Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tìm hiều về PHẬT GIÁO quản lý nhà nước về tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.97 KB, 28 trang )

DANH SÁCH NHÓM 10 KH14- NHÂN SỰ 2

Họ và tên

Phân công công việc

Chú
thích

1. Lý Huyền Trang

Tổng hợp hoàn thiện bài, thuyết trình

Nhóm
trưởng

2. Lưu Thị Thùy Vân

3. Mai Thị Bích Vân

4. Hoàng Thị Thiêm

Cấu trúc Phật giáo

Cấu trúc Phật giáo

Sự hình thành và phát triển của Phật giáo
ở Việt Nam

5. Vũ Thị Ngọc
Phượng



Sự hình thành và phát triển của
Phật giáo ở Việt Nam, làm
slide

1


BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TIỂU LUẬN
MÔN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ PHẬT GIÁO

Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Cường
Lớp: KH14_Nhân sự 2
Nhóm trưởng: Lý Huyền Trang
Thành viên nhóm: Lưu Thị Thùy Vân
Mai Thị Bích Vân
Hoàng Thị Thiêm
Vũ Thị Ngọc Phượng
Hà Nội, tháng 8/2015

2


MỤC LỤC


3


A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước phương Đông- nơi mà tôn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống văn hóa xã hội, tùy vào từng giai đoạn phát triển lịch sử của
các nước thì tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh mẽ đến đời sống
tinh thần, thói quen, suy nghĩ của con người. Trong các tôn giáo đó, thì Đạo
Phật-một trong những tôn giáo lớn của thế giới đã du nhập vào nước ta khoảng
thế kỉ II sau công nguyên và trở thành tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần, xã hội Việt Nam cho đến ngày nay.
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều
kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự
kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và
được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã
hội đương thời.
B. NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về Đạo Phật
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa sinh năm 624 trước công
nguyên thuộc dòng họ Thích Ca, con vua Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Na trị vì
nước Ca Tỳ La Vệ xứ Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da. Dù sống trong
cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô
thường của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn
nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử
luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp
tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được.
Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta
4



không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy
khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô
thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức
để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công
nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay
giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng.
Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt
đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ
như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”.
Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có
hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do
Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ
trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương
vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ
thế tục ngoài đời).
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp
tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100
nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn hoà,
chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến.
Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu
người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.
II.
Cấu trúc của đạo phật
1. Giáo lý, giáo luật
5



* Giáo lý:
Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc
sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép
buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều
kiện, hoàn cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong
84.000 pháp môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích
sống yên vui, ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân
duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý).
Lý Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không
(mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian,
rồi biến chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn
sóng, khi mới nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi
hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi
phối bởi quy luật nhân - duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm
để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy
nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện
tượng khác nhau. Có hay không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay
tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự
nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và
quá trình hợp - tan của các nhân - duyên có trước để tạo ra nhân - duyên
mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy
luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên,
tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất
6



đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một
linh hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm
của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện
của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không
còn tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái
quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên
tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành;
3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu;
11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của "Hành", Hành là
duyên của "Thức", Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc là duyên của
"Lục nhập", Lục nhập là duyên của "Xúc", Xúc là duyên của "Thụ", Thụ là
duyên của "Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ là duyên của "Hữu", Hữu là
duyên của "Sinh", Sinh là duyên của "Lão tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân
duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước
nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo
chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn
đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo
nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về thế giới khách quan, về
bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển
cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai
trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con
người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do
đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con người phải học
tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo
ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.

