Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG MẦM NON NGA ĐIỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.49 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
CHUYÊN MÔN CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG MẦM NON NGA ĐIỀN

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
SKKN thuộc lĩnh vực:

Mai Thị Hòe
P. Hiệu trưởng
Trường Mầm non Nga Điền
Quản lý

THANH HÓA NĂM 2016
1


2


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
nền móng đầu tiên của ngành Giáo dục và Đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc


học tiếp theo.
Muốn có được đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ,
người cán bộ quản lý phải luôn có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thường
xuyên và kịp thời. Giáo viên phải biết hướng mọi hoạt động, mọi nội dung, biện
pháp chăm sóc giáo dục trẻ vào mục tiêu giáo dục. Để thực hiện được mục tiêu
đó đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên có trình độ năng lực thích ứng với thực tiễn
phát triển của xã hội.
Vai trò của người giáo viên mầm non rất quan trọng, là người đặt nền móng
cho sự phát triển toàn diện của trẻ và là người mẹ thứ hai của các cháu. Lao
động của giáo viên mầm non là lao động mang tính khoa học và nghệ thuật, đòi
hỏi công phu vì cô giáo là tấm gương cho trẻ học và bắt chước. Chính vì thế cô
giáo mầm non phải hội tụ đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất và năng lực
chuyên môn để thực hiện mục tiêu chương trình GDMN.
Thế kỷ 21 là thế kỷ của trí tuệ, là thế kỷ của nền kinh tế trí thức. Đất
nước Việt Nam tiến tới năm 2020 với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và
công nghệ cùng với nó là hình ảnh người công dân Việt Nam mới với trình độ
học vấn cao, năng động, sáng tạo, thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã
hội, Giáo dục mầm non được đặt ở vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc dân, đây là bậc học xây dựng nền móng đầu tiên cho sự nghiệp giáo dục,
nền móng ấy giúp cho một thế hệ mầm non có tâm thế vững chắc để bước vào
giáo dục phổ thông. Trách nhiệm này đặt trên vai ngành Giáo dục đòi hỏi ngành
phải có những nội dung chương trình phù hợp, đổi mới phương pháp dạy và học
một cách tích cực.
Chính vì vậy Đảng ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi vì giáo dục
có vai trò quan trọng trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến lược
phát triển kinh tế của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã xác định: “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài”. Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã nhấn
mạnh: “Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng

thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn nhân lực, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế
bền vững”.
Sự nghiệp giáo dục có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đất
nước về trước mắt cũng như lâu dài . Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt
Nam, giáo dục mầm non trong những năm qua đã có những chuyển biến rất lớn
về mọi mặt như: Quy mô trường lớp được mở rộng, số lượng trẻ ra lớp đạt tỷ lệ
cao, chất lượng chăm sóc và nuôi dưỡng được nâng lên rõ rệt. Những thành tựu
3


mà giáo dục mầm non đã đạt được do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân
quan trọng và chủ yếu nhất là sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ, giáo viên.
Chính họ là lực lượng nòng cốt, là lực lượng quyết định toàn bộ sự nghiệp giáo
dục mầm non họ đã, đang và sẽ tạo nên những kết quả của sự nghiệp giáo dục
mầm non.
Đội ngũ cán bộ giáo viên có vai trò quyết định trong việc chăm sóc giáo
dục trẻ ở các trường mầm non vì vậy bất kỳ người quản lý nào đều suy nghĩ: làm
thế nào để đơn vị mình trở thành một đơn vị phát triển tốt. Muốn thế trước hết
phải có đội ngũ mạnh, vững về chuyên môn và điều đó không thể bỏ qua việc
bồi dưỡng chuyên môn cho lực lượng cán bộ giáo viên. Mục tiêu của công tác
bồi dưỡng là nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo, khắc phục những thiếu sót lệch
lạc trong công tác giảng dạy, về quan điểm, nội dung phương pháp giáo dục
đồng thời theo kịp những yêu cầu của xã hội. Người trực tiếp xây dựng kế hoạch
bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên chính là Phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên
môn.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non chiếm vị trí vô cùng
quan trọng, là nền tảng của nghành Giáo dục và Đào tạo; Bác Hồ kính yêu đã
từng nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Chất
lượng giáo dục trẻ ở trường Mầm Non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng

giáo dục ở bậc học tiếp theo. Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn
đề tài: “Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo
viên trường mầm non Nga Điền” để nghiên cứu với mong muốn được góp phần
nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển giáo dục của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu để nhằm tìm ra các giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên cả về trình độ, phẩm chất và năng lực chuyên môn, nâng cao chất
lượng trên trẻ tại trường mầm non Nga Điền – Nga Sơn – Thanh Hóa
3. Đối tượng nghiên cứu.
Phó hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, phụ huynh để nâng cao chất lượng
trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, trong trường mầm non Nga
Điền – Nga Sơn – Thanh Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái
quát những vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thực hành, trải nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
4


Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
đã nêu: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã
hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, đủ tài, đo đó phải đào tạo giáo viên có
chất lượng cao, thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng,
chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất của người giáo viên”.

Hiếu học là truyền thống quí báu của dân tộc ta, từ ngàn xưa ông cha ta đã
coi trọng sự nghiệp giáo dục trong đời sống xã hội, trong sự phát triển của đất
nước, luôn coi giáo dục có quan hệ đến việc hệ trọng của quốc gia, đến an nguy,
suy, thịnh của dân tộc. Các thế hệ cha ông đi trước cho rằng việc “Quốc kế dân
sinh” phải lấy giáo dục làm đầu. Sự giàu mạnh của đất nước không tách rời khỏi
giáo dục. Chăm lo cho giáo dục là chăm lo cho con người, mà con người là nhân
tố quyết định đến sự phát triển của xã hội. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Trong sự nghiệp trồng người thì sự đóng góp của đội ngũ giáo viên là hết
sức quan trọng, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và hoàn thiện nhân cách công dân. Như cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Phải có đội ngũ giáo viên đủ về số lượng,
giỏi về chuyên môn, có tính nhân văn cao thì mới có chất lượng cao, tạo sự
chuyển biến của đội ngũ giáo viên hiện nay mới đảm bảo thực hiện nội dung và
phương pháp giáo dục. Đây là vấn đề then chốt của sự nghiệp giáo dục mà
chúng ta phải trăn trở vượt qua mọi khó khăn để giải quyết cho bằng được”.
Nâng cao năng lực chuyên môn góp phần thực hiện cho giáo viên những
thắng lợi nghị quyết số 29 của ban chấp hành TW.
Công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên là quá trình tác động tới tập
thể, cá nhân giáo viên, tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào các hoạt động dạy
học, học tập trong và ngoài nhà trường để giáo viên bổ sung kiến thức, kỹ năng,
chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhằm nâng cao phẩm chất
năng lực sư phạm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục (Theo
thông tư 02 chuẩn nghề nghiệp GV MN). Vậy vấn đề ở đây là tìm hiểu tư tưởng,
tình cảm có ảnh hưởng tới chất lượng giảng dạy của giáo viên hay không? Đời
sống vật chất và tinh thần có làm ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ hay không?
Có làm giảm lòng nhiệt tình của giáo viên hay không? Cơ sở vật chất có ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục hay không? Một loạt vấn đề đặt ra câu hỏi và
người cán bộ quản lý phải nghiên cứu và có những biện pháp phù hợp với thực
tiễn nhà trường.

