Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA TRỊ LIỆU HÀNH VI NHẬN THỨC ĐẾN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÓ RỐI LOẠN LO ÂU DỰA TRÊN ĐỊNH HÌNH TRƯỜNG HỢP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.97 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

HUỲNH HỒ NGỌC ANH

TÁC ĐỘNG CỦA TRỊ LIỆU HÀNH VI NHẬN THỨC ĐẾN
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÓ RỐI LOẠN LO ÂU
DỰA TRÊN ĐỊNH HÌNH TRƯỜNG HỢP

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN

Người hướng dẫn khoa học : TS. Đỗ Ngọc Khanh

HÀ NỘI – 2012

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
CBCL



Đọc là
Child Behavior Checklist
Bảng kiểm hành vi cho trẻ em

CBT

Cognitive Behavior Therapy
Trị liệu hành vi nhận thức

DSM IV

Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders,
Fourth edition Sổ tay chẩn đoán và phân loại bệnh tâm
thần (của hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ)

ICD 10

International Statistical Classification of Diseases and
Related Health Problems 10th Revision
Bảng phân loại quốc tế những vấn đề sức khoẻ tâm thần
lần thứ 10

RLLA

Rối loạn lo âu

THPT

Trung học phổ thông


3


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................

1

2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................

2

3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu ............................................................

2

4. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................

3

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................

3

6. Giới hạn nghiên cứu ................................................................................

3


7. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................

3

8. Đóng góp mới của nghiên cứu ................................................................

4

9. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................

4

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..............

5

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu .........................................................

5

1.2. Học sinh trung học phổ thông .............................................................

8

1.2.1. Khái niệm học sinh trung học phổ thông .........................................

8

1.2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông ..........................


8

1.3. Rối loạn lo âu – Các vấn đề về rối loạn lo âu ......................................

10

1.3.1. Định nghĩa rối loạn lo âu..................................................................

10

1.3.2. Các biểu hiện của rối loạn lo âu ........................................................

12

1.3.3. Nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu theo các trường phái tâm lý học.......

14

1.3.4. Hậu quả của rối loạn lo âu ................................................................

16

1.3.5. Các phương thức trị liệu rối loạn lo âu .............................................

18

1.4. Trị liệu hành vi – nhận thức .................................................................

19


1.4.1. Tiếp cận hành vi ...............................................................................

19

1.4.2. Tiếp cận nhận thức ...........................................................................

21

1.4.3. Tiếp cận hành vi –nhận thức .............................................................

24

1.5 Định hình trường hợp ...........................................................................

25

1.5.1. Thế nào là định hình trường hợp ......................................................

25

4


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi

phi

1.5.2. Chức năng của định hình trường hợp................................................

28

1.5.3. Một số mô hình định hình trường hợpcơ bản……………………

29

Chƣơng 2: QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ...........................................................................................

31

2.1. Quy trình nghiên cứu ...........................................................................

31

2.1.1. Kế hoạch nghiên cứu .........................................................................

31

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu .........................................................................

31

2.1.3. Giới thiệu chung về quá trình thực hành ...........................................

33


2.1.4. Xây dựng mô hình hành vi – nhận thức và mô hình định hình
trường hợp ...................................................................................................

33

2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................

69

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.......................................................

69

2.2.2. Phương pháp trắc nghiệm thang đo ..................................................

69

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp ..................................................

71

2.2.4. Phương pháp tác động trị liệu ...........................................................

71

Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................

72


3.1.Giai đoạn sàng lọc .................................................................................

72

3.2. Trình bày phương thức trị liệu đối với trường hợp cụ thể ...................

73

3.2.1. Trường hợp học sinh có rối loạn stress sau sang chấn ......................

73

3.2.2.Trường hợp thân chủ ám ảnh sợ xã hội..............................................

99

3.3. Thuận lợi và khó khăn khi áp dụng mô hình hành vi – nhận thức
đối với học sinh THPT có rối loạn lo âu ..................................................... 121
3.3.1. Thuận lợi ........................................................................................... 121
3.3.2. Khó khăn ........................................................................................... 121
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 122
1.Kết luận .................................................................................................... 122
2.Khuyến nghị ............................................................................................. 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 123
PHỤ LỤC

5


MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài
Theo đánh giá chung của nhiều quốc gia trên thế giới, các rối loạn liên
quan đến tâm lý chiếm 20% -25% dân số. Trong đó rối loạn lo âu là rối loạn
thường gặp và phổ biến. Nghiên cứu của Rieger và cộng sự (1990) cho thấy
có khoảng 15% dân số nói chung đã trải nghiệm dấu hiệu đặc trưng của rối
loạn lo âu và 2,3% đến 8,1% đang có rối loạn lo âu hiện hành.
Hiện nay, rối loạn lo âu là một trong những rối loạn tâm lý điển hình,
đặc biệt đối với lứa tuổi học sinh trung học phổ thông.Theo thống kê, tỉ lệ
mắc phải lo âu ước tính ở thanh thiếu niên và trẻ em khoảng từ 3% đến 20%,
làm cho rối loạn lo âu trở thành một trong những rối loạn thường gặp của trẻ
em và thanh thiếu niên (Albano, Chorpita, & Barlow, 2003).Học sinh trung
học phổ thông từ 15 đến 18 tuổi được gọi là lứa tuổi đầu thanh niên (thanh
niên học sinh). Độ tuổi này là giai đoạn hoàn thiện sự phát triển thể chất của
con người cả về phương diện cấu tạo và chức năng. Về thể lực thì đây là thời
kỳ sung mãn nhất của đời người. Ở độ tuổi này các em có nhiều vấn đề để lo
âu: học tập, bạn bè, hình ảnh bản thân hiện tại và tương lai, tình yêu đôi lứa,
gia đình, những kỳ vọng mà gia đình cũng như bản thân tự đặt ra. Đó chính là
những lo âu bình thường mà bất cứ người trưởng thành nào cũng từng trải
qua. Tuy nhiên, lo âu diễn ra quá mức sẽ ảnh hưởng đến các chức năng về
mặt xã hội như là công việc học tập, giao tiếp. Nếu quá nặng bệnh nhân sẽ bị
tàn tật về mặt xã hội. Điều đáng nói ở đây lo âu ở mức độ nhẹ và vừa thì ít
được thể hiện ra bên ngoài như hành vi nên ít được chú ý đến. Chỉ khi nào nó
thật sự ảnh hưởng đến các chức năng của cuộc sống hoặc chuyển sang những
rối loạn khác như trầm cảm thì lúc đó mới được đưa đi khám.
Hiện nay, việc điều trị cho bệnh nhân có rối loạn lo âu đạt được hiệu quả
thông qua việc dùng thuốc và trị liệu bằng hành vi – nhận thức. Với phương
pháp trị liệu bằng hành vi – nhận thức bao gồm nhiều nội dung khác nhau như

