Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Ngu van THCS bui van thanh THCS nguyet an ngoc lac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.44 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung
1. Cơ sở nghiên cứu
1.1 Cơ sở lí luận
1.2 Cơ sở thực tiễn
2. Thực trạng của vấn đề
3. Các giải pháp thực hiện
3.1 Giúp HS biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng
hướng làm bài
3.2 Hướng dẫn HS cách tìm ý cho bài văn tả cảnh
3.3 Rèn kĩ năng diễn đạt cho HS
3.4 Rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn miêu tả cảnh
3.5 Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn trong văn tả cảnh
3.6 Hướng dẫn HS luyện viết cách mở bài và kết bài miêu tả cảnh
4. Hiệu quả sử dụng sáng kiến kinh nghiệm
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
2
2
2
3
3


3
3
3
4
4
5
5
6
8
9
10
11
12
12
12
13

I. më ®Çu
1. Lí do chon đề tài.
- Các em học sinh nói chung và đặc biệt các em học sinh lớp 6 nói riêng rất hồn
nhiên trong trắng. Các em như những vùng đất phù sa màu mỡ, phì nhiêu. Giáo
viên cùng toàn xã hội có trách nhiệm gieo trồng những hạt giống tốt trên những
vùng đất phù sa ấy để thu được những hoa thơm, trái ngọt về cả tri thức và đạo đức.
Với môn Ngữ văn thì hạt giống tốt về kiến thức văn học không chỉ riêng nội dung ý
nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái niệm Tiếng Việt nào đó mà học sinh cần

1


phải có được những kỹ năng để làm một bài văn một cách thành thạo. Văn học, từ

lâu đã là một bộ môn khoa học xã hội hay song chưa hẳn học sinh nào cũng thích
học, thích viết (Thậm chí còn có xu thế ngại học bộ môn này với nhiều lí do khác
nhau). Vậy đối với giáo viên giảng dạy bộ môn ngữ văn, ngoài việc cung cấp nội
dung bài dạy theo hướng dẫn của sách giáo khoa, sách giáo viên, chúng ta còn phải
rất quan tâm đến phương pháp rèn kỹ năng hành văn cho học sinh. Đặc biệt là đối
tượng học sinh lớp 6 – lớp đầu cấp học – khi mà kỹ năng này hầu như các em chưa
có. Vì vậy, tôi đưa ra đề tài: “Kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng làm văn miêu tả cảnh
cho học sinh lớp 6”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Rèn kỹ năng làm văn miêu tả cảnh là một việc làm rất thiết thực cho phần làm
văn miêu tả nằm trong học kỳ II Ngữ văn 6. Đặc biệt việc rèn kỹ năng làm văn
miêu tả cảnh cho học sinh theo tôi còn là việc tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi
tâm lí ngại học văn của một số học sinh. Từ đó xây dựng và phát triển tình yêu với
môn văn học trong nhà trường cho học sinh. Giúp các em có được tình yêu với
những cảnh vật bình thường như: dòng sông, cánh đồng, mái trường… rộng hơn là
tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn các em học sinh. Cụ thể trong nghiên
cứu này, tôi nhằm giúp học sinh đạt được những kỹ năng sau:
- Giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm
bài.
- Hướng dẫn học sinh cách tìm ý cho bài văn tả cảnh.
- Rèn kỹ năng diễn đạt trong văn miêu tả cảnh cho học sinh .
- Rèn kỹ năng dựng đoạn trong văn tả cảnh .
- Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn cho bài văn tả cảnh.
- Luyện viết mở bài và kết bài cho bài văn tả cảnh.
3. Đối tượng nghiên cứu.

2


- Kỹ năng miêu tả cảnh là một kỹ năng cần thiết đối với tất cả học sinh khối 6. Do

đó đối tượng nghiên cứu để áp dụng là tất cả đối tượng học sinh lớp 6. Phụ thuộc
vào năng lực của từng học sinh mà chúng ta sẽ sử dụng thời gian rèn luyện khác
nhau.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu lí thuyết: Phương pháp dạy học bộ môn (Ngữ Văn)
- Khảo sát thực tế: Khảo sát học sinh khối 6 ở nhà trường
- Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả trước và sau khi áp dụng kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở nghiên cứu.
1.1. Cơ sở lý luận:
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi
một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên
những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào
cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường cũng như có
thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “bé con” giá trị ? Tôi nghĩ đó là một
việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu quả nhất.
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy: chương trình ngữ văn lớp 6
so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen và có nhiều những khái niệm
trừu tượng. Riêng làm văn, đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn, sinh động
hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải có hình ảnh sống động, thuyết phục
lòng người. điều đó không thể đi từ lý thuyết sang thực hành ngay được, bởi tư duy
của lứa tuổi các em học sinh lớp 6 còn là tư duy cụ thể, chưa tiếp nhận ngay được
những kiến thức trừu tượng. Cảm quan của các em còn “thô sơ” chưa có nhiều tính
hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật.
1.2. Cơ sở thực tiễn:

3


Thực ra các em đã quen với việc thực hành viết văn dạng văn bản mẫu và tái tạo

văn bản tương tự mẫu ở cấp tiểu học. Cho nên việc sáng tạo một văn bản nghệ
thuật đối với các em học sinh lớp 6 là việc làm vô cùng khó khăn và không có hứng
thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học của các em học sinh (thời nay) là ít ỏi,
bởi những thông tin hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, đặc biệt là những dịch vụ Intơ-nét tràn lan cuốn hút lòng trẻ. Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ
nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi học sinh.
Đặc biệt đối với các em học sinh thuộc các khu vực nông thôn miền núi, vùng
dân tộc thiểu số thì khả năng diễn đạt, hành văn của các em là một trở ngại lớn ảnh
hưởng tới chất lượng bài văn. Trường THCS Nguyệt Ấn – Ngọc Lặc là một trong
những trường thuộc khu vực như vậy.
Từ những cơ sở trên tôi thiết nghĩ :quá trình rèn kỹ năng làm văn miêu tả cảnh
cho học sinh lớp 6 là một việc làm thiết thực nên làm và làm một cách cặn kẽ để có
hiệu qủa tốt nhất.
2. Thực trạng của vấn đề.
Trước khi áp dụng kinh nghiệm, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh bằng hình thức
viết bài văn tả cảnh và kết quả thu được cụ thể như sau:
(Bảng khảo sát trang bên)
Số HS

Kết

quả

đạt

được

được khảo
sát
Giỏi
%

Khá
%
TB
%
Yếu
%
Kém %
90
0
0
5
5,6
35
39
30
33,4
20
22
Như vậy, tỷ lệ học sinh đạt điểm giỏi không có, tỷ lệ khá chưa cao. Đặc biệt số
học sinh yếu, kém còn chiếm tỷ lệ khá cao. Theo tôi, kết quả chưa cao như vậy là
bởi một số nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân khách quan:
4


+ Thứ nhất, như đã nói ở trên, học sinh trường THCS Nguyệt Ấn phần lớn là con
em ở nông thôn, người dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế còn khó khăn điều kiện
để các em có được tài liệu tham khảo, bồi dưỡng trong học môn văn hầu như là
không có.
+ Thứ hai, học sinh là con em nông thôn miền núi, phần lớn các em là người dân

tộc thiểu số nên khả năng quan sát, vốn từ ngữ có phần hạn chế. Điều này đã ảnh
hưởng phần nào đến chất lượng học bộ môn Ngữ văn của các em.
- Nguyên nhân chủ quan.
+ Về phía học sinh: Phần lớn học sinh có tâm lí “ngại” học văn vì vậy các em
không tích cực, không có hứng thú khi viết bài văn.
+ Về phía giáo viên: Đôi khi một số giáo viên chưa tạo được tâm thế, niềm say mê,
hứng thú học tập bộ môn ngữ văn cho học sinh. Đối với bộ môn này ở lớp sáu,
trong các tiết cung cấp lí thuyết làm văn miêu tả cảnh cho học sinh, giáo viên chỉ
nêu phương pháp chung như sách giáo khoa đã nêu mà ít chú trọng tới việc rèn kĩ
năng viết cho học sinh.
3. Các giải pháp thực hiện.
Từ thực trạng trên, tôi đưa ra một số giải pháp thực hiện rèn kĩ năng làm văn
miêu tả cảnh cho học sinh cụ thể sau:
3.1. Giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng
làm bài.
Ví dụ:
Đề bài: “Em hãy miêu tả quê hương em vào một buổi chiều nắng đẹp”.
Giáo viên cho học sinh thấy: Trên đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh tổng hợp.
Vậy thế nào là cảnh tổng hợp? Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy ta xác định cảnh
tổng hợp nhờ những từ ngữ nào?
Ví dụ: Đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “một miền
quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở...” cảnh tổng hợp là như
5


thế nào? Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ, của quê hương
hay miền quê thường là cảnh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa giếng nước
sân đình, khu vườn nhà... sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu
tả ở thời gian nào? (mùa nào) ở không gian nào? (cảnh đó như thế nào)... Việc xác
định được đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em rất nhiều trong việc

