NHÌN LẠI THƠ KHÁNG CHIẾN 1945 – 1975
Trần Thị Minh Giới
*
1. Dẫn nhập
Tiếng súng đã tắt – bom đạn đã thôi gầm thét. Kỷ nguyên mới đã
được mở ra cho dân tộc ta với chiến thắng vĩ đại mùa xuân 1975. Toàn dân
tộc bước sang một thời kỳ mới – thời kỳ xây dựng và phát triển.
Ba mươi năm đã trôi qua, ba mươi năm chỉ là cái chớp mắt của lịch sử
nhưng đủ để một thế hệ trưởng thành, một thế hệ không biết đến chiến tranh
nhìn nhận đánh giá nền văn học chiến tranh và cũng đủ để các thế hệ trưởng
thành trong chiến tranh nhìn nhận lại, đánh giá lại nền văn học cách mạng
trong giai đoạn vừa qua – giai đoạn 1945 – 1975.
Vì sao cần có sự nhận thức, đánh giá đó ?
Theo Trần Đình Sử, đó là vì “do nhu cầu đổi mới bức thiết của văn
học trong công cuộc đổi mới chung của đất nước, cũng như do khát vọng
thiết tha muốn tự vượt lên chính mình trong thời kỳ mới” (7;31). Và như
vậy, việc nhìn nhận, đánh giá lại văn học cách mạng giai đoạn này là cần
thiết. Vấn đề là để nhìn nhận và đánh giá lại nền văn học giai đoạn này đã
nảy sinh rất nhiều ý kiến, không trùng khớp nhau, thậm chí phủ định nhau.
“Bên cạnh việc khẳng định nền văn học cách mạng giai đoạn này mà những
nhược điểm được nhận thức sâu sắc hơn, một số hiện tượng văn học từng
được đánh giá cao nay không còn được giữ nguyên kích thước như cũ”
(7;31). Cũng có ý kiến cho rằng văn học 1945 – 1975 là “một khúc gãy làm
gián đoạn tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đã được dấy lên từ đầu thế
kỷ, nhất là giai đoạn 1930 – 1945, mà mãi tới sau 1986 mới lại được tiếp
nối” (7;32). Ý kiến này có lẽ xuất phát từ việc đem “đối lập tuyệt đối giữa cá
nhân và cộng đồng, giữa ý thức xã hội và ý thức nhân bản – đó là sự đề cao
ý thức cá nhân, chú trọng đến việc khám phá cái tôi mà xem nhẹ ý thức cộng
đồng” (5;16). Cũng có ý kiến cho rằng, văn học giai đoạn này là văn học “hy
sinh nghệ thuật” vì nó phục vụ mục đích chính trị cách mạng. Dường như
việc phục vụ chính trị, cổ vũ và tuyên truyền là tất cả giá trị của nền văn học
này. Và cũng có ý kiến cho rằng nền văn học này đã “lạm dụng nguyên lý
phản ánh, cốt ghi chép cho nhiều người thật, việc thật” và giá trị đích thực
của văn học chủ yếu là ở phương diện tư liệu, đời sống (7;32).
Vì vậy trong bài viết này, chúng tôi muốn góp thêm một vài ý kiến để
nhìn nhận, đánh giá lại nền thơ kháng chiến của dân tộc trong giai đoạn 1945
– 1975.
2. Nền thơ kháng chiến 1945-1975 - Một vài nhận định
Theo Nguyễn Văn Long (1996), sở dĩ có nhiều ý kiến khác nhau như
vậy là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu có lẽ do góc nhìn và cách tiếp
*
Th.S-NCS chuyên ngành Văn học, CBGD Khoa Việt Nam học
1
cận khác nhau. Ông cũng cho rằng để tiếp cận và đánh giá một giai đoạn văn
học như vậy có thể dựa vào một vài tiêu chí mà ông đã mạnh dạn đưa ra như
sau:
1. Xem xét tác dụng của văn học đối với thời đại: sự đáp ứng của nó
đối với các đòi hỏi bức thiết của thời đại ấy – đây có thể coi là giá
trị được nhìn nhận từ chức năng xã hội – lịch sử của văn học.