1



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

giáo dục về tâm lý, hướng dẫn cho bệnh nhân cách xử lý khi có những biểu hiện
của lo âu, hoảng sợ như là tập thư giãn, tập hít thở sâu. Hoặc có những liệu pháp
phơi nhiễm với những yếu tố gây cho bệnh nhân lo âu. Từ đó bệnh nhân sẽ dần
dần thích nghi được với những hoàn cảnh gây ra tình trạng lo âu và các triệu
chứng sẽ mất dần. Việc áp dụng trị liệu hành vi – nhận thức được chứng minh là
có tác động rất lớn đến học sinh trung học phổ thông tại Mĩ .Tuy nhiên, điều này
chưa được phổ biến tại Việt Nam.Đặc biệt tại các trường trung học phổ thông –
nơi học sinh mắc phải rối loạn này rất nhiều, nhưng vì là rối loạn hướng nội nên
ít biểu hiện ra bên ngoài. Do đó chưa được quan tâm chữa trị.
Từ những mong muốn mang đến cho học sinh một cuộc sống tinh thần
thoải mái nhất để có thể học tập và tham gia các hoạt động của nhà trường,
chúng tôi chọn đề tài “Tác động của trị liệu hành vi – nhận thức đến học sinh
Trung học phổ thông có rối loạn lo âu dựa trên định hình trường hợp”.
2. Mục đích nghiên cứu
Khám phá những tác động đạt được khi sử dụng liệu pháp hành vi –
nhận thức đối với học sinh THPT có RLLA và những khó khăn được rút ra
trong quá trình làm việc.
Hướng dẫn các bước thực hành trị liệu lo âu cho học sinh trung học
phổ thông.
3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Xem xét mức độ phù hợp của mô hình hành vi nhận thức đối với học
sinh có rối loạn lo âu tại trường Trung học phổ thông Marie Curie thành phố
Hồ Chí Minh.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Tổng số khách thể tham gia nghiên cứu là 2 học sinh trường Trung
học phổ thông Marie Curie thành phố Hồ Chí Minh đã được sàng lọc từ 200
học sinh của khối lớp 10 và 11.

2


4. Giả thuyết nghiên cứu
Cho đến nay phương pháp trị liệu bằng hành vi – nhận thức được
chứng minh là có tác động tích cực đến học sinh trung học phổ thông có rối
loạn lo âu tại các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, nó cũng có tác động tích cực
đến học sinh trung học phổ thông có rối loạn lo âu tại Việt Nam.
Niềm tin và sự hợp tác của học sinh là một trong những điều kiện tiên
quyết góp phần tạo nên sự thành công trong trị liệu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về học sinh trung học phổ thông
và rối loạn lo âu thường gặp ở độ tuổi này.
Xây dựng cấu trúc trị liệu bằng mô hình hành vi – nhận thức có thể áp
dụng đối với học sinh trung học phổ thông có rối loạn lo âu.
Xây dựng mô hình định hình trường hợp đối với những thân chủ có
rối loạn lo âu.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi chỉ nghiên cứu: Việc ứng dụng trị liệu
hành vi – nhận thức cụ thể bằng hai kỹ thuật phơi nhiễm và tái cấu trúc nhận
thức đối với học sinh trung học phổ thông có rối loạn lo âu.

6.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Trị liệu học sinh có rối loạn lo âu đã qua sàng lọc ban đầu
6.3. Địa bàn nghiên cứu
Trường Trung học phổ thông Marie Curie thành phố Hồ Chí Minh.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp trắc nghiệm (sử dụng thang đo)
- Phương pháp tác động trị liệu

3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

8. Đóng góp mới của nghiên cứu
8.1. Đóng góp về mặt lý luận
Những kết quả thu được về mặt lý luận để làm rõ:
Trị liệu bằng hành vi – nhận thức có tác động tích cực đến học sinh
trung học phổ thông có rối loạn lo âu tại Việt Nam.
Xây dựng cấu trúc hoàn chỉnh về một phiên trị liệu bằng hành vi –
nhận thức.
Xây dựng mô hình định hình trường hợp đối với học sinh có rối loạn
lo âu.

8.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về tác động của trị liệu hành vi –
nhận thức đến học sinh trung học phổ thông có rối loạn lo âu một cách bài
bản đối với từng trường hợp cụ thể dựa trên phương pháp định hình trường
hợp tại Việt Nam.
Nghiên cứu này có thể làm tài liệu tham khảo cũng như là cơ sở để các
nhà tâm lý lâm sàng nghiên cứu sâu hơn nữa về việc áp dụng trị liệu hành vi
– nhận thức đối với trẻ em Việt Nam có rối loạn lo âu.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, kết luận và khuyến nghị, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Xây dựng mô hình
Chương 3: Quy trình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Vài nét về tình hình nghiên cứu lo âu ở Việt Nam:
Ở nước ta hiện nay vấn đề sức khỏe tâm thần đối với trẻ em và vị thành
niên đang được các ngành các cấp quan tâm. Tuy nhiên, đa số những công
trình nghiên cứu đều tập trung tìm ra nguyên nhân gây rối nhiễu tâm lý và
những biện pháp can thiệp mang tính chất chung. Có rất ít các nghiên cứu
độc lập, chuyên biệt đối với rối loạn lo âu và cách điều trị theo hướng trị liệu
tâm lý. Theo nghiên cứu của viện nhi trung ương: Từ năm 1982 - 1989:
khoảng 10% - 26%, từ năm 1990 – 1995 có 3% - 32% ở học sinh tuổi 6 – 15

có biểu hiện rối loạn về hành vi và cảm xúc. Điều tra toàn quốc do Viện nhi
thực hiện cho thấy tỷ lệ 1% - 6% học sinh có rối loạn cảm xúc.
Một số nghiên cứu trong nước cho thấy tỷ lệ trẻ em Việt Nam có rối
loạn lo âu cao. Điển hình, nghiên cứu của bác sĩ Hoàng Cẩm Tú cùng cộng
sự trên hơn 1500 trẻ tại hai phường Kim Liên và Trung Tự - quận Đống Đa –
thành phố Hà Nội (2000) cho thấy có tới 1,9% - 3% trẻ có lo âu – trầm cảm.
Nghiên cứu của nhà nghiên cứu Nguyễn Công Khanh (2000) trên 503 học
sinh trung học cơ sở cho thấy tỉ lệ trẻ đã từng trải qua rối loạn lo âu là rất cao:
17,65% - 19,20%. Nghiên cứu “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe tâm lý
– tâm thần cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai” do BS.Nguyễn Văn Thọ và
cộng sự thực hiện (1998 – 2000) cho thấy lo âu – trầm cảm chiếm tỷ lệ từ
10% - 21% trong số các học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Nghiên cứu về nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu đối với học sinh
trường trung học phổ thông chuyên Quảng Bình. Với đề tài thạc sỹ của mình
tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương đã đưa ra bốn nhóm nguyên nhân chính
gây ra rối loạn lo âu ở học sinh: nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập,
nhóm nguyên nhân liên quan đến gia đình, nhóm nguyên nhân liên quan đến