Trong mỗi nhà trường muốn không ngừng phát triển đi lên thì việc nâng
cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là vấn đề cần thiết. Trong tất cả
các điều kiện thiết yếu của nhà trường thì yêu cầu về đội ngũ cán bộ giáo viên là
yêu cầu quan trọng không thể thiếu được. Bởi một nhà trường có một cơ sở vật
chất khang trang nhưng đội ngũ giáo viên yếu kém, không phát huy được vai trò
trách nhiệm của mình thì sự đầy đủ về vật chất cũng trở nên vô nghĩa, chất
lượng giáo dục của nhà trường không thể nâng cao được.
5


Từ nhận thức sâu sắc về vai trò của đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt
quyết định chất lượng giáo dục của mỗi nhà trường. Chính vì vậy mà tôi luôn
quan tâm đến việc xây dựng, bồi dưỡng giáo viên để ngành học có đội ngũ giáo
viên đồng bộ về cơ cấu, có phẩm chất đạo đức tốt, chất lượng chuyên môn cao,
có lòng yêu nghề mếm trẻ, tận tụy say sưa với công việc, coi trường như nhà,
quí trẻ như con, có như vậy thì chất lượng giáo dục mới đạt hiệu quả cao.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi:
Ban giám hiệu là những người năng động, có kế hoạch cụ thể cho việc bồi
dưỡng giáo viên cũng như đưa ra các phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt
động chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng đạt kết quả cao.
Được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành và sự đồng thuận cao
trong các bậc phụ huynh đã tạo điều kiện cho nhà trường trong việc xây dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học, tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ để đảm bảo cho
giáo viên thực hiện tốt chương trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Đội ngũ giáo viên trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chuẩn và trên
chuẩn, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động, luôn
luôn sáng tạo trong các lĩnh vực, 100% giáo viên soạn bài bằng máy vi tính, một
số giáo viên biết soạn giáo án điện tử, biết sử dụng công nghệ thông tin vào tổ
chức hoạt động cho trẻ

2.2. Khó khăn:
Nhà trường có hai cơ sở cách xa nhau, nhiều giáo viên ở xa trường nên còn
gặp nhiều khó khăn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ của mình. Đồ dùng
trang thiết bị dạy học cho trẻ mang tính chất đối phó chưa đầy đủ và phong phú,
để tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng và thực hiện.
Đội ngũ giáo viên của nhà trường còn rất trẻ nên kinh nghiệm thực tế, khả
năng giao tiếp, ứng xử các tình huống sư phạm chưa linh hoạt. Khả năng ứng
dụng công nghệ thông tin của một số giáo viên còn yếu. Nhiều giáo viên mới tốt
nghiệp ra trường họ chưa qua thực tế và chưa kịp nắm bắt chương trình GDMN.
Bên cạnh đó giáo viên còn có một số hạn chế, chưa linh hoạt sáng tạo trong việc
sử dụng các phương pháp lồng ghép tích hợp, chưa mạnh dạn trong xây dựng
các chủ đề mang tính đổi mới, chưa tạo cơ hội cho trẻ phát huy tính tích cực, sự
sáng tạo của trẻ, thiết kế đồ dùng, đồ chơi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động
chưa mang tính chất mở.
Một số giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về phương pháp “lấy trẻ làm
trung tâm” giáo viên còn nói nhiều, còn lúng túng trong việc vận dụng các
phương pháp vào thực tế giảng dạy, chưa linh hoạt sáng tạo trong sử dụng các
phương pháp để tạo cơ hội cho trẻ hoạt động tích cực. Năng lực chuyên môn
nghiệp vụ, tay nghề của giáo viên không đồng đều. Nhiều giáo viên mới ra
trường trình độ tay nghề còn non, nhiều giáo viên có con nhỏ nên cũng ảnh
hưởng đến việc nâng cao chất lương chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ trong
nhà trường.
6


Việc quan tâm chăm sóc con em của một số phụ huynh chưa đáp ứng với
nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay.
2.3. Kết quả thực trạng ban đầu qua khảo sát:
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực tế chất lượng đội ngũ
giáo viên, học sinh tại trường mình đang công tác và kết quả thu được như sau:

Bảng 1: Kết quả đánh giá xếp loại giáo viên
TT
1
2
3

Nội dung khảo sát
Phẩm chất chính trị,
đạo đức lối sống
Kiến Thức
Kỹ năng sư phạm

Tổng
số
XS
18
5
18
18

4
4

%
28

K
7

Xếp loại

% TB
39 4

22
22

5
6

28
33

6
5

%
22

Y
2

%
11

33
28

3
3


17
17

* Bảng 2: Kết quả chất lượng trên trẻ:
- Nhà trẻ

31

T
6

%
19

Kết quả trên trẻ
Đạt
K % TB %
7
23 10 32

Phát triển nhận thức

31

5

16

5


16

12

39

9

29

3

Phát triển ngôn ngữ

31

6

19

6

19

9

29

10


32

4

PTTC-QHXH

31

5

16

6

19

11

36

9

29

Tổng cộng

31

6


19

6

19

10

32

9

29

T
T

Nội dung khảo sát

1

Phát triển thể chất

2

Số
trẻ


Y

%
8
26

- Mẫu giáo

325

T %
71 22

Kết quả trên trẻ
Đạt
K % TB %
78 24 81
25


Y %
95 29

Phát triển nhận thức

325

70 21

84

26


80

25

91

28

Phát triển ngôn ngữ

325

72 22

74

23

83

25

96

30

PTTC-QHXH
Phát triển thẩm mỹ
Tổng cộng


325
325
325

69 21
71 22
71 22

79
75
78

25
23
24

82
85
82

25
26
25

95
94
94

29

29
29

T
T

Nội dung khảo sát

1

Phát triển thể chất

2
3
4
5

Số trẻ

Qua khảo sát chất lượng giáo viên, số giáo viên khá giỏi còn thấp đạt 55%.
Số trẻ đạt (Tốt, khá, trung bình) chưa cao chỉ đạt: 71% Số trẻ chưa đạt còn nhiều
chiếm: 29 %. Trước tình hình thực trạng như vậy, tôi suy nghĩ và tìm ra một số
biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên. Góp phần
7


không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ trong
trường Mầm non Nga Điền.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1. Tăng cường công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng của giáo viên.

Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng có ý nghĩa to lớn trong việc tăng cường
chất lượng đội ngũ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ là việc làm không thể thiếu của mỗi giáo viên trong suốt quá
trình giảng dạy. Vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần được bồi dưỡng
những kiến thức cập nhật, nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Bồi dưỡng
giáo viên cần chú ý khả năng thực tế về trình độ, năng lực, nhu cầu bồi dưỡng
của từng giáo viên, để lựa chọn nội dung, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp.
Để thực hiện hiệu quả công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trước hết tôi phải
xây dựng kế hoạch, bao gồm kế hoạch bồi dưỡng dài hạn và bồi dưỡng ngắn
hạn.
- Bồi dưỡng dài hạn là bồi dưỡng nâng cao trình độ cho mỗi giáo viên. Căn
cứ vào tình hình thực tế về trình độ đội ngũ, nhu cầu bồi dưỡng cá nhân để tiến
tới mục tiêu nâng cao trình độ trên chuẩn đối với 100% giáo viên trẻ, bồi dưỡng
về trình độ tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên
môn của nhà trường.
- Bồi dưỡng ngắn hạn là bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuyên đề
cho giáo viên.
+ Đối với công tác bồi dưỡng thường xuyên: Việc hướng dẫn cho giáo viên
học tập BDTX là việc làm nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm cho mỗi giáo viên. Trong quá trình học tập BDTX chúng tôi chỉ đạo giáo
viên xây dựng kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện căn cứ vào yêu cầu
nhiệm vụ của bản thân. Hướng dẫn giáo viên lựa chọn hình thức học tập phù
hợp với từng nội dung bồi dưỡng. Kiểm tra đánh giá nghiêm túc kết quả học tập
BDTX theo từng tháng, từng kỳ và cuối năm học. Cuối năm nhận xét, đánh giá
kết quả học tập của từng giáo viên.
+ Đối với công tác bồi dưỡng chuyên đề: Việc vận dụng giáo dục lồng ghép
các chuyên đề vào các hoạt động chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ hàng
ngày là việc làm cần thiết.
Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề,
xác định được những chuyên đề trọng tâm cần thực hiện trong năm học. Đó là

những chuyên đề (Xây dựng môi trường giáo dục trong trường mầm non, bảo
vệ môi trường trong trường mầm non, phát triển vận động, sử dụng tiết kiệm
năng lượng trong trường mầm non, phòng chống thảm họa thiên tai trong
trường MN…). Sau đó tham mưu với hiệu trưởng tổ chức bồi dưỡng chuyên đề
cho CBGV trong trường. Để giúp giáo viên hệ thống và tiếp thu những kiến thức
của các chuyên đề một cách có hiệu quả tôi đã phối hợp cùng với các tổ trưởng
chuyên môn phân loại giáo viên để thuận tiện cho việc triển khai và tiếp thu
chuyên đề.
8


Cũng như đã nêu ở trên năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của giáo
viên không đồng đều, nhiều giáo viên mới vào trường trình độ tay nghề còn non,
không thể mở chuyên đề tập trung toàn trường vì vậy chúng tôi phải tổ chức học
hai lớp riêng biệt.
- Lớp thứ nhất: Dành cho những giáo viên đã có kiến thức chuyên đề. Với
những giáo viên thuộc đối tượng này tôi áp dụng hình thức ôn tập. Phát cho mỗi
giáo viên một bài tập trắc nghiệm mà tôi đã soạn thảo sẵn.
VD: Khi hướng dẫn chuyên đề “Sử dụng tiết kiệm năng lượng trong
trường mầm non”. Bài tập tôi xây dựng có nội dung đơn giản mục đích giúp
giáo viên biết và vận dụng tích hợp chuyên đề phù hợp với từng chủ đề vì
chuyên đề này không phải chủ đề nào cũng có thể tích hợp được:
Đồng chí hãy chọn một phương án và khoanh vào câu trả lời đúng.
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” chỉ tích hợp được vào các chủ đề như
chủ đề: (Trường MN, Giao thông, Thế giới thực vật, Quê hương - Đất nước Bác Hồ)
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” chỉ tích hợp được vào các chủ đề như
chủ đề : (Trường MN, Bản thân, Gia đình, Giao thông, Hiện tượng tự nhiên)
* Chuyên đề “Tiết kiệm năng lượng” áp dụng tích hợp vào tất cả các chủ
đề (Bản thân, Gia đình, Hiện tượng tự nhiên, Thế giới động vật)
* Tích hợp tất cả các chủ đề.

Yêu cầu giáo viên chọn một phương án đúng (với bài tập này thì phương
án b là phương án đúng), sau đó tổng hợp lại xem có bao nhiêu giáo viên chọn
được phương án đúng và mời một giáo viên trình bầy nội dung cho cả lớp học
cùng nghe.
Hoặc: Tôi đưa ra câu hỏi “Nêu các hoạt động trong ngày có thể tích hợp
chuyên đề “Giáo dục dinh dưỡng và VSATTP”.
- Lớp thứ hai: Những giáo viên thuộc đối tượng này do chưa qua học các
chuyên đề nào nên tôi phải cung cấp kiến thức cho giáo viên bằng cách in tài
liệu cho giáo viên tham khảo và sau thảo luận theo những nội dung cần truyền
đạt.
VD: Đối với chuyên đề “Xây dựng môi trường giáo dục trong trường
MN”. Tôi đưa ra các câu hỏi như:
Câu 1: Đồng chí hiểu như thế nào về môi trường giáo dục trong trường
MN.
Câu 2: Môi trường giáo dục có vai trò như thế nào trong việc thực hiện các
chủ đề? Vai trò của việc xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động.
Câu 3: Nêu nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục trong trường MN?
Khi trang trí lớp cần đảm bảo những yêu cầu nào?
Hoặc: Đối với chuyên đề “Phòng chống thảm họa thiên tai trong trường
MN”. Tôi đưa ra câu hỏi như sau:
Câu 1: Như thế nào là hiểm họa, thảm họa thiên tai?
Câu 2: Dấu hiệu, nguyên nhân, biện pháp phòng ngừa thiên tai?
Hoặc: Đối với chuyên đề “Phát triển vận động”. Tôi đưa ra câu hỏi như sau:
9


Câu 1: Đồng chí hiểu như thế nào là phát triển vận động?
Câu 2: Nêu các biện pháp nhằm phát triển vận động cho trẻ?
Cả hai lớp học đều yêu cầu giáo viên soạn giáo án thực hành lồng ghép nội
dung chuyên đề vào hoạt động giáo dục tại nhóm lớp mình đang phụ trách.