định hình được đối tượng miêu tả.
3.2. Hướng dẫn học sinh cách tìm ý cho bài văn tả cảnh.
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng
miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp
học sinh định hình được hướng đi của bài viết văn miêu tả cảnh, chúng ta cần
hướng dẫn học sinh bước tìm ý cho bài văn:
- Thứ nhất phải theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh chung sẽ tả,
sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
- Bao quát không gian cảnh được coi là một thao tác quan trọng của bức tranh
phong cảnh. Vậy học sinh cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian
cảnh như thế nào? Thực tế tôi thấy học sinh thường viết một cách cộc lốc cụt lủn,
có khi chỉ viết được một, hai câu cho phần tả bao quát. Do đó chúng ta cần hướng
dẫn học sinh cách miêu tả bao quát:
+ Để tả bao quát cảnh, trước hết phải có câu xác định vị trí miêu tả khái quát.
Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được toàn cảnh
miêu tả vào nhãn quan của người quan sát một cách tương đối trọn vẹn.
+ Sau câu văn giúp người đọc biết được vị trí của người quan sát là những lời văn
nhận xét, đánh giá khái quát đầy nghệ thuật về cảnh chung đó.
Cũng không quên lưu ý với học sinh rằng: Lời văn nhận xét, đánh giá khái quát
đầy nghệ thuật là những lời văn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ sao cho cảnh
được tả nổi lên sống động, tự nhiên, trong sáng... sát hợp với yêu cầu của đề mà
phần trước đã xác định và mang tính biểu cảm của người quan sát cảnh.
6


* Một vài ví dụ cụ thể:
Ví dụ: Tả bao quát cảnh quê hương em vào một buổi sáng mùa thu:
Đứng trên đầu đê, ngắm nhìn toàn cảnh làng quê, tôi như đang đắm mình trong sắc
thu vàng của trốn quê hương thanh bình, trù phú.
Hay một ví dụ khác về cảnh quê hương vào sáng mùa xuân:

Đứng giữa cánh đồng giang rộng cánh tay mà cảm nhận về làng quê. Ôi ! quê
hương tôi đẹp như một nàng tiên đang mỉm cười trước nhân gian. Thật ấm áp,
thanh bình đầy sức sống...
- Những ý cốt yếu nhất của một dàn bài văn miêu tả cảnh còn cụ là thể những cảnh
nào? (Nếu là đề tổng hợp thì cảnh sẽ chia thành nhiều cảnh đơn, nếu là đề tả cảnh
đơn thì cảnh đơn sẽ có có những điểm nổi bật gì? Như thế nào?)
Học sinh phần lớn thường xa vào kiểu gặp đâu nói đó và không hề xác định được
rằng mình đang tả cảnh có mục đích làm nổi lên diện mạo như thế nào, có làm bật
lên được tư tưởng chủ đề mà mình đã xác định được ở đầu bài yêu cầu không. Để
khắc phục được tình trạng này giáo viên cho học sinh luyện kỹ năng xác định, lựa
chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả .
Ví dụ: Cảnh khu vườn vào buổi sáng mùa thu thì có những đặc điểm gì nổi bật?
Đầu tiên giáo viên cho học sinh xác định chủ đề của cảnh sẽ dựng là một cảnh khu
vườn tươi tốt, đầy hoa thơm trái ngọt, rất thanh bình, dân giã mà mang được vẻ trù
phú của chốn quê hương yêu dấu, đặc biệt cảnh phải mang được dáng dấp của thời
gian, không gian mà đề quy định (có đặc trưng của mùa thu). Sau đó giáo viên
hướng cho học sinh tái hiện từng hình ảnh của khu vườn theo trí tưởng tượng
nhưng phải sát với hiện thực .
Ví dụ: Cảnh giàn thiên lý trước sân nhà ngào ngạt dậy hương buổi sớm, hình ảnh
cây cau cạnh bể nước với những tàu lá già giang rộng, đọt lá non cao vút; hình ảnh
vườn hoa đua sắc vàng thu cùng ong bướm; hình ảnh vườn rau tươi tốt cũng rất
mang đặc trưng mùa thu: cải sen làm dưa đang lên ngồng đang trổ hoa vàng rực,
7