5


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

các mối quan hệ xã hội và nhóm nguyên nhân liên quan đến bản thân học

sinh. Trong đó, nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập là nhóm nguyên
nhân chính gây ra lo âu cho các em học sinh ở trường THPT Chuyên Quảng
Bình. Việc học tập đem đến cho các em áp lực nặng nề, nhất là kết quả học
tập thực sự là nỗi băn khoăn, lo lắng và cũng là sự ám ảnh của các em
trong số khách thể của luận văn. Tác giả cũng có những buổi trị liệu cá
nhân đối với học sinh. Tuy nhiên, những buổi trị liệu ấy mới chỉ dừng lại ở
mức độ khuyên giải và giúp học sinh có thể cân bằng cảm xúc tạm thời,
chưa thực hiện được mô hình theo trình tự để học sinh có thể khống chế lo
âu sau trị liệu.
Đáng chú ý là đề tài nghiên cứu “Bước đầu áp dụng mô hình trị liệu
nhận thức hành vi cho trẻ em có rối loạn lo âu”của nhóm tác giả Trần Thành
Nam, Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Thị Hồng Thúy và Cao Vũ Hùng. Nghiên
cứu xây dựng mô hình hành vi – nhận thức cho trẻ có rối loạn lo âu và áp
dụng để điều trị cho 20 trẻđược chẩn đoán là RLLA. Sau quá trình trị liệu
nhóm tác giả đã đưa ra kết quả có 11 trẻ cùng gia đình tuân thủ đầy đủ cam
kết, 9 trẻ cùng gia đình không thực hiện đúng cam kết. Sau 8 buổi làm việc
thì thang điểm CBCL của trẻ đã giảm hẳn, trẻ hết RLLA theo chẩn đoán của
DSM IV. Với nghiên cứu này, nhóm tác giả đưa ra mô hình nhận thức – hành
vi. Mô hình chữa trị được coi là hiệu quả đối với trẻ có rối loạn lo âu và
chứng minh rằng với những trẻ có rối loạn lo âu nếu thực hiện đầy đủ các
phiên trị liệu thì vấn đề lo âu ở trẻ sẽ giảm dần và có thể hết hẳn. Tuy nhiên,
trong các buổi làm việc, nhóm nghiên cứu quá chú trọng đến thư giãn mà
chưa có bước chuẩn bị cho thân chủ sau khi trị liệu kết thúc. Thân chủ chấm
dứt hẳn lo âu tại thời điểm hiện tại, nhưng lo âu có thể quay trở lại khi gặp
phải những vấn đề khó giải quyết trong tương lai.Chính vì thế cần phải có sự
chuẩn bị cho thân chủ khi lo âu quay trở lại để ứng phó được bằng cách sử
dụng những kỹ thuật đã học.

6



Vài nét tình hình nghiên cứu lo âu ở nƣớc ngoài:
Hướng nghiên cứu về nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu, phải kể đến
công trình của M.Prior và cộng sự (1983 – 2001). Trên 2.443 trẻ được tham gia
vào công trình nghiên cứu theo chiều dọc từ lúc trẻ mới sinh đến 18 tuổi. Kết
quả cho thấy 42% trẻ em có tính hay xấu hổ, nhút nhát, thu mình trước 9 tuổi
thường có rối loạn lo âu vào giai đoạn 13-14 tuổi. Warren và Huston (1997) cho
rằng mối quan hệ gắn bó mẹ con kéo dài làm tăng trạng thái lo âu của trẻ. Sự
gắn bó kéo dài là một yếu tố dự đoán quan trọng về trạng thái lo âu của trẻ em
Hướng nghiên cứu về trị liệu cho rối loạn lo âu có rất nhiều trường
phái khác nhau. Gần đây, trị liệu lo âu dựa trên trường phái tâm lý học hành
vi – nhận thức đang được sự quan tâm của các nhà tâm lý.
Đầu tiên, phải nói đến công trình nghiên cứu của Jacqueline B.Persons
“hướng dẫn trị liệu dựa trên thực chứng” cung cấp các bằng chứng để hướng
dẫn trị liệu đối với từng thân chủ cụ thể giúp các nhà tâm lý phát triển kế
hoạch trị liệu dựa trên những hiệu quả can thiệp đã được chứng minh.
Tiếp đó là sự ra đời của cuốn sách “mô hình hành vi – nhận thức đối
với trẻ lo âu” của Bruce F.Chorpita. Cuốn sách này hướng dẫn trị liệu lo âu
đối với từng cá nhân dựa trên thực chứng.Những kỹ thuật trong cuốn sách
được chứng minh là có hiệu quả qua kết quả nghiên cứu của Chorpita,
Taylor, Fraincis, Moffitt và Austin (2004). Quá trình nghiên cứu, viết luận
văn tôi đã dịch và tham khảo những mô hình trong cuốn sách này để xây
dựng mô hình hành vi nhận thức phù hợp với học sinh trung học phổ thông
có rối loạn lo âu tại Việt Nam.
Chương trình trị liệu của Phillip Kendall với tên gọi “Coping cat
workbook”, và chương trình can thiệp lo âu của tác giả Úc Paula Brret, Jane
Hollmes (1999) với tên gọi “Friends”. Hai chương trình trị liệu này được
Wignall và Rapee (1998) ứng dụng để trị liệu lo âu mang lại những kết quả
được thừa nhận. Tác giả Paul Stallard với chương trình can thiệp “Think


7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

good – Fell good” mang đến một tiến trình trị liệu cụ thể và đầy đủ cho các
nhà lâm sàng.
1.2. Học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Khái niệm học sinh trung học phổ thông
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: Trung học phổ thông là một bậc
trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, đứng sau tiểu học, trung học
cơ sở và trước cao đẳng hoặc đại học. Trung học phổ thông kéo dài 3 năm (từ
lớp 10 đến lớp 12).Để tốt nghiệp bậc học này, học sinh phải vượt qua kì thi
tốt nghiệp Trung học phổ thông vào cuối năm học lớp 12 (thi tốt nghiệp cấp
3) (trước đây thường gọi là Thi tú tài).
1.2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh trung học phổ thông
Những yếu tố tâm lý lứa tuổi tác động hình thành lo âu của học sinh
THPT.
Sự phát triển tự ý thức:
Đây là lứa tuổi tự khẳng định, nên sự nhìn nhận về bản thân sâu sắc,
nghiêm khắc hơn so với lứa tuổi trung học cơ sở. Mặt khác các em không chỉ
nhìn nhận cái tôi của bản thân trong hiện tại mà còn nhận thức vị trí của mình
trong xã hội và tương lai. Các em nhìn nhận vai trò của mình đối với gia đình
và xã hội. Chính điều này khiến các em phải tự hoàn thiện để có thể phù hợp

với yêu cầu của gia đình và đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Nếu không đạt được
những điều này sẽ khiến các em lo lắng, chán nản và thất vọng.
Lí tưởng sống và tính tích cực xã hội của học sinh THPT:
Lứa tuổi này các em thể hiện lý tưởng sống khá rõ, tạo nên áp lực cố gắng
hết sức trong học tập để có thể khẳng định bản thân. Đồng thời thiên hướng lựa
chọn nghề nghiệp cho tương lai là một trong những yếu tố khiến học sinh THPT
căng thẳng và mệt mỏi.
Việc lựa chọn nghề nghiệp ảnh hưởng rất nhiều từ mong đợi của cha mẹ
và những đòi hỏi của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển đặt ra yêu cầu đối với