Ngoài việc ôn tập các chuyên đề cần thực hiện trong năm học ra tôi còn tổ
chức chuyên đề, hướng dẫn cho giáo viên cách thực hiện các loại hồ sơ sổ sách
cần có trong mỗi nhóm lớp, cách xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch chủ đề,
lịch dạy hàng ngày, hàng tuần sao cho phù hợp với từng độ tuổi, từng chủ đề và
nhất là phải phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, cách đánh giá kết quả
chất lượng ở từng độ tuổi.
Kết quả: Trong năm học nhà trường có 9 giáo viên tham gia học đại học
nâng cao trình độ. Có 18 giáo viên tham gia học tập BDTX, đạt loại xuất sắc
9/18 = 50%,đạt loại khá 9/18 =50 %, không có giáo viên trung bình. Mở được 2
đợt chuyên đề. Có 22/22 CBGV tham gia học tập và tiếp thu chuyên đề, vận
dụng tích hợp các chuyên đề vào quá trình CS - ND - GD trẻ hàng ngày phù hợp
với độ tuổi được phân công đạt kết quả tốt. 10/10 nhóm lớp thực hiện tốt các
loại hồ sơ sổ sách và xây dựng kế hoạch phù hợp với từng độ tuổi, đánh giá
khảo sát chất lượng chính xác phù hợp với độ tuổi nhà trẻ và độ tuổi mẫu giáo.
3.2. Bồi dưỡng giáo viên thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn:
Bồi dưỡng giáo viên qua tổ chuyên môn là biện pháp hiệu quả nhất. Tổ
chuyên môn là nơi giáo viên gắn bó giúp đỡ nhau hiệu quả nhất vì ban giám
hiệu không thể cùng một lúc sinh hoạt đều ở các tổ. Do đó xây dựng tổ chuyên
môn vững mạnh là một biện pháp không thể thiếu trong nhà trường.
Tổ chuyên môn là một trong những nhân tố quan trọng giúp giáo viên trong
tổ nâng cao nhận thức về chuyên môn. Vào đầu năm học, hiệu trưởng căn cứ
vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, phẩm chất của các giáo viên mà
có thể bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó cho các tổ. Hoạt động của tổ chuyên môn là
kiểm tra hồ sơ sổ sách, trình ký giáo án, dự giờ, kiểm tra các hoạt động chăm
sóc giáo dục trẻ ở các lớp. Được sự chỉ đạo của hiệu trưởng, tổ chuyên môn xây
dựng kế hoạch năm, tháng, tuần và được nhà trường duyệt. Tổ chuyên môn sinh
hoạt 2lần/ tháng. Nội dung sinh hoạt chuyên môn là trao đổi về nội dung,
phương pháp soạn giảng, tổ chức thao giảng, chuyên đề, hướng dẫn giáo viên
cách làm đồ dùng đồ chơi theo chủ đề, nêu những ưu khuyết điểm về chuyên
môn của tổ.

Ví dụ: Mỗi tháng tổ chuyên môn sinh hoạt 2 lần: Lần 1 là xây dựng kế
hoạch hoạt động trong tháng,mỗi đồng chí giáo viên trong tổ đều đưa ra những
biện pháp nhằm phát huy cao tinh thần dân chủ của mình nằm thực hiện thắng
lợi ké hoạch đề ra. Lần 2: Tổ họp đánh giá lại kết quả thực hiện nhiệm vụ của
từng đồng chí trong tổ .Sau đó rút ra kinh nghiệm những mặt làm được và những
mặt chưa làm được và nguyên nhân tại sao, cách khắc phục các nguyên nhân đó
như thế nào? để mỗi thành viên tự đưa ra những giải pháp để tiếp tục thực hiện
trong tháng tiếp theo. Cứ như thế giáo viên đã hình thành cho mình một kỹ năng
thực hiện chuyên môn theo tinh thần tự chủ của mỗi đồng chí.
10


(Hình ảnh: Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên qua sinh hoạt
các tổ chuyên môn)
Kết quả: Thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn đã giúp giáo viên trong
trường Mầm non Nga Điền phát huy và nêu cao năng lực chuyên môn nghiệp
vụ, tinh thần dân chủ, giúp đỡ bạn bè, đồng nghiệp của từng đồng chí trong tổ
cũng như trong nhà trường..
3.3. Chỉ đạo giáo viên thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin, xây
dựng giáo án điện tử để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và kích
thích trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy là việc làm cần thiết
trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho mỗi giáo viên, giúp giáo viên tạo
sự hứng thú cho trẻ, giúp trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục. Vì
vậy tôi đã mày mò học tập kinh nghiệm của một số chị em đồng nghiệp nắm
được các bước xây dựng giáo án điện tử hướng dẫn cho giáo viên trong trường,
giúp giáo viên tự tin hơn trong việc xây dựng giáo án và khai thác các tư liệu
cần thiết trên Internet.
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục
và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú, sống động, hấp

dẫn hơn. Nếu trước đây giáo viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm kiếm
những hình ảnh, biểu tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng
dụng Công nghệ thông tin giáo viên có thể sử dụng Internet để chủ động khai
thác tài liệu phù hợp với nội dung yêu cầu của từng chủ đề.
Với các bước làm đó tôi hướng dẫn cho giáo viên thực hiện xây dựng một
giáo án cụ thể và đã áp dụng vào các chủ đề thực hiện tại nhóm lớp.
Ví dụ: Hướng dẫn thiết kế giáo án tổ chức họat động khám phá khoa học
Khám phá khoa học là một hoạt động thường khô khan và tìm đồ dùng
cũng khó vì vậy việc ứng dụng công nghệ có nhiều hình ảnh tươi sáng, sinh
động và hấp dẫn với trẻ hơn. Do đó tôi đã hướng dẫn giáo viên soạn giáo án điện
tử đề tài: Nhận biết số 7 (Chủ đề: Nghề nghiệp). Lớp MG 5 – 6 tuổi
+ Bước 1: Tôi chỉ đạo giáo viên sưu tầm tranh ảnh về nghề nghiệp theo địa
chỉ đường dẫn: http: google.com
11


+ Bước 2: Tải về máy bắt đầu thiết kế các slide để dạy trẻ phần lập số và
phần chơi củng cố. Ở phần lập số tôi chỉ đạo giáo viên đặt các áo, quần theo
hiệu ứng xuất hiện. Ở phần trò chơi luyện tập đặt hiệu ứng cất quần áo vào tủ
(slide Show -> Custom Animation -> Mo tion Paths -> Draw Custom Paths ->
Scribble -> ok )
+ Bước 3: Làm hoàn chỉnh các slide tiết học.