7



Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi
thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường
xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn
tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ
nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là "có"; khi nhân duyên tan rã
thì sự vật biến diệt, lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh
và cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là
một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình,
làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não
đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận
đó, Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết
yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình,
sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị
ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.
Tứ diệu đế
Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên nguồn cội của sự khổ
đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem kiến thức của mình
truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói
ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ
không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó
Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn
thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển
Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng
phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành
8 loại khổ (bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);

8


+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);
+ Bệnh (đau ốm là khổ);
+ Tử (chết là khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);
+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);
+ "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ
ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại của
con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất tình, lục dục
lôi cuốn… làm cho khổ sở).
Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan
mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống
để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn
mà điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải
quyết cho tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức
Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết
sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham
lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến
(chấp ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu
không đúng, mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới
cấm thủ (làm theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính
ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh
đến 3 điều: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân
chính của sự khổ đau.
- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con
người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt

cái nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh
thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế,
9


vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát
khổ để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu
nghiệm để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng
thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để
tuỳ căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực
hiện cho phù hợp với bản thân mình.
Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến):
quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.
- Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành):
tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều
ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn
tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
- Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển):
Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.
- Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín
căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính
quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo
quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
- Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để
tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy,
chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính

định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi
là pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức,
mọi thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu
dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước
lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
* Giáo luật
10


Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều
hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng
đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô
ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
+ Không sát sinh;
+ Không nói sai sự thật;
+ Không tà dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói
điều ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với
truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ
vào việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một
bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.

2. Giáo chủ
Phật A Di Đà là do các nhà Đại Thừa dựng lên để xây dựng thế giới siêu hình
Cực Lạc Tây Phương tưởng, nhất là tưởng tượng và hy vọng “Cực Lạc” có nghĩa
là rất vui, là nơi lý tưởng của các nhà Đại Thừa để sau khi chết họ sẽ về đó để
hưởng hạnh phúc an lạc đời đời, kiếp kiếp.
Đức Phật Di Lặc cũng là một vị Thần trong kinh Vệ Đà mà các Tổ đã biến
thành Giáo Chủ của Phật giáo trong thời vị lai.

11


Đức Phật Di Lặc là một đức Phật tưởng do các học giả dựng lên, hy vọng
ngày mai xây dựng một Phật giáo mới. Nói đúng hơn là lấy đức Phật Di Lặc đem
lại niềm tin kinh điển phát triển cho mỗi con người hơn.
Đức Phật Di Lặc đã được kinh sách phát triển nói rất nhiều và kinh A hàm
thuộc Hán tạng cũng có nói đến, đó là những bài kinh gạch nối của các Tổ sau này
soạn viết đưa vào, đó là một thâm ý nham hiểm của các học giả Phật giáo phát
triển, đưa đức Phật Di Lặc ra để làm một cuộc cách mạng Phật giáo lật đổ đức Phật
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thay thế đức Phật Di Lặc làm Giáo Chủ Đạo Phật.
Hội Long Hoa, tức là cuộc cách mạng Phật giáo do các nhà Phật giáo phát
triển lãnh đạo, để mở màn cho đức Phật Di Lặc lên nắm quyền Giáo Chủ Phật giáo
toàn bộ thì lúc bây giờ kinh sách Nguyên Thủy sẽ bị triệt tiêu
Trong kinh sách Nguyên Thủy không bao giờ có nói đến đức Phật Di Lặc và
trong hàng Thánh Tăng đệ tử của đức Phật trong thời điểm đó cũng không có ai tên
là Di Lặc. Cho nên đối với kinh sách Nguyên Thủy tên Di Lặc là một tên xa lạ.
Vậy mà sắp sửa lên nắm quyền giáo chủ Phật giáo
Biết Hội Long Hoa là một sự bịa đặt của các nhà Phật giáo phát triển, chờ cơ
hội thuận tiện nhất để mở một cuộc họp Phật giáo toàn thế giới, nếu tất cả tu sĩ
Phật giáo Nam Tông đều rơi vào các pháp thiền tưởng và chịu ảnh hưởng kinh
sách phát triển thì cuộc lật đổ Phật giáo Nguyên Thủy đã bắt đầu, nhưng vì Phật

giáo Nguyên Thủy còn có những người giữ gìn lời dạy của đức Phật nên Hội Long
Hoa chưa triển khai được, vì thế các tổ chức Phật giáo kêu gọi sự hòa hợp bằng
cách thống nhất các hệ phái Phật giáo.
Hiện nay các tổ chức Phật giáo thế giới đều công nhận Đại Thừa Phật giáo là
một hệ phái của Phật giáo, đó là một bước thắng lợi thứ nhất của Phật giáo Đại
12


