Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

sÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỊCH SỬ THCS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.69 KB, 34 trang )

Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Mục lục …………………………………………………………
Phần I: MỞ ĐẦU.....…………………………………….
1. Lí do chọn đề tài………………………………………….
2. Mục đích nghiên cứu……………………………..............
3. Phạm vi nghiên cứu……………………………...............
4. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………........................
5. Phương pháp nghiên cứu………………………...............
6. Đóng góp của đề tài………………………………….......
7. Kế hoạch nghiên cứu………………………. .............

TRANG
01
02
02
04
04
05
05
05

Phần II: NỘI DUNG. ………………………………………….
1. Cơ sở lý luận……………………………………………..
2. Cơ sở thực tiễn ……………………………….................
3. Thực trạng dạy học môn Lịch sử ở trường THCS nói
chung

trường


THCS
Yên
Ninh
nói
riêng…………………………………
4. Mô tả, phân tích đề xuất một số phương pháp sử dụng đồ
dùng trực quan vào dạy học môn Lịch sử lớp 8 đạt hiệu
quả cao……………………………...................................
5. Kết quả khi áp dụng đề tài …………………..................
6. Bài học kinh nghiệm ………………………………………

7
7
8
9
11
29
30

Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ …………………….

31

Tài liệu tham khảo ……………………………………………..

33

HÃY LIỆN HỆ VỚI TÁC GIẢ ĐỂ LẤY TÀI LIỆU ĐẦY ĐỦ NHẤT:
0949.319.550, CẢM ƠN ĐÃ XEM TÀI LIỆU
PHẦN I

MỞ ĐẦU
1
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đưa đất nước ngày càng hoà nhập với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI.
Để trở thành một quốc gia giàu mạnh và phồn vinh, có rất nhiều nhiệm vụ đặt ra
trong các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan tâm và được đánh giá là cốt yếu đó là
nhiệm vụ đặt ra trong quá trình giáo dục. Bởi mục đích đặt ra của nền giáo dục
cách mạng Việt Nam là phát triển nhân cách cho học sinh, nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, lao động.... Ở tất các bậc
học hết sức coi trọng giáo dục tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo, năng
lực thực hành. Hơn nữa hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão,
để có công trình kiến trúc với những trang bị thiết kế hiện đại như thế giới ngày
nay đòi hỏi con người phải có trình độ thật sự, có khả năng tiếp thu nhanh chóng
nền văn hoá của nhân loại, nhanh chóng nắm bắt những đổi mới để áp dụng vào
thực tiễn. Bởi công tác giảng dạy và học tập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối
với thế giới ngày nay. Để đảm bảo chất lượng trong việc đào tạo con người đòi hỏi
nhà trường phải có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn
thật sự, đồng thời có kiến thức đối với các môn học có liên quan, để đào tạo ra
những thế hệ tương lai có một trình độ cập nhật và có nhân cách phát triển toàn
diện.

Ngày nay theo xu thế chung đòi hỏi con người phải có kiến thức mới đáp
ứng được yêu cầu của xã hội. Vì vậy muốn đào tạo ra những thế hệ trẻ có kiến thức
thì nhà trường phải nâng cao chất lượng dạy học bằng cách luôn luôn cải tiến nội
dung, phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đặc điểm của nội dung kiến
thức và trình độ nhận thức của học sinh theo lứa tuổi nhằm tạo cho học sinh hứng
thú và từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động học tập của học sinh.
Trước yêu cầu dạy học, muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả thì phải giáo
dục cho các em thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Nói cách khác muốn nâng cao
chất lượng đào tạo đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giảng dạy, tác động vào
chủ thể nào đó để các em say sưa, hứng thú với những lời giảng của thầy, từ đó học
sinh phát huy khả năng, năng lực tích cực, chủ động của bản thân để nắm bắt tri
thức của nhân loại, đặc biệt là ở môn lịch sử. Để giúp các em nhận thức được rằng
2
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
học tập là nhiệm vụ của mình, để phục vụ cho mình và chỉ có học tập mới tạo nên
cho mình nền tảng kiến thức để hiểu được thế thới vĩ mô với bao điều bí ẩn, từ đó
đi vào khám phá cái hay, cái đẹp của nó để đem lại “bản quyền” cho bản thân. Qua
đó giúp các em ý thức say mê học tập các bộ môn khác có liên quan, để đạt kết quả
cao và tạo khí thế cho các em tham gia vào các hoạt động khác.
Sinh thời, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Câu nói giản dị của Bác thật thấm thía và sâu sắc, bởi đã là người Việt Nam
thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử nước mình, đó cũng chính là đạo lí: “Uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc. Lịch sử và tương lai được ví như đôi quang gánh, và

cần phải giữ cho đôi quang ghánh ấy được thăng bằng không được thiên về bên
nào. Bởi nếu ta nghiêng về phía sau thì ta sẽ trở thành người lạc hậu, còn nếu ta
thiên về phía trước thì bánh xe lịch sử sẽ đè bẹp chúng ta. Từ những suy nghĩ đó, ta
nhận thấy môn Lịch sử cũng là một trong những môn học có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục và đó cũng chính là điều mà Đảng và Nhà nước ta đang
quan tâm. Trong những năm gần đây, qua đài báo và tình hình thực tế ở các nhà
trường, tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan
trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này, vì cho đây chỉ là môn
phụ và các em rất “ngán ngẩm” khi phải học và nhớ các sự kiện lịch sử, những bài
học kinh nghiệm, nhất là khi các em càng lên lớp trên (THCS, THPT). Trước yêu
cầu đó, xã hội đòi hỏi ngành giáo dục chúng ta cần quan tâm, thay đổi nhận thức,
thay đổi phương pháp dạy học... trong việc đổi mới phương pháp dạy học một cách
sinh động, hấp dẫn hơn.
Chính vì thế, trong quá trình giảng dạy và căn cứ vào tình hình thực tế, tôi
luôn nhận thức phải luôn tìm tòi và đưa ra nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau
để đổi mới bài giảng của mình nhằm gây hứng thú cho học sinh, từ thích thú môn
Lịch sử mà các em sẽ đi đến chủ động học tập, giúp các em có thể yêu thích môn
Lịch sử giống như các môn học khác.