(Hình ảnh minh họa “Tạo nhóm, đếm đến 7 và Nhận biết số 7”)
Với các hoạt động cho trẻ làm quen với tập hợp số lượng và số đếm tôi chỉ
đạo giáo viên có thể cho trẻ chơi các trò chơi con số của ti trong ngôi nhà toán
học của Millie giúp trẻ rèn kỹ năng đếm, thêm bớt, nhận biết các chữ số...
Ở các hoạt động nhằm củng cố, ôn luyện các kiến thức mà trẻ đã được cung
cấp theo từng chủ đề, từng nội dung giáo dục trong tuần, trong ngày và tạo ra
những đồ chơi đồ dùng, những học liệu mở để trẻ có được nhiều cơ hội trải

nghiệm, hình thành kỹ năng phân loại, phán đoán, tư duy logic, khái quát hoá sự
vật hiện tượng. Việc đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động cho trẻ làm
quen với toán tuy vất vả và mất nhiều thời gian nhưng lại gây hứng thú cho trẻ khi
tham gia hoạt động làm cho việc tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.

(Hình ảnh: Giáo viên ứng dụng CNTT vào hoạt động học)
12


Sau khi hướng dẫn giáo viên thiết kế các giáo án điện tử, tôi thường xuyên

dự giờ thăm lớp và phát động phong trào thi giáo viên giỏi cấp trường. Khuyến
khích giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động.
Kết quả: Toàn trường có 10/10 nhóm lớp thực hiện soạn giáo án điện tử, có
10/10= 100 % nhóm lớp dạy bằng giáo án điện tử, 11/18 = 61 % giáo viên thực
hiện thành thạo việc xây dựng giáo án điện tử.
3.4. Tổ chức dạy mẫu:
Xây dựng tiết dạy mẫu để dạy cho giáo viên trong trường dự giờ, học tập
lẫn nhau là việc làm hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng lực cho giáo
viên. Bởi không gì bằng mắt thấy tai nghe. Qua tiết dạy mẫu giáo viên có thể
nắm được những ưu điểm nhược điểm trong tiết dạy.
Trong quá trình tiến hành thực hiện tiết dạy mẫu tôi thường phân công giáo
viên trực tiếp dạy là những giáo viên vững vàng về chuyên môn, có kinh nghiệm
trong giảng dạy và là giáo viên dạy giỏi. Để tiết dạy được hoàn chỉnh hơn tôi
cùng với tổ trưởng chuyên môn và giáo viên trực tiếp dạy xây dựng giáo án
mẫu, tìm ra phương pháp và cách tổ chức phù hợp với tiết dạy, vì tôi nghĩ không
gì bằng ý kiến của tập thể. Ngoài ra tôi còn phân công những giáo viên tay nghề
còn non yếu hơn phục vụ cho tiết dạy để giúp giáo viên được trải nghiệm thực tế
và hình dung được những công việc cần làm, cần chuẩn bị để tiến hành tiết dạy
thành công.

Sau khi dự giờ xong tôi tổ chức cho giáo viên nhận xét, đánh giá tiết dạy,
giúp giáo viên nhận ra ưu điểm, nhược điểm của tiết dạy, qua đó năng lực
chuyên môn cũng sẽ vững vàng hơn.
Điều này sẽ làm cho giáo viên của chúng tôi rút được kinh nghiệm cho
mình, giúp giáo viên tự tin hơn, vững vàng hơn và năng lực chuyên môn được
nâng lên rõ rệt.

( Hình ảnh: Tiết dạy mẫu lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi)
Kết quả: Năm học 2015 - 2016 nhà trường đã tổ chức được 5 tiết dạy mẫu
(1 hoạt động tạo hình, 2 tiết âm nhạc, 2 hoạt động thể dục vận động).
13


3.5. Tổ chức tốt các hội thi:
Có thể nói, biện pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo
viên thông qua các phong trào thi đua, qua các hội thi là việc làm cần thiết. Bởi
hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”.
Qua hội thi có tác dụng thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của mỗi giáo viên,
phong trào thi đua gắn liền với các hội thi sẽ làm cho khí thế thi đua của nhà
trường càng sôi nổi, có tác dụng tuyên truyền tới các bậc phụ huynh, từ đó tạo
niền tin của đông đảo phụ huynh đối với nhà trường. Có tác dụng thúc đẩy sự
phấn đấu vươn lên của mỗi giáo viên, họ có điều kiện khẳng định mình trước tập
thể, tạo được mối quan hệ thân ái, giúp đỡ nhau trong tập thể giáo viên nhà
trường để cùng tiến bộ.
Để các hội thi thành công và có kết quả tốt đẹp, tôi tham mưu với hiệu
trưởng xây dựng kế hoạch, có thời gian thực hiện cụ thể để tránh sự chồng chéo
trong khi thực hiện.
3.5.1. Tổ chức tốt hội thi đối với giáo viên
* Tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp trường
Biện pháp bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo viên thông qua hội thi

giáo viên giỏi cấp trường là việc làm cần thiết. Bởi qua hội thi sẽ giúp cho giáo
viên mạnh dạn, tự tin, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, bạn bè. Để đạt được
thành tích đòi hỏi mỗi giáo viên phải trau dồi năng lực sư phạm, nghệ thuật lôi
cuốn trẻ, kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục. Từ
đó trình độ chuyên môn và tay nghề của giáo viên được nâng lên.
Việc tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp trường chúng tôi thực hiện vào đầu
năm học (cuối tháng 9, đầu tháng 10). Mỗi giáo viên trải qua 2 vòng thi:
- Phần thi lý thuyết kiểm tra nhận thức của giáo viên,