2. Các giá trị ấy lại phải xem có bền vững, có khả năng vượt qua
những giới hạn của thời gian, của không gian để đến với mọi con
người ở mọi thời đại hay không? Đấy phải chăng là những giá trị
mang tính nhân loại phổ quát?
3. Đặt thời kỳ văn học đó trong tiến trình phát triển của nền văn học
dân tộc: cần tính đến năng lực kế thừa tinh hoa văn học truyền
thống và nhân loại để tạo ra cái mới, nhằm một mặt giữ gìn bản
sắc và kinh nghiệm quí báu, và mặt khác thúc đẩy văn học đi lên
(5;16, 17).
Những tiêu chí mang tính tiền đề này có thể vẫn còn có điều cần bàn
nhưng về đại thể nó cũng đủ để chúng ta căn cứ vào đó mà tiếp cận, đánh
giá. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sử dụng các tiêu chí này để nhìn
nhận lại, đánh giá lại nền thơ kháng chiến trong giai đoạn 1945 – 1975. Tất
nhiên vì phạm vi bài viết không cho phép, chúng tôi chỉ xin đề cập đến
những nét tiêu biểu nhất.
1. Tiêu chí thứ nhất Xem xét tác dụng của văn học đối với thời đại: sự
đáp ứng của nó đối với các đòi hỏi bức thiết của thời đại ấy
Giai đoạn 1945 – 1975 là giai đoạn mà cả nước tiến hành hai cuộc
kháng chiến chống lại hai đế quốc hùng mạnh nhất nhì thế giới vì độc lập, tự
do, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội. Toàn thể nhân dân ta bước vào
cuộc kháng chiến đầy gian khổ và khó khăn này với một quyết tâm cao độ.
Khi cả dân tộc trong tư thế sẵn sàng xung trận thì thơ ca lẽ nào chỉ để ca
tụng sự tinh khiết của một giọt sương, sự đẹp đẽ của một cành hồng, sự lảnh
lót véo von của một tiếng chim – như các nhà thơ trước đã từng. Lẽ nào lại
như thế – không thể như thế! Thi ca trong giai đoạn này phải là đạn bom, là
tiếng kèn xung trận đanh thép. Sóng Hồng – một trong những nhà thơ, nhà
lãnh đạo cách mạng đã đưa ra những câu thơ khẳng định phương hướng
sáng tác mới của các nhà thơ:
… Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ : bom đạn phá cường quyền …
(Là thi sĩ – Sóng Hồng)
Và điều đó càng được khẳng định với Chủ tịch Hồ Chí Minh :
… Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong …
Thơ ca đến lúc này đã trở thành vũ khí trong tay các nhà thơ – chiến
sĩ. Đòi hỏi bức thiết của thời đại lúc này là giải phóng dân tộc, là xây dựng
2
tổ quốc, là bảo vệ nền hòa bình ở miền Bắc và giải phóng miền Nam mà thơ
ca có nhiệm vụ phải đáp ứng. Trong một đất nước luôn luôn phải đối đầu với
quỉ dữ thì việc cần làm đầu tiên vẫn là phải tiêu diệt bọn quỉ dữ ấy, mang lại
yên ổn cho đời. Đối với những người sống trong những ngày giặc Mỹ rải
bom oanh tạc thì bài thơ cần cho họ là gì ? Lời rên xiết hay lời nguyện cầu.
Ở xa tít bên kia đại dương, lũ giặc sẽ nghe ư hay tận trên thiên đàng xa thẳm,
Chúa sẽ thấu ư? Có nghĩa gì đâu chứ! Bài thơ cần cho họ lúc này “chính là
chiếc Mig – chiếc Mig được lái bởi các anh hùng Việt Nam đang lao vào các
phóng pháo cơ Mỹ và tiêu diệt chúng”(1;60). Trong những ngày tháng khốc
liệt này, thơ phải có nhiệm vụ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh. Không
phải chỉ vì “ơi hời” mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan – (Chế Lan Viên).
Các nhà thơ đã xác định việc mình cần làm và thơ ca biết rõ việc mình cần
làm là:
Đừng làm nhà thơ đi tìm kiếm sao Kim
Thứ vàng ấy, loài người chưa thiết đến
Đi tìm quĩ đạo các trời xa, hay lắm !