8


mỗi công dân phải có một nền tảng kiến thức nhất định để đáp ứng với nền
kinh tế tri thức. Cha mẹ mong muốn con mình lập thân bằng con đường học
vấn do đó không tiếc sức đầu tư cho con. Những yếu tố này tạo nên áp lực
quá lớn đối với các em. Xu hướng chọn trường, những mong đợi từ cha mẹ
và vinh dự của bản thân đối với xã hội vô hình chung đã tạo nên một áp lực
khiến không ít học sinh trung học phổ thông cảm thấy căng thẳng, đuối sức,
chán nản, tuyệt vọng và mất phương hướng.
Lĩnh vực tình cảm của học sinh trung học phổ thông
Tình bạn: Tình bạn lứa tuổi này đi vào chiều sâu hơn, tiêu chí kết bạn là
sự đồng cảm, tâm tình, thân mật, ấm áp, cùng chí hướng phấn đấu vì giá trị
nào đó. Do tự ý thức phát triển mạnh, thanh thiếu niên có nhu cầu tìm kiếm
“cái tôi” khác bên ngoài cái tôi bản thân. Nhu cầu này xuất hiện do mong
muốn có bạn để chia sẻ những rung cảm của mình. Các em tham gia vào một
nhóm bạn và dành nhiều thời gian quan tâm đến nhóm bạn của mình. Việc
kết bạn giúp các em được khẳng định bản thân nhưng đồng thời cũng phải
chịu sự chi phối của bạn bè rất nhiều. Khi có những trục trặc, rắc rối vì bất
đồng quan điểm các em đâm ra bối rối, hoang mang và không biết phải giải

quyết thế nào. Bên cạnh đó một số em do sự thiếu hụt kỹ năng xã hội khiến
việc kết bạn trở nên khó khăn. Chính điều này khiến các em rơi vào bế tắc
cảm thấy cô đơn, hụt hẫng, lâu dần sẽ dẫn đến lo âu hoặc trầm cảm.
Tình yêu: Một trong những đặc trưng điển hình ở độ tuổi này là tình
yêu. Cuối tuổi thiếu niên các em trai, em gái xuất hiện những rung cảm đầu
đời với bạn khác giới. Tuy nhiên, chỉ là những xúc cảm có phần mơ hồ và
không ổn định. Khác với tình yêu của người trưởng thành thường có thiên
hướng chấp nhận thực tế nhiều hơn. Với độ tuổi này các em mong muốn có
một tình yêu lãng mạn, đôi khi thiên về “tình yêu thần tượng”, nếu không
được như ý muốn sẽ mang đến cho các em cảm giác buồn bã, đau khổ. Nhiều
em đắm chìm vào tình yêu chểnh mảng việc học hành. Đôi khi, tình yêu của

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

học sinh ở lứa tuổi này sẽ chịu sự ngăn cấm của cha mẹ. Cha mẹ càng cố
ngăn cản thì các em càng quyết liệt để giữ gìn tình yêu của mình. Từ đó gây
nên mâu thuẫn và bất an đối với học sinh trung học phổ thông.
1.3. Rối loạn lo âu – Các vấn đề về rối loạn lo âu
1.3.1. Định nghĩa rối loạn lo âu
Trên thế giới, lần đầu tiên Kerkagard (1844), người Đan Mạch sử dụng
thuật ngữ Angest để chỉ trạng thái lo âu, Dacosta (1871) mô tả trạng thái tim

bị kích thích. Vào thời kỳ này, người ta xếp loại bệnh này vào suy nhược thần
kinh. Bread là người có công tách trạng thái này ra khỏi bệnh suy nhược thần
kinh (Pault M.G.Emmelkamp, Theok, Buorman, Agnes Sholing, 1989).
S.Freud (1895) gọi trạng thái lo âu là lo âu nhiễu tâm. Theo ông nguyên nhân
chủ yếu là xung đột nội tâm vô thức. Tới những năm 80 của thế kỷ XX, quan
điểm của các nhà tâm lý học Nga, đại diện là Miaxishev và học trò của ông
xếp hội chứng lo âu vào hội chứng loạn thần kinh chức năng. Cho tới thời
điểm này, DSM IV và ICD 10 xếp lo âu vào lo âu tâm căn và cho rằng sở dĩ
có tình trạng này là do nguyên nhân tâm lý.
Theo từ điển tâm lý Nguyễn Khắc Viện, lo âu là việc đón chờ và suy
nghĩ về một điều gì đó có thể dễ mà không chắc chắn có thể đối phó được là
lo. Nếu sự việc cụ thể mà đã từng gây nguy hiểm thì là lo sợ. Trong nhiều
trường hợp, đặc biệt khi tâm lý bị rối loạn, một triệu chứng thường là mối lo
nhưng cụ thể không thật rõ là lo về cái gì, sợ về cái gì, đó là hãi
Theo tác giả Đinh Đăng Hòe: Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên
(bình thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe dọa của tự
nhiên, xã hội, mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại, hướng tới.
Từ điển tâm lý học (Vũ Dũng) [3,tr423] Lo âu: là trải nghiệm cảm xúc tiêu
cực được quy định bởi sự chờ đợi điều gì đó nguy hiểm, có tính chất khuếch tán,
không liên quan đến các sự kiện cụ thể. Trạng thái cảm xúc xuất hiện trong các tình
huống nguy hiểm không xác định và được thể hiện trong việc chờ đợi sự tiến triển

