Nobel văn chương năm 1987
JOSEPH BRODSKY
(24.5.1940 - 28.1.1996)
(Joseph & Maria Brodsky–1992)
Joseph
Brodsky (tên tiếng Anh; tên gọi theo tiếng Nga là Iosif
Alecxandrovitr Brodski - Иосиф Александрович Бродский) là một hiện tượng hiếm
có của nền văn học thế kỉ XX, viết thơ, văn xuôi, kịch, tiểu luận, dịch thuật, sáng tác
bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh, từng được vinh danh là “nhà thơ tổng kết nền thơ
nhân loại”, mặc dù thời trẻ chưa học hết phổ thông trung học nhưng qua các nẻo
đường đời say mê và nỗ lực tự học, tự nghiên cứu, ông đã có một vốn hiểu biết văn
hóa và nghệ thuật vô cùng sâu sắc, được coi là một trong những nhà thơ trí tuệ
nhất thời đại của mình. J. Brodsky được tặng giải Nobel nhờ sự sáng tạo mang tính
khái quát cao được nuôi dưỡng bằng những ý tưởng rõ ràng và một niềm đam mê
mãnh liệt đối với thơ ca.
J. Brodsky sinh ngày 24-5-1940 trong một gia đình trí thức bậc trung gốc Do Thái
tại thành phố Leningrad (Ленинград), nay là Sant Peterburg (Сант-Петербург). Bố
ông tốt nghiệp đại học khoa địa lí và trường báo chí, trong chiến tranh là phóng viên
nhiếp ảnh mặt trận, sau chiến tranh giải ngũ và làm cộng tác viên cho các tờ báo;
còn mẹ ông suốt đời làm nghề kế toán.
Từ nhỏ J. Brodsky ước mơ trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi, đang học lớp 8, ông đã
phải nghỉ học để đi làm rất nhiều nghề kiếm sống: thợ phay, nhân viên nhà xác,
giúp việc các đoàn địa chất, thợ đốt lò, gác hải đăng... Dù vậy, ông vẫn dành nhiều
thời gian để tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan; nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo và
triết học. Năm 16 tuổi, J. Brodsky đã bắt đầu làm thơ; 17 tuổi ông hoàn thành một
trong những bài thơ nổi tiếng của mình - Vĩnh biệt, hãy quên và đừng trách móc...
20 tuổi, ông đã được các nhà thơ lớn công nhận tài năng và được các nhóm văn
chương ở Moscva, Leningrad biết đến với tư cách là một nhà thơ và một dịch giả tài
năng. Song ngay ở thời điểm đó, nữ thi sĩ Anna Akhmatova đã tiên đoán: J. Brodsky
sẽ có một số phận vinh quang và một cuộc sống nặng nề. Rời nhà trường năm 15
tuổi, làm nhiều nghề lặt vặt để nuôi thân. Trong thời gian này, ông tự học tiếng Anh
và tiếng Ba-lan và bắt đầu làm thơ. Năm 1964, ông bị một tòa án ở Leningrad kết
án đày 5 năm vì tội danh: «ký sinh trùng xã hội». Ông rời Liên Sô vào năm 1972
sau khi đã sống trải 18 tháng trong một trại lao động ở miền bắc nước Nga. Từ đấy,
Joseph Brodsky cư ngụ tại Hoa-kỳ.
Là người có tính cách độc lập, trong thơ thể hiện tinh thần yêu tự do, đề cao các giá
trị tâm linh (trong Kinh Thánh), nên J. Brodsky sớm bị chính quyền để ý, mặc dù
trong hoạt động và sáng tác của ông không hề có biểu hiện của cái gọi là “chống
1
chế độ Xô viết”. Năm 1963, từ một bài viết đăng trên báo Leningrad buổi chiều, J.
Brodsky bị kết tội "ăn bám xã hội" và bị buộc cải tạo 5 năm tại vùng Arkhangelsk
(miền Bắc nước Nga). Tuy nhiên, nhờ sự phản đối kịch liệt của các nhà văn trong và
ngoài nước, trong đó đặc biệt tích cực là A. Akhmatova, S. Marsac, D. Sostakovitr, J.