3
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
Nhận thức được điều này, bản thân tôi luôn suy nghĩ tìm tòi và rút ra được
một số phương pháp áp dụng vào giảng dạy bộ môn Lịch sử có khả thi. Qua thực
tiễn kiểm nghiệm của bản thân, tôi mạnh dạn nghiên cứu nội dung đề tài là:
“Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8”. Hi vọng

rằng từ những phương pháp sau sẽ giúp học sinh học tốt hơn môn Lịch sử, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
II.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra đội ngũ con người phát triển toàn diện, chính
vì lẽ đó mà tôi phải tìm hiểu: “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy
môn Lịch sử lớp 8”. Trên cơ sở thực tế nghiên cứu, đề ra một số phương pháp đổi
mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động học tập bộ môn Lịch sử cho các em để
tìm ra những ưu điểm và hạn chế của việc học tập bộ môn, thái độ của từng học
sinh đối với môn học.
III.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Phạm vị nghiên cứu: Tìm hiểu quá trình học tập của học sinh bằng việc đưa
ra một số phương pháp mới vào giảng dạy ở môn Lịch sử lớp 8 (8A, 8B) cấp
trường THCS (trường THCS Yên Ninh – Phú lương – Thái Nguyên)
IV.

NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu thì bản thân đã thực hiện các nhiệm vụ

sau:
Nghiên cứu các tài liệu về “Phương pháp dạy học lịch sử”: Thao giảng, dự
giờ đồng nghiệp có trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.
Nghiên cứu tài liệu, vẽ lược đồ, bản đồ, sưu tầm tranh ảnh, hiện vật, lập niên
biểu,... gây hứng thú cho tiết dạy học lịch sử.
Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập lịch sử; Khai thác

kênh hình, sách chuẩn kiến thức kĩ năng, sách kiểm tra thường xuyên và định kì,
các tư liệu lịch sử trên mạng Internet.
Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các chỉ thị, Nghị quyết của Ngành và các
sách báo có liên quan về vấn đề Lịch sử và phương pháp giảng dạy sử dụng đồ
dùng trực quan vào dạy học môn Lịch sử lớp 8.
b. Điều tra viết:
- Khách thể khảo sát: Tôi tiến hành nghiên cứu và khảo sát tại lớp 8A và lớp
8B trường THCS Yên Ninh.
- Xử lý số liệu: Tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên tổng số các khách thể
được thăm dò để so sánh sự khác nhau giữa ý kiến của các nhóm khách thể khảo
sát.
c. Phỏng vấn một số giáo viên có kinh nghiệm đã làm tốt công tác này.
d. Thử nghiệm một số biện pháp được đề xuất.
e. Phương pháp xử lý số liệu: Dùng phương pháp thống kê.
VI. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
-Tìm ra những phương pháp dạy học có hiệu quả đối với môn lịch sử.
-Áp dụng những vấn đề nghiên cứu vào thực thiễn dạy học để đạt kết quả cao.
-Giúp học sinh thay đổi căn bản quan niệm về môn lịch sử, vai trò của môn học
này ngày càng được nâng cao.
VII. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

* Tháng 10/2015.
- Thu thập văn bản chỉ đạo của cấp trên, các tài liệu hướng dẫn chung và các
tài liệu liên quan.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Lập đề cương cho đề tài.
* Tháng 11/2015.
- Sưu tầm thêm một số tài liệu có liên quan. Phân tích chỗ tài liệu đã được
nghiên cứu.
5
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
- Tiến hành thực hành, thực nghiệm, nghiên cứu và rút ra một số kết luận ban
đầu cho đề tài.
* Tháng 12/ 2015.
- Xử lý số liệu điều tra.
- Viết bản thảo cho đề tài.
* Tháng 01 - 02/2016.
- Sửa chữa, bổ sung đề tài. Tiếp thu ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học
nhà trường cho đề tài.
- Đánh giá kết quả đã đạt được.
* Tháng 03/2016.
- Tiếp tục nghiên cứu lý luận.
- Tiến hành phỏng vấn, điều tra cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh để lấy
kết quả báo cáo.
* Tháng 4,5/ 2016.
- Hoàn thành đề tài nghiên cứu.


PHẦN II.
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học, tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực
6
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Trong dạy
học lịch sử, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện, khắc sâu kiến thức, khắc phục tình trạng
hiện đại hóa lịch sử của học sinh.
Trong dạy học lịch sử, đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu về bản chất
của các sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm
lịch sử, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội. Đồ dùng
trực quan có vai trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những
hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc
trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Cùng với
việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan
còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh.
Mỗi khi quan sát vào loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét,
phán đoán, hình dung xem quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào?
Từ đó các em mới suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình
ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Việc giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ thông qua dạy học có sử dụng đồ

dùng trực quan cũng có ý nghĩa rất lớn như: Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả các
nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” ở Trung Quốc học sinh biểu lộ được sự cảm
thông, lòng khâm phục đối với nhân dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống
đế quốc, phong kiến. Khi xem một cuốn phim tài liệu, quan sát bản đồ Nhật Bản,
Ấn Độ ở sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 được vẽ phóng to, quan sát một di vật lịch
sử, … học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị được
tiến hành trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa – xã hội nhằm phát
triển đất nước ở Nhật Bản. Các em thể hiện thái độ lên án sự thống trị tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân, khâm phục cuộc đấu tranh của ND Ấn Độ, Trung Quốc, các
nước Đông Nam Á,… chống chủ nghĩa đế quốc.
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực
quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập
cho học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự kiện, kiến