những ngọn mồng tơi đang quăn mình leo lên bờ dậu để ra quả vắt mình sang thu;
tiếp đó là hình ảnh hàng cây ăn quả với những hương vị, màu sắc của thu. Ví dụ:
Thơm lựng chuối tiêu trứng quốc đốm vàng, những trái na mở mắt nhìn nắng thu,
cây hồng trái chín như những chấm son trên nền trời thu...
Với cách làm như trên, tôi đã cho học sinh luyện tập tìm đặc điểm cho nhiều cảnh

khác nhau với những thời gian, không gian đa dạng. Các em được luyện tập dưới
hình thức: “thi nhau tìm đặc điểm”, giáo viên hệ thống và giúp các em chọn lựa
những đặc điểm tiêu biểu nhất trong mỗi cảnh. Như thế sẽ tạo được hứng thú của
học sinh với cảnh sẽ tả.
3.3. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh.
Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng song chưa
phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được cảnh một cách sống động, chân
thực, nghệ thuật. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ diễn đạt như thế nào
là một điều giáo viên cần quan tâm.
Thực tế là qua nhiều năm chấm bài văn miêu tả của học sinh tôi thấy đáng buồn
một điều là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, thường sảy
ra hiện tượng bí từ, dùng sai nghĩa từ, lặp từ, lặp ý ... như vậy để làm bài văn của
học sinh diễn đạt trong sáng có sức hấp dẫn tôi nghĩ rằng không có cách nào khác
ngoài việc trau rồi ngôn từ nghệ thuật cho mỗi học sinh. Để học sinh tự giác làm
điều này là một việc làm rất khó, mà nên để học sinh tự làm sau khi giáo viên đã
tạo được trong lòng học sinh sự yêu thích ngôn từ nghệ thuật. Dựa vào tâm lý lứa
tuổi, giáo viên chúng ta cần gieo luồng yêu thích này qua việc cung cấp và phân
tích một số tư liệu được chọn lọc kỹ càng trích trong các tác phẩm của các nhà văn.
Ví dụ: Đoạn văn đầu trong văn bản “Lao xao” (Duy Khán) hoặc một số đoạn trong
“Vượt thác” (Võ Quảng)...
Sau mỗi một vài đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh ngôn từ
nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở học sinh, kích thích các em thích
8


tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ rèn kỹ năng diễn đạt là một phương pháp đòi hỏi
kỳ công nhất, nó cần phải mất một quá trình có nhiều bước .
Sau khi tạo hướng thú cho học sinh qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn lọc,
Giáo viên mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một
loạt hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh,

nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình gợi âm để tập diễn đạt.
Ví dụ: Hình ảnh cây đa: Cây đa xum xuê, um tùm như chiếc ô khổng lồ, hứng
lấy nắng mưa bảo vệ cho cái giếng làng thân quen, thấp thoáng sau tán lá đa là mái
đình cổ kính quê em...
- Hình ảnh không gian đồng cỏ: Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng nhọn trải
bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ may rung rinh
nhẹ nhàng trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn một điệu múa mềm mại
nhịp nhàng. Mấy chú chim sẻ tha thẩn trong vùng cỏ may rộng tìm kiếm sâu bọ và
đâu đây tiếng cuốc vọng vào thưa thớt rồi tắt hẳn trong không gian đồng quê mùa
thu.
- Tiếng chim ngoài bãi: Ngoài đê, ven ruộng ngô cánh bãi xanh um một màu lá
mướt của ngô xen đỗ, xen cà. Lại có tiếng chim khác nó bay vút lên cao thả vào
không trung nghe mát lành. Nó khoan thai, dìu dặt như ngón tay thon thả búng vào
dây đàn thập lục, nẩy ra tiếng đồng, tiếng thép lúc đầu vang to sau nhỏ dần nhỏ dần
rồi tắt lịm…
Ở giai đoạn luyện kỹ năng diễn đạt như thế này ta đặc biệt chú ý đến phép so
sánh trong các câu văn. Có thể coi so sánh hay để tạo những nốt luyến cho những
bản nhạc ngôn từ, những nét đậm của bức tranh ngôn ngữ.
Ví dụ:
- Dòng sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một mái tóc mềm suôn mượt.
- Những lá sen già khum khum chắng khác gì những chiếc thúng con đựng đầy ắp
nắng chiều thu.
9


- Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn triệu con
mắt lá răm sáng trưng nắng hè.
- Trăng về khuya cứ ngỡ là con thuyền đang trôi trên dòng sông Ngân .
Bằng cách đó, cho học sinh luyện trong nhiều tiết học để trở thành thao tác thuần
thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho học sinh kết hợp về tìm đọc tư liệu sao cho có

những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất .
3.4. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn miêu tả cảnh.
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý, logic,
chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường rất lúng túng không biết tả cảnh cụ thể là tả
cảnh gì? Tả như thế nào? Theo trình tự từ đâu? ... Các em thường sa vào kể lể, liệt
kê cảnh một cáh tràn lan, không trội lên được những đặc trưng của cảnh và càng
không tạo được ấn tượng cho người đọc về cảnh. Vậy người giáo viên phải làm
như thế nào để khắc phục khó khăn này. Trước hết tôi hướng cho học sinh hình
dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ
đi từ khái quát cụ thể. Bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó
. Ví dụ khái quát cảnh dòng sông: Dưới chân em là dòng sông hiền hoà chảy như
một tấm lụa trải dài xa tít.
Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần đến xa
theo tầm mắt.
Ví dụ: mùa này nước sông lưng chừng nước, nước sông trong xanh in bóng mây
trời sâu thẳm. Mái chèo khuấy động, lăn rung rinh cả những cây tóc tiên dưới đáy.
Trên mặt sông điểm xuyến những lá trúc vàng bé tẻo teo như những chiếc thuyền
tí hon dập dềnh trên sóng nước bao la. Những con sóng lăn tăn như những con rắn
vẩy vàng, vẩy bạc đang nô đùa...
Trong quá trình miêu tả tả cụ thể giáo viên lưu ý cho học sinh trình tự miêu tả
cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét, đánh giá
và sự liên tưởng tưởng tượng phong phú, ý câu trước với câu sau logic với nhau,
10


những câu đoạn cuối thường là những câu có ý nghĩa sâu sắc, làm đậm nét cho bức
tranh thiên nhiên nên giáo viên hướng cho học sinh biết dành những lời văn trội
hơn vào cuối đoạn.
Cứ theo cách hướng dẫn như trên giáo viên cho học sinh luyện viết thành nhiều
đoạn cho nhiều cảnh .

3.5. Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn trong văn tả cảnh.
Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc liên kết,
liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu tả cảnh. Giáo
viên cần giúp học sinh biết cách chuyển cảnh như sau:
- Các cảnh nhỏ được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô típ liên cảnh (cảnh
kề gần nhau theo tầm quan sát) Ví dụ: chỉ một lát con đường đã dẫn ra tới đầu
làng. Cây đa... Giếng đình...
- Chuyển cảnh nhờ những hình ảnh trung gian.
Ví dụ: “Bờ đê cao to vạm vỡ. Chân đê cỏ mọc thành thảm xanh tốt. Trâu bò tung
tăng gặm cỏ, vểnh đôi tai nghe tiếng sáo trở về. Âm thanh ấy lúc trầm lúc bổng,
hoà nhịp với tiếng chim hoạ mi lảnh lót rắc đều xuống mặt sông. Con sông quê tôi
nằm uốn khúc giữa làng rồi chạy dài bất tận …”
- Hướng chuyển cảnh theo gam màu.
Ví dụ: Sáng nay ra trông thấy màu trời có vàng hơn thường khi. Màu lúa chín dưới
đồng vàng suộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn lắc lư những quả
xoan vàng lịm. Từng chiếc lá mít vàng ối. Buồng chuối đốm quả chín vàng...
- Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với không gian.
Ví dụ: Nối âm thanh của sự vật bên bờ sông với không gian vắng của bến sông
(lấy động làm nổi tĩnh) “Sóng vỗ nhẹ hai bên bờ lóc bóc nghe thật vui tai. Chiều
dần buông, bến sông trở về vắng lặng. Những con đò nằm im đợi khách qua
sông…”

11


- Chuyển cảnh bằng cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác quan khác
nhau.
Ví dụ: Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín, hương hoa
thơm ngọt lịm. Tiếng chim líu lo như đem hương thơm ấy bay cao, cao mãi. Tu hú
kêu trong nắng chiều cho rặng vải ven sông chín đỏ, cho cái chua bay đi, miền