P. Sartre, ông đã được trở về Leningrad vào tháng 11 năm 1965. Tại đây, hai năm
sau, ông đã sáng tác bốn trường ca, nhưng phần lớn các tác phẩm của ông đều phải
gửi ra nước ngoài in thành hai tập: Thơ và trường ca (1965) và Trạm dừng trong sa
mạc (1970). Trong thời gian lưu đày, ông tập trung nghiên cứu văn học thế giới, đặc
biệt là thơ ca tiếng Anh trong nguyên bản. Trở lại với tự do, ông sống chủ yếu bằng
công việc dịch thuật và sự giúp đỡ của bạn bè.
Đầu những năm 1970, tình trạng của J. Brodsky ở nước Nga càng thêm căng thẳng.
Ông không muốn rời khỏi tổ quốc (trong thư gửi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô
L. Breznev, ông viết : “Trong máu thịt hoặc trên trang giấy:...thậm chí nếu như
thân xác tôi không cần cho nhân dân tôi, thì tâm hồn tôi vẫn còn có ích cho nhân
dân tôi”).
Tuy nhiên, giữa năm 1972 ông đã bị trục xuất khỏi nước Nga, phải sang Vienna,
London và cuối cùng tới Hoa Kỳ. Ở đây ông viết thơ, văn xuôi bằng hai thứ tiếng,
xuất bản nhiều tác phẩm mới, trong đó có tuyển tập thơ của ông được dịch sang
tiếng Anh (Thơ tuyển - Selected Poems; Từ loại. Thơ những năm 1972-76; Những
bài tứ tuyệt mới gửi Augusta, v.v... ), đồng thời làm giáo sư thỉnh giảng cho một số
trường đại học và cao đẳng. Năm 1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn
học tại trường Cao đẳng Five College ở Mount Holyoke, bang Massachusetts. Dần
dần, J. Brodsky trở thành không chỉ là một nhân vật sáng giá trong đội ngũ những
người Nga ở hải ngoại, mà nhờ những sáng tác bằng tiếng Anh, ông trở thành nhà
thơ nổi tiếng thế giới.
Năm 1978, Đại học Yale trao cho J. Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm
1979, ông trở thành thành viên của Viện Hàn lâm và Nghệ thuật - Văn chương Mỹ.
Năm 1981, ông được quỹ John D. và Catherine T. Mac Arthur trao tặng giải thưởng
cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn tiểu luận về nghệ thuật và chính trị
Nhỏ hơn một của ông được giải thưởng của Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia
(Mỹ). Năm 1987, ông nhận giải Nobel của Viện Hàn lâm Thụy Điển, tại đây ông đọc
một bài Diễn từ được đánh giá rất cao, với những nhận định, kiến giải sâu sắc và
thẳng thắn về thơ ca, nghệ thuật. Năm 1991 ông nhận giải thưởng của Thư viện
Quốc hội Mỹ. Tài năng và vinh quang của ông được cả thế giới thừa nhận, xuất hiện
rất nhiều công trình nghiên cứu đặc điểm sáng tác, thi pháp của J. Brodsky. ở nước
Nga cũng bắt đầu in sách của ông và tự hào về ông như một nhà thơ dân tộc Nga.
Năm 1990 J. Brodsky được khôi phục quốc tịch Nga.
Năm 1978 J. Brodsky lên bàn mổ tim lần đầu tiên, và sau đó ông còn phải phẫu
thuật hai lần nữa, sức khỏe yếu dần, tuy nhiên ông vẫn làm việc rất nhiều. J.
Brodsky mất tại New York năm 1996, khi chưa tròn 56 tuổi, đang tràn trề những dự
định sáng tạo, để lại người vợ trẻ, một con gái nhỏ và một con trai lớn (ở Nga).
Theo nguyện vọng của J. Brodsky trong di chúc, ông được mai táng ở Venice, Italia,
trên mộ chỉ đặt một cây thánh giá trắng giản dị ghi tên họ, dòng thủ bút của ông
cùng hình vẽ bông hồng nhỏ nằm nghiêng - không ngày tháng, không danh hiệu,
công lao...
Năm 2005, gần 10 năm sau khi qua đời, một bức tượng của J.Brodsky đã được dựng
tại sân trước khoa Ngữ văn, trường ĐH Tổng hợp Sant Peterburg, quê hương ông
2
* Tác phẩm:
- Vĩnh biệt, hãy quên, và đừng trách móc... (Прощай, позабудь и не обессудь,
1957), thơ.