7
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
thức lịch sử. Nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ, khách quan với đời
sống hiện tại.
2. Cơ sở thực tiễn
Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong
dạy học lịch sử; coi đó là phương pháp trong dạy học, một phương pháp không thể
thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở Trường THCS nói chung và trường
THCS Yên Ninh nói riêng. Tuy nhiên sử dụng như thế nào để có hiệu quả dạy học,
phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử thì
không đơn giản chút nào. Bởi việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy

học lịch sử chưa có sự thống nhất, mỗi người sử dụng một phương pháp khác nhau.
Tình trạng sử dụng các đồ dùng dạy học còn mang tính hình thức chưa phát huy hết
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Trong đề tài này tôi không trình bày
lại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nói chung mà chủ
yếu đề xuất một số biện pháp sử dụng nhằm phát huy tính tích cực hoạt động độc
lập có tính sáng tạo của học sinh.
Trước tiên, hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học
lịch sử là do nhiều yếu tố quyết định như: Chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật,
bản đồ, tranh ảnh lịch sử,.… Phương pháp sử dụng, kỹ năng và năng lực sư phạm
của người giáo viên, đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Vì đồ dùng trực
quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết
hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “Tai nghe – Mắt thấy”
tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm
thời khá phong phú; phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, niềm say mê,
hứng thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu không sử dụng
đồ dùng trực quan đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán tư
tưởng, không tập trung vào các dấu hiệu, nội dung chính, thậm chí hạn chế sự phát
triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh.
Thực tế giảng dạy ở Trường THCS nói chung và trường THCS Yên Ninh
nói riêng cho thấy: Không ít giáo viên đã coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan
hoặc khi phải sử dụng thì chủ yếu là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem
qua loa mang tính hình thức, chứ không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học
8
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong

giảng dạy và học tập. Để đáp ứng yêu cầu dạy và học lịch sử cũng như khắc phục
tình trạng trước đây thì chúng ta cần phải biết kết hợp hài hoà giữa nội dung bài
học và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy nhiên mỗi loại đồ dùng trực
quan đều có những phương pháp sử dụng riêng, sao cho phù hợp với nội dung của
bài học ở mỗi tiết dạy, gây được niềm say mê, hứng thú học tập, đặc biệt là tính tích
cực hoạt động, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu.
3. Thực trạng dạy học môn lịch sử ở Trường THCS nói chung và trường
THCS Yên Ninh nói riêng .
3.1. Ưu điểm
* Về phía giáo viên: Đại đa số giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra những
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các
phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan,
lập niên biểu, vấn đáp,… Thông qua trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo
viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử;
giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, so sánh, giải
thích một cách tích cực. Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hơn về
bản chất, vai trò và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng
dạy giáo viên đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ
dùng và phương tiện dạy học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ SGK, hiện vật, phim
máy chiếu,…từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử.
* Về phía học sinh: Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy
nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời
câu hỏi ở cuối mục trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên
lược đồ cho nên khi học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy, tích cực thảo
luận nhóm, đưa ra các tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết. Trong quá trình
lĩnh hội kiến thức học sinh đang cố gắng học hỏi lẫn nhau để nắm bắt kiến thức cơ
bản thông qua hoạt động thảo luận, vấn đáp, đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ,
tranh ảnh,…các em đã mạnh dạn trình bày diễn biến trên lược đồ, lập niên biểu lên
bảng, trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật một quá trình cách mạng
trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình.

9
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
3.2. Hạn chế
* Về phía giáo viên: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn
toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt
động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến
thức như: vẫn còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò
chép”. Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn
vào sách giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên.
Thiết bị môn lịch sử (bản đồ, hiện vật,…) còn thiếu, các tranh ảnh, lược đồ
sách giáo khoa thì một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan
sát qua loa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ lược đồ mà không hướng
dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách vẽ nên tiết dạy không có lược đồ,… đặc biệt
là với trường THCS Yên Ninh , do thiếu giáo viên bộ môn nên có những giáo viên
đào tạo trái ban (môn Văn) phân công giảng dạy bộ môn Lịch sử, khiến cho việc sử
dụng phương pháp đồ dùng trực quan càng khó khăn, dẫn đến tiết học nhàm chán,
học sinh nắm bắt kiến thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập của học sinh chưa
cao.
Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá,
giỏi trả lời; chưa có câu hỏi giành cho học sinh yếu kém nên các đối tượng học sinh
yếu kém ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một số ít giáo
viên lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên học
sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này
được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận nhóm, giáo viên chỉ
biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi như

thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề nên học sinh không trả
lời được,...
* Về phía học sinh: Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông
qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học
sinh còn đọc nguyên sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười
học thậm chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung
suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.
Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp,
10
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
phân tích, so sánh, giải thích,…thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc mang tính
chất chung chung, không rõ ràng.
* Số liệu điều tra cụ thể: Tôi được Ban Giám hiệu phân công dạy học môn
Lịch sử lớp 8 và lớp 7. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc
điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh đồng thời tôi tiến hành rút kinh nghiệm
qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra hiện thực thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, thảo
luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học sinh ở trên lớp; kiểm tra miệng, kiểm tra 15
phát, kiểm tra 1 tiết ...Từ kết quả kiểm tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời
được những câu hỏi mang tính chất trình bày; còn những câu hỏi ở mức độ khá và
giỏi như so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng
túng. Do vậy kết quả điều tra cũng không cao cụ thể là:
Đầu năm học 2015 – 2016 tôi tiến hành điều tra ở 2 lớp 8 môn Lịch sử, kết quả
khảo sát như sau:
Lớp (SS)