Thừa. Chờ đến khi các sư Phật giáo Nguyên Thủy Nam Tông chịu ảnh hưởng sâu
đậm của giáo pháp phát triển, và các sư Nam Tông Nguyên Thủy lần lượt tu tập sai
pháp của Phật, do tưởng giải các Ngài rơi vào giáo pháp phát triển mà không hay
biết như thiền sư: Mahashi và A Chancha. Từ đó Phật giáo Nam Tông chỉ còn danh
từ Nguyên Thủy, còn pháp môn tu tập là theo kinh sách phát triển. Do đó, suy ra
hiệngiờ Phật giáo Nguyên Thủy gần như bị mất gốc, chỉ còn chờ một thời gian nữa
cho chín mùi thì Hội Long Hoa ra đời thành lập một Phật giáo mới, Đức Giáo Chủ
là đức Phật Di Lặc.
Đó là một thâm đồ sâu sắc của Bà La Môn giáo đã dựng lên đức Phật Di Lặc
là có ý diệt trừ Phật giáo tận gốc, mà hầu hết các tu sĩ Phật giáo hiện giờ: Nam
Tông lẫn Bắc Tông đều vô tình không thấy ý đồ thâm độc của Bà La Môn giáo
ngày xưa.
Đến khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu hành chứng quả giải thoát thành lập tôn
giáo Phật giáo, nhờ thế chúng ta hiện giờ mới có đạo Phật, mới có bốn chân lý:
khổ, tập, diệt, đạo.
Trong thời đức Phật đi tu không nghe nói đến bốn chân lý này như vậy mà
bảo rằng có đạo Phật ở quá khứ là sai, do người sau đặt ra thêm vào để mưu đồ lật
đổ đức Phật Thích Ca mâu Ni.
Do thế mà thời tương lai có một người tên là Từ Thị hiệu là Di Lặc được suy
tôn chức Giáo Chủ thay đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong tôn giáo mà cũng có
những sự tranh giành vị trí lãnh đạo như các nhà vua phong kiến ở thế gian thường
tranh giành ngai vàng.

Theo kinh sách phát triển đạo Phật có ba vị Giáo Chủ:

13


1/

Bảy vị Phật giáo Chủ ở quá khứ.

2/

Một vị Phật giáo Chủ ở hiện tại là: Thích Ca Mâu Ni.

3/

Một vị Phật giáo Chủ ở tương lai là: Đức Phật Di Lặc.

Sự phân chia đạo Phật có ba thời gian Giáo Chủ như vậy chẳng khác gì như
các vua quan phong kiến như đã nói ở trên. Ông vua này xuống đến ông vua khác
lên thay. Mỗi ông vua cai trị đều có cách khác nhau. Giáo Pháp phát triển cũng
giống như vậy, cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni đã trở thành Phật quá khứ và giáo
pháp của Người cũng lỗi thời vì thế mới gọi nó là “Tiểu Thừa Ngoại Đạo”.
3. Nghi lễ Đạo Phật
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người sáng
lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng nhất,
song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái và
du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của người
dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng
miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm

lịch):
- Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
14


- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát
- Ngày 14/7: Lễ Tự tứ
- Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống
người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết dân
tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y
(hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị
mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng

15


Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt
Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ
niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ
hội văn hoá - tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng
năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.
4. Tổ chức Phật giáo
Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền,
không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm
người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn.
Tăng già có từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể Tăng già có thể bao
gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.
Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất
trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn.
Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra
giúp việc.
Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia,
Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh
hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống,
văn hoá của mỗi nơi.
5. Niềm tin trong Đạo Phật
Niềm tin là cơ sở của mọi tôn giáo, nhưng trong đạo Phật, niềm tin phải đi
đôi với nhận thức đúng đắn. Niềm tin trong đạo Phật là chánh tín, tức niềm tin
đó phải chơn chánh, có chánh kiến.