10


không thuận lợi của sự kiện. Khác với hoảng sợ, được coi là một phản ứng đối với
một đe dọa cụ thể nào đó, lo âu thể hiện sự sợ hãi chung chung, mang tính lan
truyền, không có đối tượng và thường có liên hệ với việc chờ đợi điều không may
trong tương tác xã hội và thường được tạo bởi sự không ý thức được nguồn gốc
của nỗi nguy hiểm. Khi có lo âu ở cấp độ sinh lý, nhịp thở tăng, tim đập nhanh hơn,

huyết áp cao hơn, hưng phấn tăng, ngưỡng tri giác giảm. Về mặt chức năng, lo lâu
không chỉ cảnh báo về sự nguy hiểm có thể xảy ra, mà còn khích thích tìm kiếm và
cụ thể hóa mối nguy hiểm đó, tích cực tìm hiểu thực tế với mục đích xác định đối
tượng đe dọa. Lo âu có thể biểu hiện như cảm giác về sự bất lực, thiếu tự tin vào
bản thân, bất lực trước các yếu tố bên ngoài, phóng đại sức mạnh và tính đe dọa
của chúng. Biểu hiện về hành vi của lo âu nằm ở chỗ hóa giải các hoạt động làm
ảnh hưởng đến xu hướng và hiệu quả của hoạt động. Lo âu như một cơ chế phát
triển loạn thần kinh chức năng – Lo âu loạn tâm hình thành trên cơ sở các mâu
thuẫn bên trong của quá trình phát triển và cấu thành tâm lý. Ví dụ: từ mức độ gắn
bó (như phụ thuộc giữa con và mẹ) cao, thiếu cơ sở đạo đức cho động cơ có thể
dẫn tới tin tưởng một cách bất hợp lý về mối đe dọa từ những người khác, của
chính cơ thể mình, kết quả từ chính hành động của mình…
Lo âu theo từ điển tâm lý học (Nguyễn Văn Lũy và Lê Quang Sơn)
[10, tr.245]:“ Là sự trải nghiệm những cảm xúc khó chịu liên quan đến những
gì không an toàn hoặc tiền cảm giác về sự nguy hiểm sẽ xảy ra. Khác với sợ
hãi, phản ứng với sự nguy hiểm về sự đe dọa không xác định, lan tỏa, thiếu
khách quan. Theo một quan điểm khác, sợ hãi xảy ra khi có “đe dọa sự sống”
(đe dọa tính trọn vẹn và sự tồn tại của con người với tư cách là một tồn tại
sống), còn lo âu xảy ra khi có đe dọa xã hội (đe dọa nhân cách, về sự thỏa
mãn nhu cầu của cái tôi, các quan hệ nhân cách, vị trí xã hội). Tính lo âu là
một tổ chức tương đối ổn định (R.Kettel, Tr.Xpilberger, Iu.L.Khanhin). Tùy
thuộc vào sự hiện diện của tình huống đe dọa khách quan, có thể chia ra lo âu

11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi

“khách quan”, lo âu “hiện thực” và lo âu “không phù hợp” (lo âu biểu hiện ở
những điều kiện trung tính không gây sự đe dọa)”.
Khái niệm “lo âu” được S.Freud (1952) đưa vào tâm lý học, chia
thành lo sợ cụ thể và lo sợ không xác định (lo âu có thể thông báo được, lo âu
mang tính chất sâu lan tỏa và nội tâm).
Hiệp hội tâm thần Hoa Kì (1994) định nghĩa về lo âu như sau: Lo âu
là trạng thái khí sắc tiêu cực được đặc trưng bởi những triệu chứng của cơ thể
như căng trương lực cơ, và lo sợ về tương lai.
Theo DSM-IV rối loạn lo âu là những sợ hãi thái quá về một sự kiện
hoặc các hành vi kéo dài trong nhiều ngày, xảy ra và lặp đi lặp lại ít nhất 6
tháng. Cá nhân thường có khó khăn khi kiểm soát những lo lắng và thường có
những dấu hiệu thực thể chẳng hạn như là sự căng cơ, cáu bẳn, khó ngủ, và
cảm giác bất an…
Tổng hợp định nghĩa của các tác giả, chúng tôi định nghĩa như
sau: Rối loạn âu là một cảm xúc rối loạn tâm lý, là sự lo sợ quá mức về
một tình huống, có tính chất vô lý, lặp đi lặp lại và kéo dài ảnh hưởng đến
sự thích nghi trong cuộc sống. Lo âu cũng là sự lặp đi lặp lại những suy
nghĩ vô lý, những hành vi mang tính chất nghi thức, đồng thời đi kèm với
những trạng thái về thể chất khó thở, mệt mỏi, không ngủ được, ra mồ hôi
tay, tim đập nhanh,…
1.3.2. Các biểu hiện của rối loạn lo âu
Từ những định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu lo âu là một trong
những cảm xúc cơ bản của con người (cùng với những cảm xúc khác như
buồn, giận giữ, bất ngờ …).
Lo âu liên quan đến nỗi lo lắng về một việc gì đó rất khó chịu và khó
đối phó sẽ xảy ra.

Lo âu có chức năng thích ứng: bất cứ một người nào cũng bị lo âu. Đó
là phần thưởng của những người có suy nghĩ đôi chút và là chuyện bình

12


thường. Những câu hỏi về cuộc đời, thế gian, vũ trụ luôn đòi hỏi chúng ta
phải thích nghi liên tục. Cái gì thúc đẩy chúng ta nếu không phải là nỗi lo âu
đó? Cái gì bắt chúng ta phải tìm tòi và phát hiện, nếu không phải là nó? Tất
cả những bước tiến của nhân loại, tất cả những khám phá khoa học, nghệ
thuật và văn chương đều đặt nền tảng trên sự lo âu. Nhưng đó là mối lo âu
trừu tượng sáng tạo, xác thực và tương đối nhẹ. Có thể nói mười phần trăm lo
âu là cần thiết cho một người bình thường. Nó giúp chúng ta tránh các tình
huống nguy hiểm. Nhưng khi lo âu trở nên quá mức so với tình huống, hoặc
chỉ tập trung vào những tình huống không thực sự nguy hiểm thì lo âu lúc
này đã trở thành một vấn đề của tâm bệnh học.
Ở góc độ sinh lý, phản ứng lo âu biểu hiện ở sự tăng nhịp tim, hô hấp,
tăng khối lượng/phút của tuần hoàn máu, tăng huyết áp và tăng hưng phấn
(kích thích), giảm ngưỡng cảm giác. Ở góc độ tâm lý, lo âu được cảm thấy
như một sự căngthẳng, sự bận tâm, dễ bị kích động, cảm xúc thất bại, đe dọa
không xác định, không có khả năng đưa ra quyết định,… Cùng với sự tăng
trạng thái lo âu, biểu hiện của những hiện tượng lo âu diễn ra theo một loạt
quy luật biến đổi, cấu thành sợ hãi đan xen. Mức độ lo âu tối ưu là cần thiết
để thích nghi có hiệu quả với thực tế (lo âu thích nghi). Mức độ cao cũng như
cực thấp – là những phản ứng không thích nghi, được thể hiện ở việc mất
định hướng chung của hành vi và hoạt động. Lo âu có thể suy yếu một cách
có chủ định – với sự trợ giúp của hoạt động tích cực để đạt mục đích hoặc thủ
pháp chuyên biệt (xem thư giãn) cũng như do kết quả hành động của cơ chế
tự vệ không được ý thức.
Các triệu chứng lo âu được biểu hiện như sau:

- Các triệu chứng kích thích hệ thần kinh thực vật: Hồi hộp hoặc tim đập
mạnh hoặc tăng nhịp tim, vã mồ hôi, run rẩy, khô miệng (không do thuốc
hoặc mất nước).