(Hình ảnh: Thi lý thuyết giáo viên giỏi cấp trường)
- Phần thi thực hành: Mỗi giáo viên phải thực hiện thi thực hành 2 hoạt động
giáo dục và hoạt động chăm sóc.
14


( Hình ảnh: Thi thực hành giáo viên giỏi cấp trường)
* Kết quả:
Thực tế cho thấy việc tổ chức phong trào thi giáo viên dạy giỏi có tác dụng
rất lớn trong việc nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên. Vì khi tham gia
giáo viên đòi hỏi phải suy nghĩ, nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, tìm
những phương pháp, biện pháp tổ chức linh hoạt, sáng tạo các hoạt động học,
hoạt động vui chơi, tạo tình huống mới lạ để thu hút trẻ tập trung, chú ý, hứng
thú tham gia vào các hoạt động. Điều quan trọng hơn đây là một đợt sinh hoạt
chuyên môn, giao lưu học hỏi, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ, tạo được uy
tín đối với đồng nghiệp và phụ huynh.
* Tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp Huyện.
Qua hội thi giáo viên giỏi cấp trường nhà trường đã lựa chọn được những
hạt nhân tốt trong phong trào thi đua dạt tốt học tốt. Chọn cử được 6 giáo viên
tham gia dự thi giáo viên giỏi cấp huyện. Đây là việc làm rất cần thiết và có ý
nghĩa chiến lược lâu dài đối với nhà trường. Bởi qua hội thi sẽ giúpcho giáo viên

mạnh dạn, tự tin, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, bạn bè đồng nghiệp ở các
trường bạn trong huyện. Để đạt được thành tích đòi hỏi mỗi giáo viên phải trau
dồi năng lực sư phạm, nghệ thuật lôi cuốn trẻ, kỹ năng tổ chức các hoạt động
chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục .

(Hình ảnh: Hội thi giáo viên giỏi cấp Huyện)
15


* Kết quả: Nhà trường đã có 6 đồng chí tham gia hội thi giáo viên giỏi cấp
huyện và đã đạt 100 % xếp thứ 2 toàn huyện. Đó là thành tích đáng mừng
đối với đội ngũ giáo viên của trường Mầm non Nga Điền.
* Tổ chức hội thi làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo: Đồ chơi đóng vai trò quan
trọng trong giáo dục mầm non, nó được ví như là “Sách giáo khoa” của trẻ. Vì
đặc điểm của lứa tuổi này trẻ “học bằng chơi – chơi mà học”, qua vui chơi trẻ
lĩnh hội kiến thức nhanh nhất, phát huy được tính tò mò, ham hiểu biết của
trẻ.Việc làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ học tập và vui chơi là việc làm thường
xuyên trong suốt thời gian của năm học. Tôi đã xây dựng kế hoạch tham mưu
với ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch làm đồ dùng
đồ chơi tự tạo hàng tháng. Trong quá trình đánh giá giáo viên làm đồ dùng, đồ
chơi chúng tôi đã đưa ra những tiêu chí đánh giá như sau:
- Lựa chọn các nguyên vật liệu phải đảm bảo vệ sinh, đảm bảo an toàn.
- Tận dụng những nguyên vật liệu phổ biến, rẻ tiền.
Ví dụ: Để làm ngôi nhà giáo viên đã sử dụng bằng cói và vỏ ngao là
nguyên vật liệu sẵn có của địa phương và sử dụng trong hoạt động góc.

(Hình ảnh: Nguyên vật liệu phế thải của địa phương như cói, vỏ ngao)
- Đồ chơi phải đảm bảo tính giáo dục, tính thẫm mỹ, phải đảm bảo an
toàn, không gây thương tích, có độ bền cao. Vì vậy có rất nhiều đồ dùng, đồ
chơi phong phú được giáo viên làm từ xốp màu và nguyên vật liệu phế thải.


(Hình ảnh: được tạo ra từ xốp màu, nguyên vật liệu phế thải)
16


Song để tổ chức hội thi làm đồ dùng, đồ chơi trên qui mô toàn trường thì
chúng tôi tổ chức vào tháng 11 để lập thành tích chào mừng ngày nhà giáo Việt
Nam (20/11). Lựa chọn những bộ đồ dùng đồ chơi có giá trị cao tham gia hội thi
cấp Huyện

(Hình ảnh: Hội thi đồ dùng đồ chơi cấp trường năm học: 2015 - 2016)
Kết quả: Trong năm học có 18 đồng chí giáo viên tham gia thi giáo viên
giỏi cấp trường đạt 18/18 đồng chí. 10/10 lớp = 100% nhóm lớp tham gia thi
làm đồ dùng, đồ chơi cấp trường. Trong đó:
+ Một giải nhất là giáo viên Trần Thị Trang chủ nhiệm lớp 5 – 6 tuổi.
+ Hai giải nhì là 2 lớp, giáo viên chủ nhiệm (Đinh Thị Hiền và cô Đinh Thị
Nhung).
+ Bốn giải ba lớp cô (Mai Thị Hoàn, Mai Thị Thu, Mai Thị Bình, Trần Thị Hoa)
+ Ba giải KK lớp cô (Mai Thị Vân, Nguyễn Thị Thu, Hoàng Thị Trang).
- Nhà trường đã tham gia hội thi “Đồ dùng, đồ chơi tự tạo cấp Huyện” vào
tháng 3 năm 2016. Để có được bộ đồ dùng, đồ chơi tham gia hội thi cấp Huyện
thì cần phải có rất nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú đa dạng được giáo viên
làm từ xốp màu và nguyên vật liệu phế thải như: Chân quạt điện, vành bánh xe
đạp hỏng để làm chiếc nón kỳ diệu, các loại quả khô, các loại vỏ trai, vỏ ngao…

(Hình ảnh: Hội thi đồ dùng đồ chơi cấp Huyện năm học: 2015 – 2016
17


Kết quả: Nhà trường đã có 3 bộ đồ dùng, đồ chơi tham gia hội thi cấp Huyện,

đã được lựa chọn tham gia hội thi đồ dùng, đồ chơi cấp tỉnh và đạt giải nhì.
3.5.2. Tổ chức tốt hội thi đối với trẻ.
Thông qua các hội thi của học sinh, giáo viên phải có biện pháp sáng tạo
hướng dẫn, bồi dưỡng cho học sinh, từ đó nâng cao được nghiệp vụ chuyên
môn. Tôi xây dựng kế hoạch tổ chức hội thi chỉ đạo viên giáo tổ chức thi các lớp
10% trẻ mẫu giáo được tham gia, trên cơ sở đó lựa chọn các cháu xuất sắc bồi
dưỡng hội thi cấp trường, cấp huyện.

