơn, chứ không phải giữ được 7%. Nếu đưa cả các khoản
ngoài ngân sách vào trong ngân sách thì bội chi có thể lên tới 10,5% chứ không
phải là 5,5%, nghĩa là gần gấp đôi so với chỉ tiêu đề đề ra. Đây là con số đáng lo
ngại.
1.4.3 Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế
Quy mô nợ công của Chính phủ tùy thuộc vào số nợ vay là để tài trợ cho
tiêu dùng hay đầu tư và hiệu quả của việc đầu tư đó đến đâu. Nếu chính phủ
chấp nhận bội chi để tài trọ cho các dự án có hiệu quả, có khả năng sinh lời
trong dài hạn, thì chính lợi tức từ dự án lại tạo ra và làm tăng nguồn thu trong

dài hạn cho ngân sách nhà nước, giúp NSNN trả được gốc và lãi cho các khoản
vay tài trợ bội chi trong quá khứ.
1.4.4 Thâm hụt cán cân thương mại
Bù đắp bội chi NSNN bằng các tăng vay nợ góp phần làm tăng lãi suât, sẽ
ảnh hưởng bất lợi đến cán cân thanh toán thương mại quốc tế. Lãi suất thị
trường của nước này tăng lên cao so với các đồng tiền các nước khác trên thế
giới thì người nước ngoài sẽ tìm kiếm đồng nội tệ của nước có bội chi để mua
các chứng khoán chính phủ và các tài sản tài chính khác. Dẫn đến tình trạng
nhập siêu ở nước có ngân sách bội chi lớn.
1.4.5 Cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sức ép của tỷ giá rất lớn
Hiện nay cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sức ép của tỷ giá rất lớn,
cần cảnh báo. Nguyên nhân chính là do nhập siêu cao và duy trì trong một thời
gian quá dài dẫn đến cán cân thanh toán thâm hụt liên tục trong các năm qua.
Nếu điều này vẫn tiếp tục thì sẽ rất khó có khả năng cân đối được ngoại tệ. Đó là
chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, cân đối vĩ mô, quản lý vàbsử dụng
nguồn lực lãng phí, chưa hiệu quả; rồi hạ tầng, môi trường, giáo dục, lãng phí,
tham ô, tiêu cực, đời sống nhân dân... Để xảy ra những tồn tại như hiện nay là do
nước ta chưa thực sự quản lý, kiểm soát được nền kinh tế. Việc quản lý ngành,


lĩnh vực không thực hiện được mà chỉ còn có quản lý trực thuộc. Mà quản lý trực
thuộc chỉ là một quản lý ngành chưa làm, càng ngày càng buông lỏng...
Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, công chức không được đánh giá đúng, bố trí
con người không phù hợp với chức vụ. Đáng lưu ý, tính chiến đấu và nhiệt huyết
của cán bộ lãnh đạo ngày một giảm, không dám phản ánh sự thật
1.4.6 Người dân nộp thuế nhiều hơn, trong khi chi cho mục tiêu an sinh xã hội
lại giảm đi
Thời gian qua, Việt Nam liên tục bội chi ngân sách khoảng 4-5% GDP, tức
chi thu 4-5% tổng sản phẩm làm ra trong nước. Khoản chi lố này Chính phủ phải
đi vay của dân qua trái phiếu hoặc vay nước ngoài, hoặc điều chuyển các nguồn

lực.
Điều đáng nói là mặc dù kinh tế khó khăn, bội chi ngân sách nhà nước lớn
nhưng theo phân tích của Ủy ban Tài chính - ngân sách trong báo cáo thẩm tra,
chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước vẫn tăng cao, đặc biệt phải kể đến
“các khoản chi khác” tăng đến 154%, chi quản lý hành chính tăng 8%... Chi khác
là khoản chi mà các cơ quan nhà nước có thể dùng cho các công việc tiếp khách,
tổ chức các hội nghị, hội thảo và các khoản chi không có trong danh mục chi
chính thức.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH HIỆN NAY
( GIAI ĐOẠN 2011 – 2015 )
2.1 Thực trạng
Trong những năm 2011-2015, tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam luôn
nằm ở ngưỡng trên dưới 5.5% GDP và có xu hướng không ổn định. Đây là một tỉ lệ
rất cao.Theo kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình thường, thâm hụt
ngân sách ở mức 3% GDP được coi là đáng lo ngại, còn ở mức 5.5% GDP thì bị
xem là đáng báo động.
Tình hình bội chi NSNN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tổng thu cân Tổng chi cân Thâm hụt Tỷ lệ bội chi
đối NSNN
đối NSNN
NSNN
NSNN
so
với GDP
2011
962.982
1.034.244
112.034

4,4%
2012
1.038.451
1.170.924
173.815
5,36%
2013
1.084.064
1.277.710
236.769
6,6%
2014
782.7
1.006.700
224
5,3%
2015(ước tính)
911.1
1.147.100
226
5,0%