Nhưng cần giải phóng ta ra khỏi quĩ đạo
Những trận xích sắt xe tăng và những trận càn
(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
Đáp ứng sự đòi hỏi bức thiết của thời đại có nghĩa là phải trả lời câu
hỏi “Tổ quốc hay là chết” (lời của chủ tịch Cuba – Phiđen Catxtơrô) – mà trả
lời câu hỏi này chính là sự chọn lựa của trái tim – và cái giá của sự chọn lựa
là máu, là sinh mạng – nhưng trách nhiệm của nhà thơ là phải trả lời. “Câu
trả lời ấy không phải của anh mà là với tư cách của một thế hệ những thanh
niên nước Việt – cả dân tộc Việt – một dân tộc chịu nhiều oan ức và khổ
đau, trong những tháng năm của một thời kỳ lịch sử” (8;98,99).
Dù thế nào chăng nữa, thì đối với các nhà thơ chiến sĩ - “cái giá trị
thiêng liêng và cuối cùng vẫn thuộc về Tổ Quốc” (8;100). Họ đã chứng minh
như thế:
Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi, dù chỉ một gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao, Tổ quốc?
Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim …
(Đường tới thành phố – Hữu Thỉnh)
Với tất cả nhận thức ấy về giá trị thơ ca đối với cuộc sống, về vai trò
của người cầm bút đối với thời đại, thơ ca kháng chiến giai đoạn 1945 –
1975 đã được nuôi dưỡng, tiếp sức và gắn bó mật thiết với những bước đi
của cách mạng, với vận mệnh của dân tộc và đời sống của nhân dân. Thơ
giai đoạn này đã phản ánh hầu như mọi mặt của cuộc sống, cuộc chiến đấu
dũng cảm của nhân dân ta – điều đó cũng có nghĩa là nó giữ được vai trò và
chức năng xã hội– lịch sử của mình, đã chứng minh được năng lực phục vụ
những mục tiêu cao cả của cách mạng và đã tạo được một giá trị thật sự
3
đáng kể, đáng trân trọng – “thước đo giá trị của một nền văn học la nó phục
vụ được bao nhiêu cho sự nghiệp cách mạng” (6;130). Nó “đã thể hiện con
người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng).
Thơ ca phục vụ cách mạng giai đoạn này đã được các tầng lớp văn
nghệ sĩ chấp nhận một cách tự giác và tự nguyện, bởi vì họ cho rằng đó cũng
chính là trách nhiệm của một công dân:
Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu
(Tố Hữu)
Đó cũng chính là sự trăn trở của các nhà thơ:
Chớ bao giờ quên nỗi đau của một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không
Nhân dân ở quanh mà ta chẳng thấy
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng
(Người thay đổi đời tôi – người thay đổi thơ tôi – Chế Lan Viên )
là sự biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ, người đã làm nhà thơ “sáng mắt sáng
lòng”:
… Một buổi sáng nhìn lòng ta, ta thấy Bác
Nước mắt ràn, ta cảm hết ơn sâu
(Chế Lan Viên)
để rồi cuối cùng khẳng định :
… Ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc …
… Cho tôi sinh giữa những ngày chống Mỹ
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
Bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và
hạ trực thăng rơi
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên)
Như vậy, xét ở tiêu chí tác dụng của văn học đối với thời đại: sự đáp
ứng của nó đối với các đòi hỏi bức thiết của thời đại ấy thì thơ ca kháng
chiến giai đoạn 1945 – 1975 hoàn toàn thoả mãn – đó là thời đại của:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương
(Tố Hữu)
2. Tiêu chí thứ hai Giá trị mang tính nhân loại phổ quát
Ở đâu có áp bức – ở đó tất có đấu tranh. Ở đâu có bạo tàn, ở đó tất có
sự vùng dậy. Chân lý ấy dường như đúng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi đất nước,
mọi thời đại. Chừng nào trên trái đất này vẫn còn bom rơi, đạn nổ, vẫn còn
sự rên xiết dưới sự khốc liệt của các cuộc chiến tranh thì chừng ấy giá trị của
bài thơ “Đợi anh về” sẽ không bao giờ là vô ích.