Giỏi (TL)

Khá (TL)

TB (TL)

Yếu (TL)

Kém
(TL)

8A (30)

2 (6,6 %)

11 (36,6%)

13 ( 43,3 %)

4 (13,3%)

0

8B (29)

1( 3,4%)

10 (34,4%)

15 (51,7 %)


3 (10,3 %)

0

4. Mô tả, phân tích đề xuất một số phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
vào dạy học môn Lịch sử lớp 8 đạt hiệu quả cao.
Chương trình môn Lịch sử lớp 8, bậc THCS được quy định theo phân phối
chương trình là 1,5 tiết/ tuần, học Lịch sử thế giới + Việt Nam.
Hai phần kiến thức lịch sử thế giới và Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với
nhau, đặc biệt là ở phân kì lịch sử thế giới hiện đại. Điều này giúp cho học sinh
nhận thức đúng về mối quan hệ giữa cộng đồng người ở các châu lục trong quá
trình phát triển đi lên của xã hội loài người.
Học sinh lớp 8 chỉ học khái quát về thời kì lịch sử thế giới (Lịch sử thế giới
cận đại từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917), giúp các em nắm được tiến trình của lịch
sử thế giới cận đại và những nội dung chính của thời kì này; phần lịch sử Việt Nam
11
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
các em học giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1918, giúp các em nắm được tình hình
Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX và những biến đổi trong xã hội Việt Nam từ
năm 1897 đến năm 1918. Cấu tạo chương trình lịch sử như vậy khắc phục đựơc hai
khuynh hướng tư tưởng, quan điểm sai lệch về mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và
lịch sử thế giới. Khi cung cấp nội dung kiến thức cho học sinh cần tập trung vào
một số công việc chủ yếu cơ bản nhất để phát huy tính tích cực học tập cho học

sinh, đó là nắm vững kiến thức cơ bản. Kiến thức cơ bản về lịch sử mà học sinh cần
nắm bao gồm nhiều yếu tố, sự kiện, niên đại, địa điểm, nhân vật, bài học kinh
nghiệm lịch sử, quy luật, nguyên lí về sự phát triển của xã hội loài người, các khái
niệm, thuật ngữ và cả phương pháp học tập.
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử - không trực tiếp quan sát các sự kiện –
nên phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực
quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử.
Sau đây, tôi xin mạnh dạn đưa ra những phương pháp sử dụng đồ dùng trực
quan mà mình đã áp dụng trong thực tiễn giảng dạy ở bộ môn Lịch sử lớp 8 (8A,
8B), trường THCS Yên Ninh:
4.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa:
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có tác
dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá khứ
một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực
Ví dụ: Bức ảnh của Tôn Trung Sơn và cách mạng Tân Hợi 1911(hình 44) SGK
lớp 8 trang 61, Áp phích năm 1921 – “chúng ta tuyên chiến với hậu quả của chiến
tranh” – nói về tình hình đất nước năm 1921 – 1925 ở Liên Xô (hình 58) SGK lịch
sử lớp 8, bức tranh “Bãi đỗ ô tô ở Niu Oóc năm 1928” (hình 65) và bức tranh
“Công nhân xây dựng cao ốc ở Mĩ” (hình 66) sách giáo khoa lịch sử lớp 8 trang
93 trong bài nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939), hay bức
ảnh về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước 1862 (hình 85), sách giáo
khoa Lịch sử lớp 8 trang 117; hoặc bức tranh “”tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin”
hình 10, sách giáo khoa Lịch sử lớp 8, trang 148, giới thiệu về con tàu Nguyễn Tất
12
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016



Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 tại bến cảng nhà Rồng… Những tranh
ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc
tính chất sự kiện lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng, tạo cho
học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ.
Ví dụ: Khi các em ngắm nhìn bức tranh cảnh làng quê đang vào mùa gặt hái
với những chiếc máy cày đang thay thế sức trâu (bò) hay những hình ảnh như:
Nông dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc (hình 99 – sách giáo khoa Lịch sử lớp
8 – trang 140), ảnh “Ga Hà Nội năm 1900” (hình 98), ảnh “Quân Pháp tấn công
Đại đồn Chí Hoà” (hình 84) sách giáo khoa lịch sử 8…. Qua các hình ảnh học sinh
khắc sâu các sự kiện lịch sử: sự phát triển của cách mạng trong thời kì chiến tranh
bảo vệ chính quyền cách mạng, chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát các
tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Do học sinh thích xem tranh lịch sử nhưng ít biết
khai thác nội dung của tranh phục vụ cho bài học. Để sử dụng có hiệu quả, giáo
viên cần hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung bức tranh, sau đó giáo
viên bổ sung, sửa chữa để các em hiểu bức tranh đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn.
Ví dụ: Khi sử dụng bức về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước
1862 (hình 85), sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 trang 117 , giáo viên cần đặt câu hỏi
gợi ý cho học sinh biêt: Trương Định là người như thế nào? Qua cảnh tượng
Trương Định không nhận sắc phong của triều đình mà nhận chức do nhân dân
phong, em có suy nghĩ gì về Trương Định? Yêu cầu lớp trao đổi, thông qua sự gợi ý
của giáo viên và một, hai học sinh trả lời, giáo viên mới giải thích và nhận xét. Tất
cả những ý trên đều giúp học sinh nắm được cuộc chiến tranh chính nghĩa luôn
được nhân dân ủng hộ nhất định sẽ thắng lợi. Tuy lực lượng quân sự còn ít, vũ khí
trang bị còn thô sơ nhưng đã tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng
lợi của cách mạng.
Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa tương đối đầy đủ, do vậy việc sử
dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu và khắc sâu bài học lịch sử, phát huy tính tích
cực sáng tạo của học sinh là hiệu quả nhất. Hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa

có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư
tưởng, tình cảm mà còn phát triển tư duy học tập bộ môn lịch sử của học sinh. Sử
13
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
dụng tốt loại phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động,
tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát học sinh sẽ đi tới
công việc tư duy trừu tượng, nhưng quan sát tranh ảnh không thể gây ra sự chú ý,
tích cực trong việc nhận thức vấn đề của học sinh nếu không có sự hướng dẫn của
giáo viên. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh, rèn luyện khả năng sử
dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú, trong sáng. Vì vậy trong dạy học
lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện qua
tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa, đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng
câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật, phân tích để nắm được kiến thức lịch sử biểu
hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan sát học sinh cần nêu lên suy nghĩ của
mình để các bạn trong lớp nhận xét, bổ sung cho hoàn thiện. Mỗi ý kiến, phát biểu
của các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá
trình độ của học sinh và uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những
điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận của các em khi quan sát một
bức tranh hay một hình vẽ.
Ví dụ: Khi dạy bài 22: “Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và văn hoá thế
giới nửa đầu thế kỉ XX”, sách giáo khoa Lịch sử 8, trang 109 – 112, khi dạy mục I,
giáo viên cho học sinh xem các bức tranh:
Giáo viên giới thiệu và phát vấn học sinh “Các em hãy quan sát bức tranh
hình 81 và những phát minh khoa học nửa cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX và rút ra
nhận xét?” Sau khi lớp trao đổi, giáo viên gợi ý và học sinh trả lời, giáo viên mới

giải thích rõ hơn về các bức tranh cho học sinh hiểu. Sau đó giáo viên có thể giới
thiệu thêm cho học sinh biết về nguồn gốc của ngành hàng không thế giới, chiếc
máy bay đầu tiên trên thế giới được chế tạo thành công khi nào và gắn liền với tên
tuổi của ai?.....Từ đó giáo viên cho học học sinh rút ra ý nghĩa của những thành tựu
khoa học – kĩ thuật nửa đầu thế kỉ XX?
4.2. Phương pháp sử dụng các tranh ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử:
Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử dụng để
giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm, tính cách,
tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng giáo viên không nên miêu tả quá
14
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật những nét
tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để cho học sinh
hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy bài 15. .“Cách
mạng tháng Mười Nga 1917 và công cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng 1917 1921” mục I.3 và mục II sách giáo khoa Lịch sử 8 (trang 75 - 82), học sinh không
thể không biết đến hình ảnh Lê-nin đã khởi thảo ra “Bản luận cương tháng 4” với
khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô Viết” và hình ảnh Lênin trực tiếp lãnh đạo
Hồng quân Liên Xô đánh chiếm “Cung điện mùa Đông” giành thắng lợi, giáo viên
cần nêu thêm những nét tiêu biểu nhằm giúp HS có ấn tượng sâu sắc về nhà cách
mạng nổi tiếng này.
Ví dụ: Khi nói về Lê-nin "Lênin là người kế tục, phát huy những quan điểm,
lý luận về cách mạng vô sản do Mác-Engghen đưa ra và phát triển nó thành một hệ
thống hoàn chỉnh về cách mạng vô sản hay còn gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin"
Hoặc: Khi dạy về bài 22: “Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và văn hoá thế

giới nửa đầu thế kỉ XX”, sách giáo khoa Lịch sử 8, trang 109 – 112, giáo viên có thể
giới thiệu cho học sinh chân dung những nhà khoa học tiêu biểu thời kì này như:

15
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
Hồng quân tiến chiếm Cung điện Mùa
Đông

Cách mạng tháng Mười Nga thành công

Trên cơ sở giới thiệu cho các em đi tìm hiểu về chân dung các nhà khoa học,
nhà văn xuất sắc của nước Nga Xô Viết đầu thế kỉ XX, giáo viên có thể cho học
sinh trả lời câu hỏi: Qua quan sát chân dung các nhà khoa học và các nhà văn xuất
sắc của nước Nga Xô viết, bản thân em có suy nghĩ gì? Giáo viên cho học sinh tự
phát biểu cảm tưởng của mình, nhằm nuôi dưỡng hoài bão ước mơ vươn lên phấn
đấu học tập để những công dân có ích cho xã hội.
Tóm lại, việc sử dụng kênh hình đã in trong sách giáo khoa hoặc tranh ảnh
trên máy trình chiếu có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao kiến thức của học sinh
trong học tập bộ môn lịch sử. Bởi các hình ảnh rỏ ràng, cụ thể của kênh hình không
chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh những cảm xúc lịch sử
trong tâm hồn các em. Đặc biệt là các ảnh chân dung còn tạo điều kiện giáo dục
thẩm mĩ cho các em và điều chủ yếu nhất là với hình ảnh cụ thể đó sẽ nâng cao sự
hấp dẫn của học sinh đối với bộ môn Lịch sử, làm cho kiến thức của các em thêm
phong phú, sinh động và sâu sắc.
4.3. Phương pháp sử dụng bản đồ, niên biểu, lược đồ, sơ đồ:

16
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
Bản đồ, niên biểu, lược đồ là những đồ dung trực quan quy ước không thể
thiếu được trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử lớp 8 nói riêng. Nhờ
có những đồ dùng trực quan này mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh
địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta cũng biết mỗi một sự kiện lịch sử
bao giờ cũng gắn liền với mốc thời gian và không gian nhất định, nếu ta tách sự
kiện lịch sử khỏi không gian và thời gian ta sẽ không hiểu được nội dung ý nghĩa
của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không chỉ là biết tên
địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa điểm đó là các yếu
tố, địa hình phạm vi không gian, thời gian cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiên
của địa điểm đó.
Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích
các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát
triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học.
Về hình thức, bản đồ lịch sử không càn có nhiều chi tiết về điều kiện thiên
nhiên (khoáng sản, sông, núi….) mà cần có những kí hiệu về biên giới các quốc
gia, sự phân bố dân cư, thành phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố
quan trọng (các cuộc khởi nghĩa, cách mạng, chiến dịch. Ví dụ: Lược đồ cuộc khởi
nghĩa nông dân Yên Thế trong sách lịch sử lớp 8; hay lược đồ hình 45 sách giáo
khoa lịch sử 8. Lược đồ Cách mạng Tân Hợi…). Các minh hoạ trên bản đồ phải
đẹp, chính xác, rõ ràng.
Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia làm 2 loại bản đồ tổng hợp và bản đồ
chuyên đề. Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của

một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định, trong những điều
kiện tự nhiên nhất định. Ví dụ bản đồ “Các nước đế quốc và thuộc địa đầu thế kỉ
XX”, hay bản đồ “Châu Âu giữa hai cuộc chiến tranh thế giới”..; Bản đồ chuyên đề
nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt của quá trình lịch sử. ví dụ: lược
đồ “Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất”; lược đồ “nội chiến ở Pháp
1871”…
Trong thực tiễn dạy học lịch sử cần kết hợp cả hai loại bản đồ trên khi trình
bày một sự kiện. Việc sử dụng bản đồ trong dạy học , là điều cần thiết, không thể
17
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
thiếu được trong điều kiện nước ta hiện nay, đem lại nhiều kết quả về mặt giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển.
Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ, giáo viên cần chú ý giúp học sinh phân
tích nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh trên bản đồ chứ không nên
cho học sinh tiếp thu một cách thụ động.
Ví dụ:
Khi giảng bài 27: “Khởi nghĩa Yên thế và phong trào chống Pháp của đồng
bào miền núi cuối thế kỉ XIX” (SGK Lịch sử lớp 8). Giáo viên sử dụng bản đồ hay
Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế mà giáo viên tự vẽ, in kê phóng to hoặc hướng dẫn
cho học sinh về nhà vẽ phóng to vào giấy A 0 treo lên bảng và yêu cầu học sinh trình
bày diễn biến của phong trào qua lược đồ.

Lược đồ khởi nghĩa Yên Thế
Sau khi đã chuẩn bị bản đồ, lược đồ trong tiến trình giảng dạy giáo viên thực
hiện các bước sau: Phân tích rõ nguyên nhân dẫn đến bùng nổ cuộc khởi nghĩa Yên

Thế? Giáo viên treo bản đồ lên tường (Nơi mà học sinh có thể nhìn rõ, góc bên phải
bảng, nơi có đủ ánh sáng cho học sinh có thể nhìn thấy rõ. Giáo viên phải đứng bên
18
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
phải bản đồ, dùng que chỉ các địa điểm nơi xảy ra cuộc khởi nghĩa thật chính xác).
Để lần lượt trình bày diễn biến của phong trào, kết quả v.v… Kết hợp với lời giảng
giáo viên chỉ rõ cho các em những vị trí, địa điểm của nghĩa quân hoạt động qua 4
giai đoạn,... sau đó yêu cầu các em nhận xét và rút ra kết luận khái quát.
Ví dụ: Khi dạy bài 30: “Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1918”, mục II.3. Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi
tìm đường cứu nước, trong sách giáo khoa Lịch sử 8 (trang 148), sau khi dạy xong
mục này, giáo viên sử dụng lược đồ phóng to treo lên bảng : Hành trình tìm đường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến năm 1917, yêu cầu học sinh lên
bảng xác định các vị trí địa danh các nước và gắn liền với các mốc thời gian mà
Nguyễn Tất Thành đã đi qua và đến vào thời gian nào từ năm 1911 đến năm 1917,
sau đó giáo viên xác định lại các nội dung đó trên bản đồ
Việc sử dụng lược đồ như vậy sẽ giúp học sinh có biểu tượng đúng đắn về
hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử của Nguyễn Tất Thành hoạt động
trong chặng đường ra đi tìm đường cứu nước thời kỳ đầu.
Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu thực tế đã
đạt được những kết quả cao, hầu hết các em đã chăm chú tìm hiểu số liệu, thời gian
các sự kiện, lắng nghe, dể hiểu và nắm được bài ngay trên lớp. Không những thế
còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử, khắc sâu kiến thức lịch sử, có thái độ căm
phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của thực dân Pháp. Việc sử dụng bản
đồ, lược đồ giúp các em cụ thể hóa kiến thức, thấy rõ địa bàn hoạt động của nghĩa

quân và sự lãnh đạo tài tình của Hoàng Hoa Thám góp phần tạo nên những thắng
lợi vẻ vang
Một phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử không
thể thiếu là sử dụng niên biểu để hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự
thời gian, đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay
nhiều nước trong một thời kì. Có nhiều dạng niên biểu khác nhau, như:
Niên biểu tổng hợp: Ví dụ: Khi dạy bài 21 “Chiến tranh thế giới thứ hai
(1939 - 1945)” SGK lịch sử 8 giáo viên kết hợp sử dụng bản đồ: Chiến tranh thế
giới thứ II, Lược đồ Đức - Italia gây chiến và bành trướng (từ tháng 10/1935 đến
tháng 8/1939), Lược đồ Đức đánh chiếm Châu Âu (1939 - 1941), Lược đồ chiến
19
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
trường châu Á - Thái Bình Dương (1941 - 1945). Yêu cầu học sinh trình bày diễn
biến chiến tranh, giáo viên sẽ cùng học sinh lập niên biểu về quá trình xâm chiếm
Châu Âu của phát xít Đức (từ 9/1939 đến 6/1941), sau đó đưa ra mẫu niên biểu.
Tiếp đó giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các nhóm quan sát lược đồ "Quân
Đức đánh chiếm Châu Âu" (1939 - 1941), HS theo dõi SGK để hoàn thành câu hỏi
được giao và thảo luận nhóm, tự điền vào bảng thống kê nội dung được phân công,
cử một đại diện trình bày trước lớp. Giáo viên đưa ra thông tin phản hồi bằng cách
treo lên bảng, một bảng thống kê đã chuẩn bị sẳn theo mẫu trên để HS so sánh.
Bảng thống kê diễn biến giai đoạn đầu của chiến tranh thế giới thứ hai
(từ tháng 9/1939 đến đầu năm 1943)
Thời gian
1/9/1939 -> 29/9/1939


Chiến sự

Kết quả

Đức tấn công Ba Lan.