16



Niềm tin trong đạo Phật là niềm tin trên cơ sở hiểu biết, trí tuệ. Chúng ta
theo đạo Phật vì thấy được giá trị lợi ích thiết thực của Phật pháp đối với đời
sống con người và xã hội, thấy được những gì Đức Phật dạy là chân lý. Chúng
ta nhận thấy đạo Phật không đơn thuần là một tôn giáo mà gồm thâu cả khoa
học, triết học, đạo đức học, nghệ thuật sống… Chúng ta mộ Phật không vì
hưởng ứng theo số đông hoặc vì tổ tiên ông bà chúng ta theo đạo Phật. Đức
Phật dạy chúng ta chỉ nên tin vào những gì đem lại an lạc hạnh phúc cho mình,
cho người trong hiện tại và tương lai, đó chính là niềm tin chân chính và sáng
suốt.
Niềm tin của người Phật tử, tức người đã quy y Tam bảo - quay về nương
tựa Phật, Pháp, Tăng - thọ trì năm giới, thực hành đời sống tại gia tu hành, là
niềm tin tuyệt đối vào Đức Phật, Phật pháp và Tăng già. Người Phật tử tin rằng
Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn về ba phương diện: tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn, có trí tuệ và phương tiện thiện xảo, Đức Phật có thể dìu dắt
chúng sinh ra khỏi vòng vô minh lầm lạc, đạt đến an lạc, cứu cánh Niết bàn.
Người Phật tử tin rằng Phật pháp là chân lý mà Đức Phật đã thân chứng, là
phương pháp diệt khổ, là con đường đưa đến an lạc giải thoát. Phật tử tin rằng
Tăng già là đoàn thể những người tiếp bước chư Phật đi trên con đường giác
ngộ giải thoát và dìu dắt chúng sinh.
Niềm tin là một trong bảy tài sản của bậc Thánh (Thất Thánh tài). Kinh
Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Niềm tin là mẹ sinh ra các công đức”. Bởi vì có
niềm tin nơi Đức Phật, có niềm tin nơi Chánh pháp, nơi Tăng già, các bậc đạo
sư thì mới quy ngưỡng và tín thọ, phụng hành giáo pháp đưa đến thành tựu
phạm hạnh, an lạc giải thoát. Thấy được giá trị lợi ích của Chánh pháp đối với
cuộc đời, chúng ta phát khởi lòng tin, và nhờ niềm tin ấy mà nỗ lực thực hành
Chánh pháp. Càng thực hành, càng áp dụng vào đời sống, càng được an lạc
17


hạnh phúc thì niềm tin càng tăng trưởng và kiên cố thêm. Kinh Niết Bàn nói:

“Lòng tin làm nhân cho nghe pháp và nghe pháp làm nhân cho lòng tin”.
Đến với đạo Phật không phải để cầu đảo van xin, không phải để nương tựa
thần quyền. Niềm tin trong đạo Phật hướng về những điều mà Đức Phật đã giác
ngộ, đó là duyên sinh, nhân quả nghiệp báo, là vô thường, khổ, không, vô ngã…
Nếu xây dựng niềm tin không vững chắc, hoặc niềm tin có được trên cơ sở nhận
thức cảm tính mà không xuất phát từ lý trí, từ kinh nghiệm thực tiễn thì sớm
muộn niềm tin ấy cũng bị đổ vỡ. Người ta dễ dàng bỏ đạo, thay đổi thái độ,
quan điểm cũng chỉ vì niềm tin không kiên cố. Người ta dễ dàng bị lôi cuốn, tha
hóa, chạy theo tà đạo, rơi vào mê tín dị đoan, làm điều tà mị cũng vì không có
niềm tin chân chính bền vững.
Tóm lại niềm tin căn bản trong đạo Phật là niềm tin Tam bảo: Phật, Pháp,
Tăng và niềm tin tự thân, tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có
thể đạt đến chỗ toàn Chân, Thiện, Mỹ và giác ngộ giải thoát. Một khi có niềm
tin nơi Tam bảo là những gì được xem là chân lý, là thánh thiện thì con người
sẽ phấn đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất để đạt được mục tiêu an lạc hạnh
phúc trong hiện tại và tương lai, cũng như con thuyền đã xác định phương
hướng, đã có bến đỗ.
III.

Quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo trên đất nước Việt

Nam
1. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ II
đến đầu thế kỷ III qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
a) Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu:

18



Con đường Hồ Tiêu tức là đường biển, xuất phát từ các hải cảng vùng
Nam Ấn rồi qua ngã Sri Lanka, Indonesia, Việt Nam… Lợi dụng được luồng
gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực
Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng
thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường
cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thuỷ thủ đoàn và các vị tăng
này nhờ đó mà đến truyền bá đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao
Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi nghỉ chân giao lưu của các
thương thuyền.
b) Phật giáo du nhập qua con đường Đồng Cỏ
Con đường Đồng Cỏ tức là đường bộ, còn gọi là con đường tơ lụa. Con
đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc
phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ châu Âu qua các vùng thảo
nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng lạc đà. Cũng có thể các
thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mekong, sông
Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam.
2. Phật Giáo Việt Nam phát triển qua các thời đại
a) Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du
nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam
Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt
động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Ðộ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc
bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với
những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Ðà La (người Ấn Ðộ đến Luy Lâu
khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu
tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình tượng
Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã
19


bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ thứ II) theo

mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài
đã viết bài "Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật
giáo tại Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít
nhất là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại
Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư);
ngài Chi Cương Lương Tiếp (người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực
(người Ấn Ðộ).
Ðến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Ðạt Ma Ðề Bà và Huệ
Thắng (người Việt). Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn Ðộ đến Giao Châu
vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ
Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Ðộ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ
nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được
phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt (Trung Hoa dịch là Phật). Ðiều này
trùng hợp với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam.
Theo từ điển Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi, Hà Nội 1991) có
ghi: "Tiếng Bụt phổ biến hơn trong văn học dân gian và là dấu hiệu chứng tỏ
Ðạo Phật truyền vào nước ta sớm lắm". Phật Giáo ở Giao Châu lúc ấy mang
màu sắc Nam phương, nhưng trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp,
người Việt Nam lại hình dung Ðức Phật như là một vị thần toàn năng có mặt ở
khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi người.
b) Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát
triển:
20


Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn
truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương
(Trung Quốc) đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam

Truyền vốn có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật
dần dần thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ,
truyện cổ tích mà thôi.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt
Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông.
•Thiền Tông :
Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Ðức Phật
Thích Ca tại Ấn Ðộ rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ
thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma. Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, vốn là thái tử
thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã Ða La, Bồ
Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông
đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý.
Tu theo pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí
tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng
chính nhờ họ ghi chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết được lịch sử Thiền
Tông ở Việt Nam.
* Dòng thiền thứ nhất: được Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi sáng lập. Ngài là
người Nam Thiên Trúc, sang Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông
Trung Hoa là Tổ Tăng Xán khuyên nên “mau đi về phương Nam mà tiếp xúc
với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây”. Ngài từ biệt và đến Việt Nam vào năm

21


580, ở tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành, Hà Bắc) để hoằng pháp và
truyền cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền, người Việt Nam.
* Dòng thiền thứ hai: là thiền phái Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô
Ngôn Thông, người Trung Hoa, sáng lập tại chùa Kiến Sơ (Phù Đổng, Hà
Bắc) vào năm 820.