(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)

(Nguồn: Tổng hợp từ cổng TTĐT Bộ Tài chính)
Năm 2011 được xem là năm nhà nước thay đổi công tác điều hành, ngay
từ đầu năm Chính phủ đã ban hành và triển khai quyết liệt Nghị quyết 11 nên
kết quả thu ngân sách năm 2011 vượt kế hoạch 21,3%. Về chi, theo báo cáo của
Chính phủ, tổng số chi 1.034.244 tỷ đồng. Nhờ tăng thu NSNN nên đã giảm bội

chi từ 5,3% GDP theo Nghị quyết của Quốc hội xuống còn 4,4%, đây là một động
thái tích cực. Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song các khoản chi ứng trước, nợ
tạm ứng, thiếu hụt nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm bội chi không có
nhiều ý nghĩa về tài khoá.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 theo báo cáo quyết toán là
173.815 tỷ đồng (5,36% GDP). Theo đó, tổng thu NSNN năm 2012 là 1.038.451
tỷ đồng, tăng 1,9% so với dự toán, Tổng chi NSNN năm 2012 là 1.170.924 tỷ
đồng, tăng 8,3% so với dự toán. Chi thường xuyên vẫn còn lãng phí, chi sai chế
độ quy định, không đúng mục đích đang có dấu hiệu gia tăng tại các địa
phương.
Nguyên nhân là do thâm hụt ngân sách và nợ công tăng ở nhiều nước EU,
Mỹ, Nhật Bản, đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Tăng trưởng kinh
tế chưa thực sự được cải thiện nhiều sau khủng hoảng. Đồng thời những bất ổn
về chính trị xung đột khu vực, tranh chấp lãnh thổ sẽ gây nhiều khó khăn cho sự
phát triển. Các chính sách và biện pháp bảo hộ mậu dịch hàng rào thuế quan và
phi thuế quan gia tăng.
Ở trong nước, bên cạnh các giải pháp, chính sách về kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô đã bước đầu phát huy hiệu quả. Bội chi NSNN giảm dần,
xuất khẩu tăng nhanh cũng góp phần làm giảm nhập siêu, cân bằng cán cân


thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối, tuy nhiên, kinh tế vĩ mô ở nước ta
chưa thực sự ổn định; lạm phát và lãi suất đang còn ở mức cao, ảnh hưởng tiêu
cực đến sản xuất và đời sống nhân dân. Mức bội chi ngân sách năm 2013 là
236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tổng số thu cân
đối ngân sách nhà nước là 1.084.064 tỷ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn
từ năm 2012 sang năm 2013, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2012, thu
huy động đầu tư của ngân sách địa phương và thu từ quỹ dự trữ tài chính theo
quy định của Luật ngân sách nhà nước. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước
là 1.277.710 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2013 sang năm

2014. Đây được gọi là sự vỡ kế hoạch.
Năm 2014 dự toán bội chi ngân sách do Bộ Tài chính đưa ra là 224.000 tỷ
đồng, bằng 5,3% GDP. Tổng thu cân đối ngân sách năm 2014 là 782.700 tỷ đồng.
Trong đó, thu nội địa chiếm 539.000 tỷ, từ dầu thô 85.200 tỷ, thu cân đối từ hoạt
động xuất nhập khẩu 154.000 tỷ và thu viện trợ là 4.500 tỷ. Bên cạnh đó, mức
chi dự toán được đưa ra là 1,0067 triệu tỷ đồng, bao gồm: chi đầu tư phát triển
là 163.000 tỷ, chi trả nợ và viên trợ là 120.000 tỷ, chi phát triển sự nghiệp là
704.400 tỷ. Dự toán bội chi ước đạt 5.3% GDP.
Nguyên nhân một phần do kinh tế toàn cầu đã bước vào giai đoạn ổn
định hơn dù tốc độ tăng trưởng vẫn còn thấp. Thị trường tài chính bớt rủi ro
hơn mặc dù vẫn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đối với các nền kinh tế đang
phát triển do việc các nền kinh tế phát triển sẽ rút bỏ dần các biện pháp nới
lỏng định lượng; tình hình lạm phát nhìn chung vẫn được kiểm soát do giá cả
hàng hóa quốc tế đang có xu hướng giảm. Đối với trong nước, bên cạnh sự
phục hồi của nền kinh tế; các chính sẽ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh
doanh thúc đẩy tổng cầu trong năm 2013 đã phát huy tác dụng và tiếp tục có
ảnh hưởng tích cực trong năm 2014; dòng vốn được khơi thông sẽ đẩy nhanh
hơn tốc độ phục hồi sản xuất. Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn với việc
tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do: EPA, TPP, EU thì sự tăng
trưởng kinh tế có nhiều khả năng sẽ phục hồi nhưng chưa vững chắc; sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn thấp trong bố cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng và cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Năm 2015, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) dự tính sẽ vào khoảng 921
nghìn tỷ đồng, chi NSNN khoảng 1,147 triệu tỷ đồng và theo đó bội chi NSNN
vào khoảng 226 nghìn tỷ đồng, tương đương 5% GDP.
2.2 Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách nhà nước(NSNN) nhưng ta
có thể phân ra hai nhóm nguyên nhân cơ bản như sau:



2.2.1 Nguyên nhân khách quan
- Do tác động của chu kỳ kinh tế. Mức bội chi Ngân sách Nhà nước do nhóm
nguyên nhân này gây ra được gọi là bội chi chu kỳ bởi vì nó phụ thuộc vào giai
đoạn của nền kinh tế đó. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn phồn thịnh thì
thu Ngân sách Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi Ngân sách Nhà nước không
phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Và ngược lại, nếu
nền kinh tế đang trong giai đoạn khủng hoảng thì sẽ làm cho thu nhập của Nhà
nước giảm đi, nhưng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước lại tăng lên do giải quyết
những khó khăn mới của nền kinh tế và xã hội.
- Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới. Tình hình bất ổn của an ninh
thế giới và sự phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc phòng
và an ninh trật tự xã hội, gia tăng nhu cầu chi Ngân sách nhà nước để khắc phục
hậu quả thiên tai.
2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
- Tác động của chính sách cơ cấu thu chi ngân sách của Nhà nước. Ở nhóm
nguyên nhân này mức bội chi được gọi là bội chi cơ cấu. Khi Nhà nước thực hiện
chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN.
- Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài k
hóa để kích cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
- Do cách đo lường bội chi.

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC BỘI CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
3.1 Nhận xét chung
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó
không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia.
Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi
NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi



đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu
thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng
ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội
chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình
hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh
tế và đời sống nhân dân, chúng ta phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau.
Có nhiều cách để Chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ
thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài;
phát hành tiền để bù đắp chi tiêu... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ.
3.2 Giải pháp
3.2.1 Tăng thu chi giảm thuế
Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình Chính Phủ tính toán để tăng các
khoản thu và cắt giảm chi tiêu. Tăng thu và giảm chi là biện pháp cổ tryền
nhưng không phải bao giờ cũng thực hiện thành công được bởi nó có thể dẫn
đến những hậu quả như: trong bối cảnh tỉ lệ tăng trưởng GDP chưa lớn sẽ ảnh
hưởng đến khả năng đầu tư vào tiêu dùng ở khu vực tư nhân bị hạn chế hay nói
cách khác nó làm giảm động lực phát triển kinh tế và khả năng giảm chi cũng có
giới hạn nhất định, nếu giảm chi vượt quá giới hạn thì cũng ảnh hưởng không
tốt đến quá trình phát triển xã hội. Chính vì thế vấn đề đặt ra là Chính phủ phải
tính toán phí tăng thu và giảm chi như thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến
tăng trưởng kinh tế. Biện pháp này được quy định rải rác trong Luật ngân sách
nhà nước năm 2002 và một số văn bản hướng dẫn thi hành và gần đây nhất là
Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Các văn bản
đưa ra một số giải pháp để tiến tới tăng thu, giảm chi trong giai đoạn hiện nay
như sau:
3.2.1.1 Phương thức tăng thu
Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu

thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng
chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới. Cải thiện
các nguồn thu ngân sách từ thuế tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá
nhiều (hiện nay tới hơn 40% vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và
thuế nhập khẩu). Cải cách thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm
2% ngân sách nhà nước của Việt Nam, trong khi con số này ở các nền kinh tế
hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản.


Ví dụ: Theo số liệu được Tổng Cục thuế công bố, kết quả thu ngân sách nhà
nước năm 2012 do ngành Thuế quản lý ước đạt 607.844 tỷ đồng, bằng 104,5%
so với dự toán, tăng 12,3% so với thực hiện năm 2011. Trong đó, thu dầu thô
ước đạt 140.107 tỷ đồng, bằng 161% so với dự toán (vượt 53.107 tỷ đồng) và
tăng 27,1% so với thực hiện năm 2011.
Hiện nay tình trạng nợ đọng thuế chưa được kiểm soát chặt chẽ .Vì vậy
Chính phủ cần phải có giải pháp kiên quyết hơn trong việc kiểm soát nguồn thu
từ thuế bằng việc: đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao hiểu biết và tự
giác thực hiện nghĩ vụ thuế; đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra phát hiện và xử lý kịp
thời các trường hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp để tăng thu
tiền thuế cho Ngân sách nhà nước.
3.2.2.2 Phương thức giảm chi
Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư
từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn
năm 2011, xác định cụ thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến
độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí
nhưng chưa cấp bách, không đúng mục tiêu, báo cáo và đề xuất với Thủ tướng
Chính phủ biện pháp xử lý trong tháng 3 năm 2011.
Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước, doanh nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử
lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu

tư ra nước ngoài.
- Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp.
- Giảm tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, buộc chính phủ phải chi ngân
sách để duy trì, bù lỗ.
- Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối
đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh
phí cho các việc chưa thật sự cấp bách.
Ví dụ: ngày 02/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội XIII, Quốc hội thảo luận
về tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; dự toán ngân
sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2014 với các ý
kiến cần phải tăng cường ra soát, cắt giảm chi ngân sách nhà nước. Trong đó,
cần tập trung vốn trái phiếu Chính phủ cho những dự án quan trọng, công trình
dở dang; theo đó có nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát lại tổng mức
đầu tư của từng dự án cụ thể, điều chỉnh thiết kế, dự toán, cắt giảm phần dự
phòng không hợp lý ở nhiều dự án, tiểu dự án, đặc biệt các dự án bố trí dự
phòng lên đến gần 50% tổng giá trị xây lắp. Đồng thời, phải bảo đảm về tiến độ,


thời gian thực hiện và chất lượng của dự án, không để phát sinh làm tăng tổng
mức đầu tư.
3.2.2.3 Xử lý nợ đọng
Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương theo chức năng,
nhiệm vụ được giao theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình kinh tế và giá dầu thô.
Trên cơ sở đó, thực hiện điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với các
mặt hàng xăng, dầu nhập khẩu ở mức phù hợp, trong khung thuế suất đã quy
định để tăng thu cho ngân sách nhà nước. Không đề xuất, ban hành chính sách
mới làm giảm thu ngân sách nhà nước, trừ trường hợp cắt giảm thuế theo cam
kết quốc tế.
Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thu, cơ quan tài chính và các lực
lượng chức năng trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước, triển khai

quyết liệt các biện pháp chống thất thu ngân sách, chuyển giá, trốn thuế. Trong
đó, tập trung rà soát, nắm chắc đối tượng, nguồn thu ngân sách trên địa bàn;
thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, quyết toán thuế của các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế,
phí và lệ phí hu khác.
Bên cạnh đó đẩy mạnh việc xử lý, thu hồi để giảm nợ đọng thuế; tổ chức
cưỡng chế theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp cố tình chậm
thanh toán, nợ thuế; định kỳ công khai số thuế nợ đọng của từng địa phương,
doanh nghiệp. Kiểm soát chặt chẽ việc hoàn thuế, bảo đảm đúng đối tượng,
chính sách pháp luật thuế của Nhà nước.
* Ưu điểm:
- Giảm bội chi ngân sách nhà nước và có tác động hiệu quả lâu dài tới nền kinh
tế.
* Nhược điểm:
- Cần có một quá trình cụ thể và đội ngũ quản lí vững chắc.
- Tiêu tốn nhiều thời gian
- Dễ dẫn tới mất cân đối giữa thu và chi trong nền kinh tế.
3.2.2 Biện pháp vay nợ
3.2.2.1 Vay trong nước
Được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu
chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành, có thời
hạn, có mệnh giá, có lãi.


Trái phiếu Chính phủ gồm các loại ký danh và vô danh được phát hành
dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công
trình, tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu ngắn hạn dưới một năm, huy động vốn
để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước tạm thời trong năm tài chính. Trái
phiếu kho bạc là loạt trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động vốn để
bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển

trong kế hoạch ngân sách nhà nước được duyệt. Và trái phiếu công trình là loại
trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên, huy động cho từng công trình cụ thể
theo kế hoạch đầu tư của nhà nước.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp quan trọng để tập
trung nguồn vốn cho ngân sách nhà nước. Bởi vì phát hành trái phiếu không
làm tăng thêm lượng tiền cần thiết lưu thông trên thị trường, không làm tăng
sức mua chung của xã hội, chủ động trong đầu tư, và nhờ hình thức này mà nhà
nước có thể tập trung vốn cho việc xây dựng cơ cở hạ tầng và những công trình
trọng điểm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cần phải chú ý là không thể dùng biện
pháp hành chính quá nhiều để phát hành trái phiếu một cách bắt buộc, cũng
không thể quy định thời gian hoàn trả quá dài. Theo kinh nghiệm của một số
nước, việc phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ ảnh hưởng đến việc tăng lãi suất,
nhất là lãi suất thực, và vì thế giá cả có xu hướng gia tăng. Mặt khác, nếu Chính
phủ tăng cường vay nợ trong nước, số tiết kiệm của dân cư giảm, sẽ ảnh hưởng
đến đầu tư của khu vực tư nhân và vì thế hạn chế sự đóng góp của các thành
phần kinh tế khác vào sự phát triển kinh tế.
Trong thời gian tới, vay nợ trong nước cần chú ý tới:
- Cắt giảm trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó phát hành
trái phiếu chính phủ 5 năm 10 năm. Gắn dự án đầu tư với từng loại trái phiếu cụ
thể, có kế hoạch chủ động trả nợ.
- Phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương,
trái phiếu doanh nghiệp, nâng cao thanh khoản. Thị trường trái phiếu đã được
hình thành thông qua các sở giao dịch chứng khoán, tuy nhiên đối tượng trao
đổi chủ yếu vẫn là các tổ chức, giao dịch với khối lượng lớn, cá nhân chưa tiếp
cận làm cho họ không muốn nắm giữ trái phiếu; ngoài ra cần phát triển thị
trường chứng khoán phát sinh có nguồn gốc từ trái phiếu. Điều này một phần
giảm thiểu rủi ro và chi phí quản lý nợ công trung và dài hạn. Chính phủ linh
hoạt trong việc vay nợ để bù đắp bội chi, bớt đi chi phí dịch vụ nợ. Cải thiện hiệu