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Các triệu chứng liên quan đến vùng ngực và bụng: khó thở, cảm giác nghẹn
đau hoặc khó chịu vùng ngực, buồn nôn hoặc khó chịu vùng bụng (ví dụ cảm
giác sôi bụng).
- Các triệu chứng liên quan đến trạng thái tâm thần: Cảm giác chóng mặt,
đứng không vững, ngất hoặc choáng váng, có cảm giác không thật về các đồ
vật (tri giác sai thực tại) hoặc cảm giác cơ thể ở rất xa hoặc “không thực sự ở
tại đây” (giải thể nhân cách). Luôn lo lắng, sợ hãi đến những vấn đề của
tương lai.
- Các triệu chứng toàn thân: Có cơn nóng bừng hoặc ớn lạnh, tê cóng hoặc
cảm giác kim châm.
1.3.3. Nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu theo các trường phái tâm lý học
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên lo âu: thân chủ là người có nhân
cách lo âu, nguyên nhân về những trải nghiệm thời thơ ấu: bỏ mặc, lạm dụng,
hoặc học được từ bố mẹ. Điều này được các nhà nghiên cứu chứng minh theo
nhiều hướng khác nhau. Dưới đây chúng tôi sẽ trình bày những nguyên nhân

gây nên lo âu theo hướng tiếp cận tâm động học, thuyết gắn bó, thuyết tập
nhiễm xã hội và theo hướng tiếp cận nhận thức.
-

Cách tiếp cận tâm động học:
Lý thuyết tâm động học tập trung vào những trải nghiệm thời thơ ấu

tác động đến làm cho trẻ có nguy cơ về lo âu và trầm cảm rất cao.Khi đứa trẻ
bị lạm dụng sẽ để lại hậu quả về thể chất, tinh thần tại thời điểm lạm dụng
xảy ra và sau khi đến tuổi vị thành niên. Sự ảnh hưởng về thể chất, tinh thần
do lạm dụng sẽ nảy sinh và phát triển những hành vi không thích nghi trừ khi
đứa trẻ hoặc trẻ vị thành niên có khả năng giải quyết những điều phiền muộn.
Ảnh hưởng của lạm dụng có thể là sự bỏ mặc, lạm dụng về mặt cảm xúc, lạm
dụng về mặt thể chất, lạm dụng tình dục.
-

Theo tiếp cận thuyết gắn bó

14


Từ gắn bó được dùng như một từ trong tài liệu tâm lý học phát triển,
mô tả khuynh hướng tìm kiếm sự gần gũi được lặp đi lặp lại với một người
đặc biệt - thường là mẹ của đứa trẻ, để giảm bớt sự căng thẳng trong tâm
hồn.Một số nghiên cứu đưa ra ảnh hưởng của sự gắn bó cha mẹ đến mức độ
lo lắng của trẻ như thuyết gắn bó của Bowlby. Nghiên cứu về chất lượng gắn
bó cha mẹ của Marget Pior, nghiên cứu của Burger và cộng sự,…Những
nghiên cứu này chỉ ra hậu quả của việc gắn bó không an toàn mang lại.
Bowlby (1969) là người chủ yếu góp phần làm nên học thuyết này.
Ông tin rằng gắn bó là một sự liên kết ảnh hưởng lâu dài, điều này có chức

năng sinh học quan trọng rất cần thiết cho sự sống còn. Mối quan hệ giữa đứa
trẻ với người chăm sóc cung cấp cho nó chỗ dựa an toàn để có thể khám phá
và làm chủ thế giới.
Nghiên cứu Warren và Huston (1997) cho rằng mối quan hệ gắn bó mẹ
con quá kéo dài làm tăng trạng thái lo âu của trẻ.Sự gắn bó kéo dài là một yếu
tố dự đoán quan trọng về trạng thái lo âu của trẻ em.
Những trẻ em có trải nghiệm an toàn trong gắn bó thì ít gặp những sự
kiện đau khổ tại trường học, ít chịu căng thẳng khi học đại học và có thành
tích học tập cao hơn (Burge và cộng sự, 1997). Việc gắn bó bố mẹ có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến hình ảnh bản thân của đứa trẻ. Đồng thời việc gắn bó từ
bé của đứa trẻ với người chăm sóc chủ yếu ảnh hường đến kinh nghiệm và
cách đối phó với những tình huống căng thằng khi trưởng thành. Gắn bó
không an toàn hoặc không thỏa mãn trong suốt thời kỳ thơ ấu của trẻ vị thành
niên được liên kết với các vấn đề như lạm dụng (Gerevich và Bacskai, 1996),
rối loạn ăn uống (Bure, 1997 và Salzman, 1997), hoạt động tình dục sớm,
hành vi tình dục không an toàn (Smith, 1997), và hình ảnh nghèo nàn về bản
thân (O’Koon, 1997). Chính điều đó là cản trở quá trình tập luyện gắn bó an
toàn của trẻ. Điều đó được tìm thấy đối với những trẻ vị thành niên có rối

15


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


loạn lo âu, người mà có lo lắng về sự gắn bó với mẹ lúc còn bé, khi so sánh
với những người có gắn bó an toàn (Warren et at., 1997).
- Thuyết tập nhiễm xã hội:
Gia đình là nơi cơ bản tạo nên cảm xúc, sự hiểu biết, và môi trường sống
cho trẻ. Đây là môi trường tác động đến quan điểm về thế giới và khả năng
đương đầu với những thách thức trong tương lai.Vì vậy, nối kết và cấu trúc
trong gia đình sẽ ảnh hưởng đến sự điều chỉnh của trẻ vị thành niên.
Theo thuyết tập nhiễm xã hội của Bandura năm 1969, nhấn mạnh vai
trò của nhận thức trong việc hình thành lo âu. Lo âu có thể được tập nhiễm từ
người chăm sóc hoặc từ những người khác trong môi trường sống của đứa trẻ
(thông qua việc bắt chước và lây lan lo sợ hoặc cách giải thích, cách nuôi
dưỡng, rèn luyện,…). Như vậy, hành vi của cha mẹ là yếu tố quan trọng hình
thành và phát triển lo âu của trẻ.
- Theo tiếp cận nhận thức của Beck và Emery
Khi có một kích thích tác động lên nhận thức thì dẫn đến một đáp
ứng.Thông thường, khi gặp phải một tình huống gây lo sợ và nguy hiểm,
nhận thức có thể bóp méo sự ước lượng của chúng về những kích thích gây lo
âu.Sự ước lượng này chứa đựng những kinh nghiệm của cá nhân trong quá
khứ.Khi gặp phải một kích thích tương tự sẽ so sánh nó với những tình huống
đã xảy ra trong quá khứ và cho ra một phản ứng. Đó chính là hành vi, thái độ
để chuẩn bị đối phó với nguy hiểm. Nếu một kích thích nhỏ được ước lượng
sai thì kết quả cá nhân phản ứng như một kích thích lớn và tìm cách đối phó
(đối mặt với sự đe dọa vốn không có tính chất đe dọa).
1.3.4. Hậu quả của rối loạn lo âu
Rối loạn lo âu là một trong các rối loạn tâm lý có tính phổ biến cao,
bệnh thường kết hợp với nhiều rối loạn khác như trầm cảm, rối loạn nhân
cách, rối loạn ăn uống, rối loạn dạng cơ thể. Chính vì thế nó đem lại gánh
nặng đáng kể cho cá nhân, gia đình, xã hội