* Dòng thiền thứ ba: là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo
Đường (người Trung Hoa) sáng lập. Ngài vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm
Thành, được vua Lý Thánh Tông (1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù
đầy và vua cho lập đạo tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng
Long (1069), đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả vua Lý Thánh Tông.
* Dòng thiền thứ tư: là thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông
(1258-1368) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông học Phật qua sự hướng dẫn
của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần. Sau khi
xuất gia vào năm 1299, với đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở
núi Yên Tử (tỉnh Quảng Ninh) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc
Lâm. Đó là dòng thiền Việt Nam đầu tiên, mang tính chất độc lập với sự kết
hợp hài hoà của Phật giáo Ấn-Hoa. Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua
Trần Nhân Tông đã thống nhất được các thiền phái tồn tại trước đó và toàn
bộ Giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.
Sau thời đại Lý Trần, các dòng thiền Việt Nam dường như lu mờ và
tàn lụi hẳn. Đến cuối thế kỷ XX, tiếp nối đạo mạch Việt Nam, thiền sư Thích
Thanh Từ đã phục hưng nền thiền tông Việt Nam. Đó là thời điểm đầu
những năm 70 tại tu viện Chơn Không (1970-1986), rồi đến thiền viện
Thường Chiếu (1974-1994) và hiện nay là thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt.
• Tịnh Ðộ Tông:
Khác với Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông chủ trương phải dựa vào tha lực
tức sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Ðộ cũng chỉ là những
22


pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Ðức Phật
truyền giáo ra. Chính Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến
giác ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng.
Ðiều này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn cụ thể đó là cõi
Tịnh Ðộ hay thế giới Cực Lạc do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ. Sự giúp

đỡ đó còn cho thấy bản thân của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa
dâng hương, cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và
thường xuyên niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà để đạt đến nhất tâm bất
loạn và muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm
Phật phải hình dung, quán tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên Tịnh Ðộ Tông là tông phái
phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Ðâu đâu ta cũng gặp người dân tụng
Kinh A Di Ðà và niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà. Tượng Phật A Di
Ðà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Ðiển hình là
pho tượng Phật A Di Ðà bằng đá, cao gần 2m,thờ tại chùa Phật Tích, huyện
Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057.
Ðây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Ðộ Tông đầu tiên ở
Việt Nam.


Mật tông:

Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật
ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật
Ðại Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật và Kinh Kim
Cương. Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông
phái riêng mà nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các
truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và
trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ
23


thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với
tông phái này.
Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái

riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những
truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,...
c) Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ
cực thịnh
Ðến thế kỷ thứ X thì Việt Nam đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc. Như ta
đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là
Ðạt Ma Ðề Bà và Huệ Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam:
Quán Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Ða
Lưu Chi đến Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế
kỷ thuộc nhà Ðường cai trị, đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam mới bắt đầu
giành được quyền tự chủ. Chính trong thế kỷ này Ðạo Phật mới thực sự
hưng thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971 vua Ðinh
Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền sư
Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái
Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho
chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Ðại Hành đã mời thiền sư
Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố
vấn chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã
tiếp tục trợ giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và
cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn
Thông và Thảo Ðường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của
thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần
24


có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó. Tăng sĩ
đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các thiền sư
đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm. Tinh

thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính
sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo,
mọi người dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo.
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được
xây dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Ðại Lãm, chùa Linh
Xứng, chùa Một Cột, chùa Phổ Minh.
d) Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hưng
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại
Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường
bước cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Ðức thì mất chủ quyền,
nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay
lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và
dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy
tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không
còn được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ
XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải
giữa các thế lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền
độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của
phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung
Hoa, Ấn Ðộ và Miến Ðiện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào
chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội
Phật Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ,
và xuất bản tạp chí Ðuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra
25


×