quả trong việc phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong tài
trợ bội chi NSNN, tuân thủ cơ chế quan hệ giữa con nợ và chủ nợ đúng theo quy
luật thị trường.
- Tôn trọng nguyên tắc những khoản tạm ứng từ ngân hàng Nhà nước để bù đắp
sự mất cân đối tạm thời của ngân hàng Nhà nước cần phải được hoàn trả lại
trong năm tài chính. Có như vậy mới không gây khó khăn cho ngân hàng Nhà
nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ
* Ưu điểm:
- Giúp kiềm chế lạm phát, giảm bội chi ngân sách nhà nước mà không cần tăng
cơ sở tiền tệ và giảm dự trữ quốc tế.
* Nhược điểm:
- Giảm khả năng khu vực tư nhân tiếp cận tín dụng, gây sức ép lãi suất trong
nước.
- Có thể gây ra lạm phát trong tương lai nếu tỉ lệ nợ trong GDP tăng nhiều.
3.2.2.2 Vay nợ nước ngoài
Để bù đắp thiếu hụt ngân sách dành cho chi đầu tư phát triển kinh tế, khi
vay trong nước không đáp ứng đủ.
Vay nợ nước ngoài của Chính phủ có 3 loại: vay từ nguồn viện trợ phát
triển chính thức (ODA), vay ưu đãi của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
(Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát tiển Châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế) và vay
bằng việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài.
Vay nợ nước ngoài của Chính phủ phải hướng vào các nguồn lớn và có lãi
suất ưu đãi. Khoản vay này ở nước ta chiếm vị trí quan trọng trong nguồn bù
đắp bội chi ngân sách. Từ năm 1993 đến nay, tỉ lệ vay nợ Nhà nước có xu hướng
tăng do Nhà nước đã thực hiện các bước xử lý nợ thích hợp, góp phần vào việc
bình thuờng hoá quan hệ với các nước chủ nợ, đồng thời tiềm năng phát triển
kinh tế của nước ta trong vài năm gần đây đã có sức thuyết phục tạo điều kiện
cho Nhà nước vay được nhiều nguồn vốn ở các tổ chức khác nhau trên Thế giới
làm cho nguồn vốn tăng nhanh, Nhà nước có điều kiện đầu tư vào cơ sở hạ tầng

và các ngành kinh tế trọng điểm tạo sức phát triển kinh tế một cách vững chắc.


Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường trái phiếu quốc tế là
một việc làm mới mẻ song chính phủ đã đạt được thành công nhất định. Tuy
nhiên cần phải cần thận trọng, nghiên cứu và chuẩn bị các yếu tố cần thiết cho
việc lập kế hoạch phát hành trái phiếu nhằm đạt hiệu quả cao.
Các yếu tố cơ bản cần phải đặc biệt quan tâm trong kế hoạch phát hành
trái phiếu gồm:
a. Cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia
Hệ số tín nhiệm là đánh giá khả năng về tài chính cũng như khả năng
hoàn trả tiền gốc và lãi của chính phủ phát hành. Hệ số tín nhiệm không chỉ cần
thiết đối với việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường tài chính quốc tế
mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện các khoản vay thương mại. Với các nước
phát triển hệ số tín nhiệm cao có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản
vay thương mại. Còn đối với các nước đang phát triển, đang được hưởng ưu đãi
qua các khoản vay ODA nên việc đưa ra hệ số tín nhiệm thấp có thể gây khó
khăn cho các khoản vay thương mại, còn nếu càng cao thì thuận lợi cho vay
thương mại nhưng ngược lại sẽ giảm đi những ưu đãi về vay ODA. Đồng thời,
Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hạng
mức tín nhiệm như:
- Điều hành chính sách tài khoá chủ động, hạn chế thâm hụt ngân, kiềm chế và
kiểm soát lạm phát trong giới hạn hợp lý dưới hai con số.
- Tiếp tục đổi mới về cơ chế quản lý điều hành theo định hướng kinh tế thị
trường, đặc biệt là chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái.
- Tăng tốc cho tiến trình tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống
ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Xây dựng dự trữ ngoại tệ quốc gia vững mạnh
b. Lựa chọn đối tác bảo lãnh phát hành:
Để nâng cao mức tín nhiệm của chủ thể phát hành trong quá trình tiếp