Ba Lan bị Đức thôn tính.

Đức tấn công các nước - Đan Mạch, Nauy, Bỉ, Hà
Từ tháng 4/1940 đến
Bắc Âu và đánh thẳng Lan,... bị Đức thôn tính, Pháp
tháng 9/1940
vào Pháp.
đầu hàng Đức.
- Rumani, Hunggari, Bungari,
Từ tháng 10/1940 đến Đức tấn công các nước
Nam Tư, Hi Lạp bị Đức thôn
tháng 6/1941
Đông và Nam Âu.
tính.
9/1940

Chiến tranh lan rộng khắp thế
giới

9/1940

Ví dụ: Khi dạy bài 23: Ôn tập lịch sử thế giới hiện đại (từ năm 1917 đến năm
1945), sách giáo khoa Lịch sử 8.
Giáo viên kẻ bảng thống kê theo mẫu như sách giáo khoa lên bảng, chia lớp

thành 4 nhóm để học sinh trao đổi “Thống kê những sự kiện lịch sử cơ bản về nước
Nga và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô 1917-1945”. Giáo viên gọi
đại diện các nhóm trình bày, nhóm khác đóng góp ý kiến. Giáo viên nhận xét phần
trả lời của mỗi nhóm và đưa ra ý kiến phản hồi bằng cách treo bảng thống kê những
20
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
sự kiện lịch sử cơ bản về nước Nga trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô (1917 – 1945) lên bảng, học sinh quan sát.
Niên đại
2-1917

Sự kiện

Diễn biến chính

Kết quả, ý nghĩa

Cách mạng - Tổng bãi công chính trị ở Pê- - Lật đổ chế độ Nga
dân chủ tư tơ-rô-grát.
Hoàng
sản
- Khởi nghĩa vũ trang
- Hai chính quyền
song song tồn tại
- Nga Hoàng bị lật đổ

- CM dân chủ tư sản
kiểu mới

11-1917

Cách mạng
xã hội chủ
nghĩa

- Chiếm các vị trí then chốt ở - Thành lập chính
thủ đô.
quyền Xô Viết do Lê- Chiếm cung điện Mùa Đông nin đứng đầu.
- Toàn bộ chính phủ lâm thời - Đưa giai cấp công
tư sản bị bắt (trừ thủ tướng nhân và nhân dân lao
động Nga lên làm chủ.
Kerenxki)
- Cổ vũ phong trào
cách mạng thế giới
theo con đường cách
mạng vô sản.

19181920

Chống thù
trong giặc
ngoài

- Quân đội 14 nước đế quốc - Đẩy lùi cuộc tấn
cấu kết với bọn phản động công của kẻ thù.
trong nước mở cuộc tấn công

vũ trang vào nước Nga Xô
- Nhà nước Xô viết
Viết.
được bảo vệ và giữ
- Thực hiện chính sách cộng vững.
sản thời chiến.

1921-

Chính sách

- Trong nông nghiệp thay thế - Hoàn thành công
21

Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
1925

kinh tế mới
và công
cuộc khôi
phục kinh tế

chế độ trưng thu lương thực cuộc khôi phục kinh
thừa bằng thu thuế lương thực. tế.
- Trong công nghiệp, tập trung - Phục vụ cho công

khôi phục công nghiệp nặng.
cuộc xây dựng chủ
- Trong thương nghiệp: Tự do nghĩa xã hội ở một số
buôn bán, phát hành đồng Rúp nước hiện nay.

12-1922

Liên bang - Gồm 4 nước Cộng hoà Xô
cộng hoà xã viết đầu tiên là Nga, Ucraina,
hội
chủ Blorutxia và ngoại Cápcadơ.
nghĩa

Viết thành
lập

- Tăng cường sức
mạnh về mọi mặt để
xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.

19251941

Liên Xô xây - Thực hiện kế hoạch 5 năm - Đưa Liên Xô từ một
dựng
chủ lần I (1928-1932). Kế hoạch 5 nước nông nghiệp lạc
nghĩa xã hội năm lần thứ hai (1933-1937)
hậu thành một nước
- Kế hoạch 5 năm lần 3 (1937) công nghiệp xã hội
bị gián đoạn do phát xít Đức chủ nghĩa, có nền văn

hoá, khoa học kỹ thuật
tấn công 6-1941.
tiên tiến và vị thế quan
trọng trên trường quốc
tế.

19411945

Chiến tranh - Giải phóng Liên Xô và các
vệ quốc vĩ nước trung và Đông âu.
đại
- Tiêu diệt Đức ở Beclin, tấn
công quân Nhật ở Mãn châu.

- Là lực lượng trụ cột
góp phần quyết định
việc tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít.
- Bảo vệ vững chắc tổ
quốc xã hội chủ nghĩa,
tiếp tục xây dựng chủ

22
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
nghĩa xã hội.