(Hình ảnh: Hội thi “Hội khỏe bé mầm non cấp trường”

(Hình ảnh: Các bé tham gia hội thi “Hội khỏe bé mầm non cấp Huyện”)
Kết quả: Thông qua hội thi “Hội khỏe bé mầm non” cấp trường nhằm
tuyên truyền đến toàn thể các bậc phụ huynh và nhân dân trong xã hiểu được
tầm quan trọng của giáo dục Mầm non tạo dựng được niềm tin của phụ huynh
đối. Nhà trường đã thành lập đội tuyển tham dự hội thi “Hội khỏe bé mầm non”
cấp huyện và đạt giải Ba. Thông qua hội thi “Hội khỏe bé mầm non cấp
Huyện” nhằm tuyên truyền đến toàn thể các bậc phụ huynh và cộng đồng hiểu
được tầm quan trọng của giáo dục Mầm non trong nhà trường hiện nay là rất cần
thiết.
18


3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên:
Trong hoạt động giáo dục của nhà trường nói chung và công tác bồi dưỡng
nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên nói riêng, công tác quản lý, kiểm
tra, có ý nghĩa quan trọng trước hết định hướng đúng đắn cho việc tự học, tự bồi
dưỡng, rèn luyện của đội ngũ giáo viên. Kiểm tra là một chức năng quan trọng
và là biện pháp quản lý có hiệu quả. Kiểm tra việc thực hiện bồi dưỡng chuyên
môn là trách nhiệm của người quản lý. Qua kiểm tra người cán bộ quản lý nắm
được đầy đủ những thông tin cần thiết về tình hình thực hiện chuyên môn, đánh

giá đúng phẩm chất năng lực của mỗi giáo viên, phát hiện được những lệch lạc,
thiếu sót để kịp thời bổ sung, điều chỉnh và uốn nắn giáo viên nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động chuyên môn của nhà trường. Mặt khác qua công tác kiểm
tra, cán bộ quản lý tác động đến hành vi của giáo viên, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của họ đối với công việc, nâng cao ý thức tự bồi dưỡng phấn đấu đáp ứng
được yêu cầu chuyên môn của nhà trường. Vì vậy để công tác bồi dưỡng chuyên
môn cho giáo viên đạt hiệu quả cao nhất thì người cán bộ quản lý không được
phép buông lỏng công tác kiểm tra và cần phải.
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của từng đợt kiểm tra dựa trên yêu cầu
nhiệm vụ cụ thể của nhà trường trong năm học.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện cả năm, từng học kỳ và có kế hoạch cụ thể
từng tháng. Xác định nội dung, phương pháp, nguyên tắc, thời gian kiểm tra.
Về nội dung kiểm tra: Kiểm tra về thực hiện qui chế chuyên môn, hồ sơ sổ
sách (bài soạn, sổ tổng hợp chất lượng, sổ theo dõi trẻ, sổ ghi chép cá nhân về
các buổi bồi dưỡng chuyên môn, các chuyên đề trọng tâm…), phương pháp tổ
chức các hoạt động, cách trang trí nhóm lớp để đánh giá tình hình triển khai và
thực hiện chuyên môn của giáo viên có đúng như kế hoạch mà nhà trường đã chỉ
đạo hay không.
Phương pháp kiểm tra: Kiểm tra dự giờ có báo trước, dự giờ đột xuất về
các hoạt động học, hoạt động vui chơi và hoạt động chăm sóc trong ngày.
Nguyên tắc kiểm tra, đánh giá:
+ Phải đảm bảo tính khách quan, công khai, công bằng và dân chủ.
+ Sau kiểm tra phải có nhận xét, đánh giá chính xác, phân tích các ưu điểm,
tồn tại của giáo viên để giúp họ phát huy những mặt mạnh, khắc phục những hạn
chế áp dụng vào thực tế quá trình chăm sóc - nuôi dưỡng - giáo dục trẻ.
Thời gian kiểm tra: Trong một tháng ít nhất giáo viên phải được dự một
hoạt động học hoặc một hoạt động vui chơi hoặc một hoạt động chăm sóc.
Trong một học kỳ mỗi giáo viên phải được kiểm tra từ 3 - 4 lần.
Làm tốt công tác tuyên truyền đối với giáo viên, giúp giáo viên hiểu được
mục đích, yêu cầu của công tác kiểm tra, có tinh thần tự giác, trung thực trong

những đợt kiểm tra.
Kết quả:
Kiểm tra học kỳ I: 13/22 CBGV. XL tốt 10/13 = 77%, loại khá 3/13 = 23%.
Kiểm tra học kỳ II: 9/22 CBGV. XL tốt 8/9 = 89%, loại khá 1/9 = 11%.
19


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc thực hiện “Một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn cho
đội ngũ giáo viên trường mầm non Nga Điền” như đã nêu trên, trong năm qua đội
ngũ giáo viên đã có nhiều chuyển biến về nhận thức, về chuyên môn, có ý thức
trách nhiệm cao, có tinh thần học tập để nâng cao tay nghề. Đặc biệt là đội ngũ đã
thực sự gắn bó với nghề, đã đóng góp rất lớn trong việc hoàn thành các mục tiêu đề
ra của nhà trường, trong việc xây dựng trường vững mạnh làm cho nhà trường
ngày càng ổn định về số lượng, chất lượng ngày càng được nâng cao.
* Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp trên cho thấy:
Bảng 1: Kết quả đánh giá xếp loại giáo viên
TT Nội dung khảo sát Tổng
Xếp loại
số
XS %
K % TB % Y %
1 Phẩm chất chính trị,
18
9
50
8
44
1
6

0
0
đạo đức lối sống
2
Kiến Thức
18
8
44
9
50
1
6
0
0
3
Kỹ năng sư phạm
18
8
44
9
50
1
6
0
0
* Bảng 2: Kết quả chất lượng trên trẻ:
- Nhà trẻ
Kết quả trên trẻ
Số
TT

Nội dung khảo sát
Đạt

trẻ
T
%
K % TB % Y
%
Phát triển thể chất
31
13 42 11 36
5
16
2
6
1
Phát triển nhận thức
31
10 32 11 36
6
19
4
12
2
3