cận nguồn vốn, cần thiết phải có người bảo lãnh phát hành. Thông thường có
thể là một tập đoàn tài chính hoặc một ngân hàng đầu tư có uy tín, có kinh
nghiệm trên thị trường vốn quốc tế, đã từng giúp một số quốc gia trong khu vực
phát hành. Việc lựa chọn sẽ thông qua phương thức đấu thầu cạnh tranh để
đảm bảo có lợi nhất cho chính phủ phát hành. Vì vậy các định chế tài chính quốc


tế, hoặc các ngân hàng lớn sẽ là tổ chức mà chúng ta lựa chọn làm nhà bảo lãnh
phát hành.
c. Phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế:
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá cả của trái phiếu
phát hành là tình hình lãi suất thực tế trên thị trường tài chính quốc tế tại thời
điểm phát hành. Thông thường giá trái phiếu được tính dựa trên trái phiếu kho
bạc của Mỹ, mà một trong những yếu tố cấu thành lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ
là mức lãi suất cơ bản do Cục dự trữ liên bang Mỹ công bố. Ngoài ra, Chính phủ
phát hành còn phải tìm hiểu về quy mô, giá cả của các loại trái phiếu mới phát
hành, cũng như dự tính quy mô của các đợt phát hành tiếp theo để có thể đánh
giá chính xác mức cung trái phiếu trên thị trường.
d. Chuẩn bị các tài liệu có liên quan đến việc phát hành trái phiếu:
Yêu cầu về các loại tài liệu thông thường gắn với hình thức phát hành.
Trong trường hợp phát hành rộng rãi ra công chúng gồm cả các nhà đầu tư tư
nhân, thì các yêu cầu về thủ tục đăng ký, niêm yết cũng như các tài liệu có liên
quan rất khắt khe, bắt buộc phải cung cấp. Có thể kết luận rằng, phát hành trái
phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế là một kênh huy động vốn hữu hiệu
đối với nền kinh tế các nước đang phát triển.Vì vậy, để tiếp cận, khai thác nguồn
vốn này Nhà nước cần thận trọng, nghiên cứu phân tích diễn biến tình hình thị
trường tài chính quốc tế, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, cũng
như những nội dung cần thiết đảm bảo cho đợt phát hành trái phiếu chính phủ
ra thị trường trái phiếu quốc tế thành công.
* Ưu điểm:

- Bù đắp được các khoản bội chi mà không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
- Bổ sung vào nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế.
* Nhược điểm:
- Nghĩa vụ nợ tăng cao, giảm chi tiêu trong chinh phủ
- Các khoản nợ luôn đi kèm với các điều kiện ràng buộc về quân sự, chính trị
khiến bị phụ thuộc vào nhiều nước cho vay.
3.2.3 Vay tiền


3.2.3.1 Vay ngân hàng( phát hành tiền)
Ngân hàng nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ, chính phủ uỷ quyền
cho ngân hàng nhà nước thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng. Ngân hàng nhà nước độc quyền phát hành tiền, nhưng không vì thế mà
phát hành một cách tự ý, tuỳ tiện. Trước khi phát hành tiền ngân hàng nhà nước
phải căn cứ vào các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc phát hành tiền dựa trên cơ sở trữ kim làm đảm bảo.
Nguyên tắc này quy định khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành vào
lưu thông phải được đảm bảo bằng dự trữ kim loại quý hiện có trong kho dự trữ
của ngân hàng. Việc đảm bảo này phải được duy trì theo một trong các hình
thức sau:
- Nhà nước quy định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng, khối lượng
giấy bạc ngân hàng phát hành nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim
loại quý (vàng) làm đảm bảo, nhưng nếu vượt quá hạn mức đó thì khối lượng
vượt quá hạn mức đòi hỏi phải có 100% vàng làm đảm bảo.
- Nhà nước sẽ quy định mức tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông mà không
quy định mức dự trữ vàng đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. Nhưng nếu phát
hành giấy bạc vượt quá mức quy định đó thì phải có vàng làm đảm bảo.
Nguyên tắc phát hành tiền có đảm bảo bằng hàng hoá.
Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hoá, khối lượng hàng hoá lưu thông
ngày càng tăng, đòi hỏi phải có nhiều tiền để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng

hoá và dịch vụ. Mặt khác do yêu cầu đáp ứng chi tiêu của chính phủ. Sau chiến
tranh thế giới II, nguyên tắc 1 gần như được chấm dứt. Thay vào đó là sự đảm
bảo bằng hàng hoá cho việc phát hành tiền. Mặt khác quá trình lưu thông xuất
hiện mới nhận thức về tiền, thế giới đã phi tiền tệ hoá vai trò của vàng, các loại
tiền dấu hiệu ra đời và thay thế cho tiền kim loại vàng trong lưu thông. Để lưu
thông tiền tệ ổn định, ngân hàng trung ương đặt ra nguyên tắc phát hành tiền
được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá.
Yêu cầu phát hành tiền dựa vào cơ sở hàng hoá nhằm duy trì vừa đủ cho
nhu cầu của nền kinh tế, trên cơ sở phương trình trao đổi của Fisher với nội
dung như sau:
M.V=P.Y
Trong phương trình này, Fisher quan niệm rằng, khối lượng tiền cần được
tạo ra cho nền kinh tế (M), trong đó tiền mặt là bộ phận hạt nhân, phụ thuộc vào


ba biến số: P (mức giá cả bình quân của hàng hoá ), Y (tổng sản lượng ),V (vòng
quay tiền tệ ).
Dựa vào nguyên tắc trên Ngân hàng trung ương cần phải dự tính khối
lượng tiền phát hành, tức là dự kiến mức cầu tiền. Nhu cầu tiền được quyết định
bởi tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sự biến động của giá cả dự tính và tốc độ
lưu thông tiền tệ, ta có thể tính theo công thức:
M=P.Q-V
Trong đó:
M : Tốc độ tăng trưởng của tiền cung ứng.
P : Mức biến động giá dự tính.
Q : Tỷ lệ tăng trưởng thực tế dự tính.
V : Sự biến động tốc độ lưu thông tiền tệ dự tính.
3.2.3.3 Các kênh phát hành tiền.
Thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa Ngân hàng trung ương với các Ngân hàng
thương mại.

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vao lượng tiền cung
ứng tăng thêm trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ,
nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cho các tổ
chức tín dụng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn: Chiết khấu, tái chiết
khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá và các
loại cho vay khác.
Khi Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay làm tăng bộ phận
tiền mặt trong lưu thông hoặc làm tăng số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng
tại Ngân hàng trung ương, kết quả làm tăng tiền trung ương (MB). Như vậy,
qua việc Ngân hàng trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay, Ngân hàng
trung ương đã phát hành một lượng tiền vào lưu thông còn ngân hàng thương
mại nhận được một khoản tín dụng từ Ngân hàng trung ương là một nguồn vốn
giúp Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động kinh doanh.
Kênh thị trường mở.
Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng thương mại mua các giấy
tờ có giá trên thị trường, nghĩa là đã đưa một khối lượng tiền vào lưu thông,
hàng hoá mà Ngân hàng trung ương mua là các tín phiếu, trái phiếu và các
chứng từ có giá ngắn hạn. Khi Ngân hàng trung ương mua các chứng từ có giá


trên thị trường thì tiền từ Ngân hàng trung ương ra lưu thông, kết quả là tiền
cung ứng sẽ tăng lên bằng đúng giá trị của chứng từ có giá đó. Các chứng từ có
giá được Ngân hàng trung ương nắm giữ trở thành tài sản có của Ngân hàng
trung ương tương ứng với nó là một sự tăng lên của bên tài sản nợ hoặc tiền
mặt hoặc tiền dự trữ. Kênh này đang được sử dụng phổ biến, đặc biệt là các
nước có nền kinh tế phát triển vì đây là kênh rất linh hoạt.
Kênh phát hành tiền thông qua ngân sách nhà nước.
Trong quá trình hoạt động thu chi của ngân sách, thông thường thu có
tính chất thời vụ mà chi thì diễn ra thường xuyên, do đó tại một thời điểm ngân
sách có thể bị thiếu vốn ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của

chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng trung ương tạm ứng cho ngân sách theo quy
định của chính phủ bằng nhiều hình thức đẻ xử lý thiếu hụt. Như vậy Ngân hàng
trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền cho ngân sách chi tiêu. Điều đó có
nghĩa là Ngân hàng trung ương đã phát hành tiền thông qua kênh ngân sách.
Phát hành tiền thông qua kênh ngoại hối.
Khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua ngoại hối trên thị trường hối
đoái, đây cũng là một kênh phát hành tiền. Khi Ngân hàng trung ương mua
ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một
lượng tiền cũng được đưa vào lưu thông qua việc thanh toán tiền cho các tổ
chức cá nhân bán ngoại tệ cho ngân hàng trung ương. Ngược lại khi ngân hàng
trung ương bán ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương giảm, tiền
trung ương cũng giảm.
Như vậy, tuy theo từng điều kiện nhất định mà các kênh cung ứng tiền của
mỗi quốc gia được Ngân hàng trung ương sử dụng phạm vi rộng, hẹp khác
nhau. Song dù tiền được cung ứng theo kênh nào cũng phải đạt được các mục
tiêu của chính sách tiền tệ.
* Ưu điểm:
- Nhu cầu tiền để bù dắp ngân sách trong nước được đáp ứng 1 cách nhanh
chóng, không phải trả lãi, cũng không phải ghánh thêm các gánh nặng nợ nần.
* Nhược điểm:
- Việc in và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền.
- Lạm phát trở nên không kiểm soát nổi.
3.4 Tăng cường vai trò quản lý nhà nước