16



Các nghiên cứu của Dweck và Wortman (1982); Strauss và Frame
(1987); Turner, Beidel và Costello (1987) chỉ ra rằng thời thơ ấu có rối loạn
lo âu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến một loạt các yếu tố, bao gồm thành tích học
tập và hoạt động xã hội. Hơn nữa, trẻ em có rối loạn lo âu thường có nhiều
hơn một rối loạn cùng một lúc. Cũng có thể bao gồm các rối loạn lo âu bổ
sung hoặc các rối loạn khác như trầm cảm hoặc tăng động giảm chú ý
(Albano, Chorpita, & Barlow, 1996; Keller và các cộng sự, 1992). Strauss, và
Francis (1987) nhận thấy 80% trẻ em với một chẩn đoán chính của một rối
loạn lo âu có ít nhất thêm một rối loạn khác.
Nhiều bằng chứng ủng hộ ý kiến rằng các rối loạn lo âu có một khởi
phát sớm ở trẻ em có thể tiếp tục vào tuổi trưởng thành (Albano et al, 2003).
Những nghiên cứu cho thấy các triệu chứng lo âu trở nên tồi tệ hơn theo thời
gian (Kendall, 1994) và cuối cùng có thể dẫn đến trầm cảm (Kelly, Mineka,
Clements, năm 1990; Barlow, Chorpita & Turovsky năm 1996; Chorpita &
Barlow, 1998) [27, tr.15]. Hoặc thân chủ có thể lạm dụng chất gây nghiện;
mất ngủ; những vấn đề về dạ dày; nhức đầu; nghiến răng (bruxism).
Lo âu ảnh hưởng đến các chức năng sống bình thường của bệnh nhân.
Có thể mất rất nhiều thời gian hoặc mắc kẹt trong một mô hình suy nghĩ và
hành vilặp đi lặp lại như đếm hoặc rửa tay chỉ để giảm lo âu, căng thẳng.
Hầu hết bệnh nhân rối loạn lo âu luôn cẩn thận với những nơi lạ mà
họ đến hoặc những tình huống mà họ cảm thấy nguy hiểm đe dọa.Chính điều
này làm hạn chế giao tiếp hàng ngày, cũng có thể bệnh nhân sẽ tự cô lập
chính mình.
Bệnh nhân rối loạn lo âu thường cảm thấy không thoải mái với những
tình huống nhất định.Điều này duy trì thói quen, đặc biệt nhạy cảm với những
thay đổi nhỏ của môi trường.
Rối loạn lo âu có nhiều loại nhưng hầu hết tất cả đều nằm trong một
phổ các triệu chứng cảm xúc có tác động đáng kể đến sức khỏe và tình


17


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

cảm.Các triệu chứng cảm xúc thường xuyên có mặt hoặc trở thành một phần
tính cách của những bệnh nhân rối loạn lo âu.
Bên cạnh đó, bệnh nhân lo âu có thể giảm những chức năng sống, đối
với học sinh kết quả học tập giảm sút, các hoạt động xã hội bị thu hẹp, bệnh
nhân cùn mòn giao tiếp xã hội.
1.3.5. Các phương thức trị liệu rối loạn lo âu
Hiện nay, trên thế giới phổ biến hai phương thức trị liệu rối loạn lo âu
đó là trị liệu bằng thuốc và trị liệu bằng tâm lý.
- Trị liệu bằng thuốc: Biện pháp dùng thuốc đang được các bác sĩ chuyên
khoa thần kinh sử dụng để điều trị về rối loạn lo âu. Sử dụng thuốc là cách
thức để giảm lo âu, giảm các biểu hiện của cơ thể giúp cho bệnh nhân có thể
tham gia vào các hoạt động hàng ngày.
Có nhiều loại thuốc để giảm bớt triệu chứng của RLLATT:
+ Các thuốc chống lo âu: Benzodiazepines là những thuốc an thần có ưu
điểm làm giảm bớt lo âu trong vòng 30 đến 90 phút. Nhược điểm của chúng
là gây lệ thuộc thuốc nếu dùng quá vài tuần. Do đó, bác sĩ chỉ dùng thuốc này
trong thời gian ngắn để giúp người bệnh vượt qua giai đoạn đặc biệt căng
thẳng.


Các

thuốc

thường

dùng

nhất

gồm:

alprazolam

(Xanax),

chlordiazepoxide (Librium), clonazepam (Klonopin), diazepam (Valium) và
lorazepam (Ativan). Những thuốc này có thể gây lảo đảo, choáng váng và
mất phối hợp vận động.Dùng liều cao trong thời gian dài có thể gây rối loạn
trí nhớ. Không được lái xe và vận hành máy móc lớn khi đang uống thuốc.
Buspirone (BuSpar) là một loại thuốc khác thường dùng để điều trị
RLLATT. Thuốc này phải mất vài tuần mới cải thiện được các triệu chứng.
Tuy nhiên, ưu điểm của nó là không gây lệ thuộc thuốc. Tác dụng phụ
thường gặp của buspirone là cảm giác lâng lâng trong một thời gian ngắn xảy
ra sau khi dùng thuốc. Những tác dụng phụ ít gặp hơn là nhức đầu, buồn nôn,
cảm giác bồn chồn và mất ngủ.