Đã từng có người nói “khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng”. Có thể là
như vậy nhưng thơ ca thì không. Khi đại bác gầm thì thơ ca càng vút lên với
4
những âm điệu khác nhau để kêu gọi, để vạch trần, để tố cáo, để lên án và
cũng là để hun đúc cho mọi người sự quyết tâm, sự đồng cảm chống lại cái
xấu và cái ác, cái phi nghĩa và cái phi lý. Trong những ngày nhân loại rên
xiết dưới gót chân bọn phát xít thì cuộc chiến đấu đó không còn là cuộc
chiến đấu của nhân dân Đức, Pháp, Nga, Mỹ… nữa, mà cuộc chiến đấu đó
đã được phát động trên phạm vi toàn cầu, trong đó thơ ca đã góp một phần
quan trọng. Riêng nước Đức, thơ ca đã tạo nên một dòng văn học mang tên
văn học Đức chống phát xít. Ngay từ năm 1937, Giăng Pêtơsen đã khẳng
định quan niệm nghệ thuật của mình: “Nước Đức ngày mai, nước Đức tự do
sẽ xóa bỏ tận gốc mọi sự tra tấn, hiềm thù, đổ máu, … Vì một nước Đức như
thế mà chúng ta chiến đấu, vì một nước Đức như thế mà chúng ta cầm bút
…” (4;25). Cũng giống như ở đất nước ta giai đoạn 1945 – 1975, quan điểm
nghệ thuật đầy tính chiến đấu này có cơ sở từ hiện thực đời sống đen tối, đau
thương mà quật khởi, từ ý thức chính trị rõ ràng của những nhà văn cầm bút.
Nếu như Giôhan Becsơ đã nhấn mạnh hai yếu tố cơ bản của văn học Đức
chống phát xít là “thứ nhất đó là nền văn học của giai cấp công nhân và các
lượng dân chủ tiến bộ tiếp tục sự nghiệp bản vệ những truyền thống nhân
đạo Đức trong cuộc đấu tranh chống lại sự tàn bạo phát xít. Đó là nền văn
học nhân danh lý tưởng cao cả của loài người, nhân danh toàn bộ truyền
thống tốt đẹp của nghệ thuật Đức để thể hiện tiếng nói và lương tâm của dân
tộc. Thứ hai đó là nền văn học tập hợp trên các cơ sở các nhà hiện thực phê
phán vĩ đại. Dù họ xuất thân từ giai cấp công nhân hay giai cấp tư sản nhưng
tiếng nói nghệ thuật của họ đã trở thành vũ khí chống lại chủ nghĩa phát xít.”
(4;27) Thì cũng như họ, ở Việt Nam chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến
cũng vì chúng ta muốn bảo vệ chân lý và công lý; nhân danh lý tưởng cao cả
của loài người. Chúng ta chiến đấu không chỉ cho mình mà còn chiến đấu
cho cả các dân tộc anh em khác còn đắm chìm trong đêm tối của kiếp đời nô
lệ. Chúng ta đấu tranh, chúng ta chiến đấu không đơn độc, dù đất nước này
cách đất nước kia một nửa quả địa cầu; nhưng những vần thơ chiến đấu,
những vần thơ mang trong đó hơi thở nóng hổi của thời đại thì dường như
lại rất gần gũi. Nó vượt qua mọi biên giới hữu hình, không phân biệt chủng
tộc, màu da. Nó cũng vượt qua biên giới vô hình của thời gian để lay động
trái tim của nhiều thế hệ.
Bài thơ sáng viết ở Việt Nam, chiều đọc ở Mạc Tư Khoa
Sáng hôm sau đốt cháy lên những cuộc biểu tình ở Pari, Nữu
Ước …
Nó viết ở kinh tuyến này và rung động trào sôi ở kinh tuyến khác
Trong dân tộc và ngoài dân tộc …
(Sổ tay thơ – Chế Lan Viên)
Và chúng ta đã biết, nếu thơ ca được sinh ra trong mưa bom, bão đạn,
trong bừng bừng lửa hận và ngút ngàn thương đau thì tất nhiên không thể
5