3.4.1 Cải cách hành chính công và nâng cao năng lực quản lý
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những
bước đi, lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước
thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến
cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế

hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức.
Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội
dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Cải cách hành chính ở Việt Nam đã và đang được thực hiện góp phần cải
cách hành chính công đó là:
Về thể chế hành chính đã sửa đổi, ban hành các Luật mới và các văn bản
dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh
cán bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công
chức...Điều quan trọng là các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy
định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước
thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương
Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ
quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải
cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai
các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần
hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính
trong khi giải quyết các công việc của công dân. Một vấn đề đang được quan
tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp trong quản lý nhà
nước.
3.4.2 Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính và hệ thống kế toán
tài chính công
Việc triển khai Dự án Xây dựng hệ thống thông tin quản lý ngân sách và
kho bạc (TABMIS) đã được chính phủ nghiên cứu và bắt đầu thí điểm triển khai
từ năm 2008. Đến năm 2010, hệ thống đã được triển khai đại trà, đem lại kết
quả khả quan. Dự án Xây dựng hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc


(TABMIS) của Việt Nam được đánh giá cao nhất trong số các dự án thuộc loại

này do Ngân hàng Thế giới (WB) triển khai tại Đông Nam Á, với mục tiêu:
- Cơ quan tài chính có thể trực tiếp khai thác báo cáo thu chi ngân sách từ hệ
thống, thay vì phải trông chờ vào cơ quan KBNN như hiện nay;
- Quản lý được dự án ở tất cả các cấp, TABMIS sẽ hổ trợ việc phân bổ dự toán
ngân sách, cập nhật dự toán ngân sách, giải ngân các khoản dự trữ ngân sách
và lập dự toán ngân sách cho năm tiếp theo. TABMIS là một hệ thống thông tin
quản lý tích hợp, được thiết kế theo hướng Mô hình kho bạc tham chiếu của WB
và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tiến dần đến kế toán dồn tích nhưng vẫn mang tính
kế thừa và phù hợp với bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa công tác
quản lý ngân sách của Việt Nam tiến dần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,
nâng cao tính minh bạch, khả năng hội nhập của nền tài chính công. Quá trình
triển khai TABMIS yêu cầu một bước cải cách lớn về cơ chế quản lý, quy trình
nghiệp vụ thu chi ngân sách Nhà nước và chế độ kế toán. Công việc này không hề
đơn giản bởi hệ thống ngân sách của Việt Nam khá phức tạp, bao trùm lên cả 4
cấp chính quyền (trung ương, tỉnh, huyện và xã). Có lẽ đây là dự án TABMIS duy
nhất trên thế giới bao trùm cả 4 cấp như vậy. Dự kiến trong năm trong năm sắp
tới TABMIS kết nối với Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, các Bộ sử dụng ngân sách, cơ
quan tài chính các cấp (TW và địa phương), và các đơn vị sử dụng ngân sách tạo
điều kiện phát huy hết hiệu quả của một hệ thống quản lý tích hợp ERP
(Enterprise Resourses Planing – Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp) với các
quy trình ngân sách khép kín, tự động, thông tin quản lý tập trung, cung cấp báo
cáo đầy đủ, toàn diện, kịp thời và minh bạch.

3.4.3 Đổi mới cơ chế quản lý quỹ, các định chế tài chính
Phù hợp với bối cảnh chuyển đổi của nền kinh tế Việt Nam, bên cạnh
NSNN còn có sự tồn tại của các quỹ, các định chế tài chính Nhà nước hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận. Thực tế này đã tạo áp lực trực tiếp lên cân đối
NSNN qua hai khía cạnh: NSNN phải chi bổ sung, trợ cấp cho các quỹ, các định
chế này; phát sinh các nghĩa vụ nợ dự phòng đối với NSNN. Do vậy trong thời
gian tới, cùng với sự phát triển của kinh tế – xã hội và mức độ hội nhập quốc tế,

hoạt động của các quỹ, các định chế tài chính Nhà nước ngoài ngân sách cần
được cải tổ theo hướng: giảm dần số lượng và thị trường hóa hoạt động của
chúng trên cơ sở thiết lập cơ chế quản lý có hiệu quả, minh bạch. Giải pháp này
sẽ góp phần hỗ trợ cân đối NSNN tích cực trên các khía cạnh sau:


×