18



+ Thuốc chống trầm cảm: Các thuốc này ảnh hưởng đến hoạt động của một
số chất dẫn truyền thần kinh được xem là có vai trò trong hình thành rối loạn
lo âu. Các thuốc chống trầm cảm thường dùng điều trị RLLATT gồm:
fluoxetine (Prozac), paroxetine (Paxil), imipramine (Tofranil), venlafaxine
(Effexor) escitalopram (Lexapro) và duloxetine (Cymbalta).
Cũng cần lưu ý một số thuốc không tác dụng ngay, đặc biệt các thuốc
chống trầm cảm. Cần phải mất vài tuần để cải thiện hoàn toàn các triệu
chứng lo âu.
- Trị liệu bằng tâm lý
Trong tâm lý học thì mô hình hành vi – nhận thức được cho là hiệu
quả đối với các thân chủ có rối loạn lo âu. Liệu pháp nhận thức hành vi với
hai kỹ thuật chủ yếu là tái cấu trúc nhận thức và phơi nhiễm giúp thân chủ có
thể nhận biết được khi nào cơ thể mình lo âu, có những suy nghĩ hợp lý và
cách thức đương đầu với lo âu. Sau khi trị liệu thân chủ được chuẩn bị trước
để biết những tình huống nào có thể mang lo âu đến và cách thức để vượt qua
lo âu khi không có nhà trị liệu bên cạnh. Trong khuôn khổ của đề tài chúng
tôi nghiên cứu những tác động của trị liệu hành vi – nhận thức đến học sinh
trung học phổ thông có rối loạn lo âu.
1.4. Trị liệu hành vi – nhận thức
1.4.1. Tiếp cận hành vi
Từ những năm 20 của thế kỷ XX chỉ có những báo cáo lẻ tẻ về liệu
pháp hành vi, mãi đến những năm 1960 liệu pháp này mới trở thành một
phương pháp tiếp cận có hệ thống và toàn diện đối với các rối loạn tâm thần
và rối loạn hành vi. Đây là liệu pháp tâm lý dựa trên các nguyên tắc của
thuyết học tập, sử dụng các kỹ thuật của điều kiện hóa cổ điển và điều kiện
hóa thao tác[13, tr.298].
Định nghĩa: Liệu pháp hành vi là các phương pháp nhằm biến đổi
hành vi không thích ứng nhưng không đi sâu tìm hiểu các nguyên nhân sâu sa


19


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

của nó. Các triệu chứng hành vi được xem xét ở phần bề nổi chứ không phải
là các triệu chứng biểu hiện của một vấn đề tâm lý chiều sâu [13, tr.297].
Nguồn gốc của liệu pháp hành vi nằm trong thuyết điều kiện hóa cổ
điển của Pavlov (1927 – 1960) và điều kiện hóa thực thi của Skinner (1953)
phát triển vào nửa đầu thế kỷ XX. Mặc dù có sự khác biệt đáng kể trong cách
giải thích hành vi, song cả hai thuyết đều cho rằng:
- Hành vi được quyết định bởi những sự kiện bên ngoài.
- Những kinh nghiệm học được trong quá khứ quyết định hành vi hiện tại.
- Có thể thay đổi hành vi thông qua thay đổi trực tiếp những sự kiện bên
ngoài. Không cần thiết phải tìm hiểu hoặc thay đổi “tinh thần” hay “thế giới
bên trong” của cá nhân.
- Những nguyên tắc của sự học là đối tượng của sự khám phá khoa học và
điều này đúng với mọi loài; nghiên cứu chuột cho ta hiểu hành vi con người.
Học thuyết phản xạ của paplop:
Học thuyết của Paplop được xây dựng trên những nguyên tắc của
thuyết điều kiện hóa cổ điển. Theo ông các rối loạn xảy ra do mất cân bằng
giữa quá trình hưng phấn và ức chế ở vỏ não. Lo âu xuất hiện theo cơ chế
phản xạ có điều kiện do tác nhân kích thích từ bên ngoài được củng cố một
cách bệnh lý. Lo âu thường xảy ra ở người có loại thần kinh yếu. Theo trường

phái hành vi, ám ảnh sợ xuất phát từ một trải nghiệm được điều kiện hóa,
trong đó cá nhân sợ hãi một cách không thích hợp với một vật hoặc một tình
huống nhất định. Điều này có liên quan đến trải nghiệm sợ hãi hoặc lo lắng ở
một thời điểm nào đó trong quá khứ. Tiếp theo kích thích có điều kiện sẽ gây
ra phản ứng sợ hãi có điều kiện. Nếu cá nhân trải qua nỗi sợ hãi sâu sắc thì
quá trình điều kiện hóa có thể mạnh mẽ đến mức chỉ cần một kinh nghiệm
được điều kiện hóa sẽ dẫn đến nỗi sợ hãi lâu dài khó mà dập tắt được.
Điều kiện hóa thao tác:

20


Trái ngược với hành vi phản xạ liên quan đến điều kiện hóa cổ điển,
điều kiện hóa thao tác cho rằng hành vi là chủ động và có mục đích. Theo
Skinner, hành vi nếu được củng cố sẽ tăng lên về tần suất hay được lặp đi lặp
lại; còn nếu không được củng cố hoặc trừng phạt thì sẽ giảm tần suất hoặc
không lặp lại nữa. Trên cơ sở lý thuyết này nhiều nhà nghiên cứu đã tiến
hành nghiên cứu ở động vật và kết luận: lo âu là do tập nhiễm gây ra, khi có
mặt các kích thích lo âu, nếu thiết lập một đáp ứng ức chế lo âu thì đáp ứng
này làm yếu đi ức chế lo âu.
Mô hình điều kiện hóa cổ điển về ám ảnh sợ đã mô tả đầy đủ quá trình
tập nhiễm lo âu và ám ảnh sợ. Tuy nhiên, chưa giải thích tại sao chúng lại
duy trì trong một thời gian dài. Để giải thích hiện tượng này Mower (1947)
đã đưa ra lý thuyết hai yếu tố kết hợp cả quá trình điều kiện hóa cổ điển và
điều kiện hóa thao tác. Ông cho rằng một khi đáp ứng ám ảnh sợ được thành
lập thông qua điều kiện hóa cổ điển, cá nhân có xu hướng lẩn tránh những
kích thích gây ra sợ hãi. Điều này dẫn đến hai hậu quả. Thứ nhất. quá trình
điều kiện hóa cổ điển không bị dập tắt vì cá nhân tránh các kích thích có điều
kiện. Hai là bản thân sự né tránh đã tạo ra cảm giác được thư giãn nên chính
nó trở thành cái củng cố và đáp ứng né tránh được củng cố bởi quá trình điều

kiện hóa thao tác. Theo cách này lo âu được duy trì trong thời gian dài.
1.4.2. Tiếp cận nhận thức
Sự phát triển của trị liệu nhận thức bao gồm các công trình đầu tiên của
Bandura (1973, 1977a, 1977b, 1985), Beck (1970, 1972, 1976), Ellis (1962,
1973, 1979), Kelly (1955), Lazarus (1976, 1981), Mahoney (1974), Maultsby
(1984), Meichenbaum (1977), Seligman (1974, 1975). Các tác giả trên là
những người đầu tiên hợp nhất các cơ cấu được điều hòa bởi nhận thức với lý
thuyết hành vi. Họ tập trung vào vai trò của các tiến trình học tập xã hội trong
sự phát triển các vấn đề cảm xúc. Việc sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận
thức, sự phát triển các khả năng giải quyết vấn đề xã hội và sự lĩnh hội các kỹ

21


×