Khi tiến hành bài tổng kết: Giáo viên dựa vào niên biểu để dạy, yêu cầu học
sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa những điều
chưa chính xác trong niên biểu của các em.
Niên biểu chuyên đề. Ví dụ: Khi dạy bài 2 “Cách mạng tư sản Pháp (1789 1794)”, để giúp học sinh thấy rõ hưởng phát triển đi lên của cách mạng, vai trò của
quần chúng nhân dân và sự ngả dần về phía phản cách mạng của giai cấp tư sản,
giáo viên có thể kẻ bảng thống kê lên bảng, chia lớp thành 4 nhóm để học sinh trao
đổi “Thống kê các giai đoạn, tầng lớp nắm chính quyền, những sự kiện quan trọng
của cách mạng tư sản Pháp 1789 - 1794”. Giáo viên gọi đại diện các nhóm trình
bày, nhóm khác đóng góp ý kiến. GV nhận xét phần trả lời của mỗi nhóm và đưa
ra ý kiến phản hồi bằng cách treo bảng thống kê những sự kiện lịch sử cơ bản về
các giai đoạn, tầng lớp nắm chính quyền, những sự kiện quan trọng của cách mạng
tư sản Pháp 1789 – 1794 lên bảng, học sinh quan sát.
Các giai đoạn

Tầng lớp nắm chính
quyền

Những sự kiện quan trọng

Từ
14/7/1789 Đại tư sản tài chính thiết Khởi nghĩa của nhân dân Pa-ri; phá
đến 10/8/1792
lập nền quân chủ lập ngục Baxti, lật đổ chế độ quân chủ
chuyên chế. Tháng 8 – 1789 thông
Cách mạng bùng hiến
qua Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
nổ và phát triển
quyền. Cách mạng lan rộng khắp cả
nước.
Từ

10/8/1792 Tư sản công thương - Khởi nghĩa của nhân dân Pa-ri; nền
đến
2/6/1793. nghiệp lập chế độ cộng quân chủ lập hiến bị lật đổ, thiết lập
Cách mạng tiếp hoà.
nền cộng hoà.
tục phát triển
- Lui XVI bị tử hình. Chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ cách mạng.
Từ 2/6/1793 đến Tầng lớp tư sản cách Nhân dân Pa-ri khởi nghĩa lật đổ
23
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
27/7/1794. Đỉnh mạng thiết lập chuyên phái Girôngđanh. Xoá bỏ mọi đặc
cao của cách chính
dân
chủ quyền của bọn phong kiến. Đẩy lùi
mạng
Giacôbanh
được nạn ngoại xâm.
Từ
17/7/1794 Tư sản mới giàu lênđến 9/11/1799. trong cách mạng. Thiết
Thoái trào cách lập chế độ Đốc chính mạng
-

Đảo chính phản cách mạng, phái
Giacôbanh bị lật đổ.

Từ 1795 – 1799, chế độ Đốc chính.
Đảo chính của Napôlêông; chế độ
độc tài quân sự được thiết lập.

Niên biểu so sánh:
Ví dụ: Khi dạy bài 6 sách giáo khoa Lịch sử 8 “Các nước Anh, Pháp, Đức,
Mĩ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập bảng so
sánh về vị trí của các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ trong sản xuất công nghiệp ở hai
thời điểm: 1870 và 1913, như sau:
Vị trí/năm

Thứ nhất

Thứ hai

Thứ ba

Thứ tư

1870

Anh

Pháp

Đức



1913




Đức

Anh

Pháp

Cách làm như vậy, sau khi học sinh lập bảng so sánh sẽ giúp các em so sánh
được tốc độ phát triển của các nước này qua hai thời kì vào năm 1870 và năm 1913,
đồng thời rút ra quy luật về sự phát triển không đồng đều của các nước đế quốc, về
việc nảy sinh mâu thuẫn giữa chúng.
Bên cạnh việc sử dụng đồ dùng dạy học là sử dụng bản đồ, lược đồ, lập niên
biểu, việc sử dụng sơ đồ vào dạy học lịch sử cũng góp phần quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Thông qua việc giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ
sơ đồ vào dạy lịch sử sẽ cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng những mô hình, hình học
đơn giản, diễn tả tổ chức cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các
sự kiện lịch sử...
24
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh

Năm học :2015 -2016


Đề tài: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8.
Ví dụ: Khi dạy bài 2. “Cách mạng tư sản Pháp”, trong sách giáo khoa Lịch
sử 8 để giúp học sinh nắm rõ được đặc điểm của nước Pháp về chính trị, xã hội
trước cách mạng, giáo viên có thể hướng dẫn các em vẽ sơ đồ 3 đẳng cấp ở Pháp,
vị trí, quyền lợi của các đẳng cấp này trong xã hội Pháp trước cách mạng:


Đẳng cấp tăng lữ
Đẳng cấp quý tộc

( Có mọi quyền lợi, không phải đóng thuế )
Đẳng cấp thứ ba

Nông dân

Tư sản

Các tầng lớp nhân dân

(Không có quyền gì; phải đóng thuế và làm nghĩa vụ với nhà nước)

Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu, sơ đồ... trong quá trình
giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi gây được sự chú ý tập trung của học sinh,
phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như việc khái quát, tổng kết kiến thức lịch
sử của học sinh. Chính vì thế trong các giờ dạy lịch sử nếu có điều kiện cho phép
giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng trực quan này.
4.4. Đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự làm, hoặc tự sưu tầm:
Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa đã phong phú hơn trước. Song do
hạn chế về số trang nên các bản đồ, lược đồ, niên biểu, tranh ảnh minh họa thì lại
thiếu hẳn đôi lúc không có. Chính vì lẽ đó để khắc phục tồn tại này trong quá trình
giảng dạy giáo viên và học sinh cần phải sưu tầm, bổ sung nhằm tăng tính hình ảnh,
tính cụ thể cho các sự kiện trong sách giáo khoa, giúp cho việc tiếp thu kiến thức
của các em có hiệu quả. Đối với những bài học nào cần có bản đồ mà sách giáo
25
Người thực hiện: Lương Ngọc Cảnh


Năm học :2015 -2016


×