Phát triển ngôn ngữ

31


13

42

11

36

5

16

2

6

4

PTTC-QHXH

31

9

29

12

39


6

19

4

12

Tổng cộng

31

11

36

12

39

5

16

3

9

- Mẫu giáo
TT


Nội dung khảo sát

Số
trẻ

%
34

Kết quả trên trẻ
Đạt
K
% TB %
111 34
85
26



1

Phát triển thể chất

325

T
109

Y
20


%
6

2
3
4
5

Phát triển nhận thức

325

108

33

113

36

86

26

18

5

Phát triển ngôn ngữ

PTTC-QHXH
Phát triển thẩm mỹ
Tổng cộng

325
325
325
325

109
107
109
108

33
32
33
33

110
114
111
112

34
36
34
35

85

85
84
85

26
26
25
26

21
19
21
20

6
6
5
6

20


III. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Trước những yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, đổi mới toàn diện
phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Để đáp ứng nhiệm vụ đó
đòi hỏi phải có một đội ngũ giáo viên ngang tầm, đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất
"Là con thuyền cách mạng" đến "Bến bờ thắng lợi", chỉ có sự ngiệp giáo dục
mới bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực đủ sức và đủ tài để thực hiện thắng lợi
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Có thể khẳng định muốn xây dựng một nhà trường tiên tiến thì phải xây
dựng và bồi dưỡng một đội ngũ giáo viên vững mạnh. Hay nói cách khác, tập
thể sư phạm tốt thì có trường học tốt. Muốn bồi dưỡng được tập thể sư phạm tốt,
mỗi CBGV phải quán triệt nhiệm vụ, thực hiện tốt công tác tư tưởng đặc biệt là
công tác chuyên môn, tổ chức cho giáo viên tham gia tốt các hoạt động bồi
dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nhiệp vụ. Từ đó xây dựng đội ngũ giáo
viên vững mạnh nhiệt tình có trách nhiệm, có năng lực chuyên môn vững vàng.
Muốn đạt được điều đó phải từ sự phân công sử dụng đội ngũ giáo viên hợp lý,
biết bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thường xuyên, liên tục và khoa học, xây dựng
được mối quan hệ hợp tác gắn bó giữa các tổ chức trong nhà trường.
Khâu then chốt thực hiện thắng lợi sự nghiệp giáo dục đó chính là đội ngũ
nhà giáo. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo có ý nghĩa to lớn và
quan trọng trong sự nghiệp đổi mới giáo dục, là một quy luật tất yếu để phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và cũng chính là động lực thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện cơ bản để phát triển nguồn lực
con người. Xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên là một trong những vấn đề
cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.Vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh. Mỗi giáo viên cần phải nhận thức sâu sắc
về vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp trồng người vì lợi ích trăm năm của
dân tộc. Qua một năm thực hiện đề tài, bản thân tôi đã rút ra một số bài học kinh
nghiệm như sau:
Bồi dưỡng giáo viên là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi trường học, là việc làm
thường xuyên và là trách nhiệm của người làm công tác quản lý. Muốn công tác
bồi dưỡng đội ngũ tốt thì đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có “Tâm” có “Tầm”
có năng lực chuyên môn vững vàng, sáng tạo, tâm huyết, say mê với nghề
nghiệp. Luôn quan tâm đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Biết
phát huy vai trò của tổ chức Đảng và phong trào quần chúng vào công tác bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên. Phát huy được vai trò sức mạnh toàn dân tham gia xây
dựng cơ sở vật chất tạo nên cảnh quan môi trường sư phạm tốt, hấp dẫn để giáo
viên hoàn thành tốt sứ mệnh của mình “Tất cả vì học sinh thân yêu”.

Đội ngũ cán bộ giáo viên trong nhà trường là một trong những nhân tố cơ
bản, quyết định trực tiếp chất lượng giáo dục đào tạo, hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh.
Những biện pháp tôi đưa ra trên đây tuy không xa lạ với lý luận và thực tiễn
quản lý, nhưng việc cụ thể hóa các biện pháp, phân tích sâu từng vai trò tác
21


dụng, đặc điểm của từng biện pháp sẽ giúp ích ít nhiều trong công tác nghiên
cứu xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ để nâng cao năng lực chuyên
môn cho CBGV ở trường Mầm non Nga Điền trong giai đoạn hiện nay.
Thực tế từ những biện pháp trên trường tôi đã thu được những kết quả tốt
và đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển của sự nghiệp giáo dục của xã
Nga Điền.
2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường: Cần quan tâm đầu tư trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi
nhằm phục vụ cho việc dạy và học cho trẻ. Từ đó phát huy được tính chủ động
và khả năng truyền tải kiến thức của giáo viên đối với các cháu được tốt hơn.
* Đối với Phòng giáo dục:
Cần tăng cường mở các lớp chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên cho giáo
viên có điều kiện tham gia để nắm vững việc đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay.
Trên đây là một số biện pháp nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ
giáo viên trường Mầm non Nga Điền. Rất mong được sự góp ý của Hội đồng
khoa học ngành cũng như ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để
tôi ngày càng thực hiện tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Bùi Thị Lan


Nga Điền, ngày 05 tháng 4 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Mai Thị Hòe

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/
BGD & ĐT ngày 19 tháng 07 năm 2009.
2. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới cho trẻ từ: 0 - 5
tuổi
3. Bồi dưỡng thường xuyên dành cho CBQL, giáo viên.
4. Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng, đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng.
5. Cuốn thông tư 02 năm 2008.
6. Một số cuốn tài liệu tập san của giáo dục mầm non.

MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

1


I. MỞ ĐẦU

1

2

1. Lý do chọn đề tài.

1
23


3

2. Mục đích nghiên cứu.

2

4

3. Đối tượng nghiên cứu.

2

5

4. Phương pháp nghiên cứu.

2


6

II. NỘI DUNG SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM

2

7

1. Cơ sở lý luận

2

8

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

4

9

2.1. Thuận lợi.

4

10

2.2. Khó khăn.

4


11

2.3.Kết quả thực trạng ban đầu qua khảo sát.

5

12

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

6

13

3.1. Tăng cường công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng của giáo
viên.

6

14

3.2. Bồi dưỡng giáo viên thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn.

8

15

3.3. Chỉ đạo giáo viên thường xuyên ứng dụng công nghệ thông
tin, xây dựng giáo án điện tử để nâng cao năng lực chuyên môn

nghiệp vụ và kích thích trẻ tích cực tham gia hoạt động.

9

16

3.4. Tổ chức dạy mẫu.

11

17

3.5. Tổ chức tốt các hội thi.

11

18

3.5.1.Tổ chức tốt hội thi đối với giáo viên.

12

19

3.5.2 .Tổ chức tốt hội thi đối với trẻ.

16

20


3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên.

17

21

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

18

22

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

19

23

1. Kết luận.

19

24

2. Kiến nghị.

20

24




×