ngọt còn lại…
Phương pháp này giáo viên cho học sinh tập viết kết hợp với học tập tư liệu để
có nhiều cách chuyển cuốn hút người đọc .
3.6. Hướng dẫn học sinh luyện viết cách mở bài và kết bài miêu tả.
- Giáo viên đưa ra một số cách mở để học sinh luyện theo:
Cách mở bài hay thưòng là gián tiếp: Có thể giới thiệu cảnh bằng lời mời gọi du
khách để giới thiệu cảnh và bộc lộ cảm xúc của người viết một cách khái quát. Có
thể dẫn dắt từ lời thơ, bài hát về cảnh sẽ tả để giới thiệu cảnh. Hoặc có thể bộc lộ
cảm xúc hồi tưởng về cảnh để mà giới thiệu...
Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng lưu ý cho học sinh đủ ý cần nêu trong mở
bài.
- Kết bài không những đủ ý chốt của bài viết mà nên tạo độ lắng cho nốt trầm xao
xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc điều này phụ thuộc vào trình độ diễn
đạt của học sinh, nên giáo viên hướng các em trau dồi tư liệu văn học.
Ví dụ: Một kết bài : Chiều thu- quê hương ơi! Hồn tôi như hoá thành tiếng sáo
trúc nâng trên môi chú bé mục đồng và hình như thu đang dạo lên khúc nhạc đồng
quê, những tiếng lao sao rất nhẹ, rất êm. Chiều nay quả là một buổi chiều sâu lắng
dìu dịu, nó sẽ in đậm mãi trong ký ức tuổi thơ tôi.
4. Hiệu quả sử dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Quá trình thực hiện, áp dụng sáu kỹ năng cơ bản như vừa nêu ở trên, tôi nhận
thấy kinh nghiệm này đã đem lại những hiệu quả đáng kể như:
- Phá bỏ được tâm lí ngại viết, ngại nghĩ của học sinh khi học văn.
12


- Bước đầu khơi dậy được niềm say mê, hứng thú học văn cho hoc sinh. Kích thích
được sự say mê sáng tạo của các em trong việc viết văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng.
- Phần lớn học sinh đã tạo lập được những bài văn miêu tả cảnh dúng yêu cầu, hay.
Sau khi áp dụng và khảo sát tôi thu được kết quả cụ thể như sau:

Số HS

Kết

Quả

đạt

được

được khảo
sát
90

Giỏi
4

%
4,5

Khá
%
TB
%
Yếu
25
28
48
53
9

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.

%
10

Kém
4

%
4,5

1. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện, tôi nhận thấy để nâng cao kết quả học tập
ở các môn học nói chung và làm văn miêu tả trong môn ngữ văn 6 nói riêng cần:
- Về phía giáo viên phải thực sự kiên trì, mẫu mực trong cách dùng từ, kiên trì
trong việc kiểm tra, đánh giá, sửa chỉnh các phần viết luyện kỹ năng của các em.
Mặt khác giáo viên cũng phải kiên trì sưu tầm, chọn lọc tư liệu giá trị để cung cấp
cho các em đồng thời tìm cách hướng các em cách vận dụng sáng tạo những tư liệu
để biến thành cách diễn đạt riêng của bản thân mỗi học sinh.
- Về phía học sinh phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật bằng
cả trái tim. Phải quan sát tinh tế những cảnh vật thiên nhiên thường nhật, phải
tưởng tượng phong phú và cần phải nhập tâm vào cảnh vật để có được những cảm
xúc chân thực với cảnh vật thiên nhiên khi miêu tả. Thường xuyên rèn luyện kĩ
năng làm văn.
2. Kiến nghị.
Để bồi dưỡng tình yêu văn cho học sinh nói chung, làm giàu vốn ngôn ngữ miêu
tả cho các em học sinh khối 6 nói riêng thì:

13



- Đối với giáo viên: sưu tầm tư liệu miêu tả thành những cuốn tư liệu quí để lưu
giữ trong tủ sách nhà trường. Nhà trường, nghành giáo dục cũng cung cấp thêm
những tài liệu về văn miêu tả cho học sinh THCS để làm giàu cho tủ sách.
- Đối với học sinh: tự giác sưu tầm những đoạn văn, bài văn miêu tả có giá trị, phô
to hai bản , giữ một bản để học, một bản nộp tủ sách nhà trường .
- Đối với nhà trường: Thường xuyên tổ chức phong trào “Thi đua đọc tư liệu từ tủ
sách nhà trường”. Lấy hoạt động làm tiêu chí thi đua, đánh giá, xếp loại cho HS.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi. Rất mong sự đóng góp
chỉ bảo của lãnh đạo chuyên môn và các thầy cô, đồng nghiệp để sáng kiến kinh
nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn trong những năm dạy sau.
Xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
……………………………………….

Thanh Hoá, ngày 02 tháng 4 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPPY

. .………………………………….
. .………………………………….
. .………………………………….

Bùi Văn Thành

14



×