- Khúc bi ca lớn gửi Donne John (Большая элегия Джону Донну, 1963), thơ
- Thơ và trường ca (Стихотворения и поэмы, 1965), thơ.
- Trạm dừng trong sa mạc (Остановка в пустыне, 1970), thơ.
- Thi tuyển (Selected poems, 1973), tuyển tập thơ.
- Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm 1964-71 (Конец прекрасной эпохи.
Стихотворения 1964-71, 1977), thơ.
- Từ loại (1). Thơ những năm 1972-1976 (Часть речи. Стихотворения 1972-1976,
1980), thơ và bài viết [A part of speech].
- Khúc bi ca La Mã (Римские элегии, 1982), thơ.
- Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta (Новые стансы к Августе, 1983), thơ.
- Сẩm thạch (Мрамор, 1984), kịch [Marbles].
- Nhỏ hơn một (Меньше одиницы, 1986), tiểu luận [Less than one].
- Lịch sử thế kỉ hai mươi (History of the twentieth century, 1986), thơ.
- Urania (Урания, 1988), thơ [To Urania].
- Bút kí dương xỉ (Заметки папоротника, 1990).
- Trên các nẻo Atlantida (На околицах Атлантиды, 1992).
- Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa (Набережная неисцелимых, 1992),
thơ.
- Hoa văn mờ trên giấy (Watermark, 1992), tiểu luận.
- Nỗi đau và lí trí (Скорбь и разум, 1995), tiểu luận [On grief and reason].
- Miền đất không bằng phẳng (Пересеченная местность, 1995), thơ.
* Một số tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Các bài thơ: Khúc thơ; Tôi sẽ dựng lên tượng đài khác cho tôi; Ngựa ô; Tình yêu;
Tôi giậm chân lâu chưa, nhìn gót giày thì rõ; Odyssey gửi pháp thuật gia TV, Hồng
Thanh Quang dịch, in trong tập Một góc thơ Nga, NXB Văn học - Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
- Các bài thơ: Những câu thơ về một đề từ, Tưởng niệm Fedia Dobrovolski, Vĩnh
biệt, Ta sẽ không đạt đến, Đề tặng Gleb Gorbovski, Nghĩa địa Do Thái, Sách, Đồi,
Chúng ta không điếc hơn, Ngôn từ, Trái đất, Những trận đánh không dứt, Người
nghệ sĩ, Odysseus nói với Telemachus, Những nhạc sĩ mù, Gửi Anna Akhmatova,
Những người giác đấu, Những người hành hương, Định nghĩa thơ, Một bài ca, Con
ngựa đen, Sáu năm sau, Tĩnh vật, in trong tập Tĩnh vật và các bài thơ khác, Hoàng
Ngọc Biên tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa - Huế, 1991.
- Các bài thơ: Một phần tiếng nói, Nghiêm Huyền Vũ dịch, Nghĩa địa Do Thái, Hoàng
Ngọc Biên dịch, Mây bay qua, Thuý Toàn dịch, Con ngựa đen, Hoàng Ngọc Biên dịch,
in trong tập Tuyết trắng, tuyết trắng rơi - Tuyển thơ Nga Thế kỷ XX, NXB Kim Đồng
- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
- Bài thơ Chân lý, Hồng Cương dịch, Một trăm năm Anna Akhmatova, Sone Thanh
Thảo dịch, đăng rải rác trên báo, internet.
3
MỤC LỤC
Định nghĩa thơ
Xuân đến
Những chiếc xe bò
Gửi Anna Akhmatova
Những người hành hương
Mây bay qua
Tĩnh vật
25. XII. 1993
Anno Domini[1]
Ba bài trong TỪ LOẠI
Ba bài khác trong TỪ LOẠI
Bốn bài trong TỪ LOẠI
Bài ca tháng Mười
Blues
Ba đoản khúc
Có những thành phố…
LM
Ngọn lửa run run…
Đoản khúc
Bài ca giới nghiêm
Bài ca cho Bosnie
Bài ca Giới Nghiêm (một bản dịch khác)
Khúc Bosnia** (bản dịch khác của " Bài ca cho Bosnie")
Khúc Bosnia*** (bản dịch khác của "Bài ca cho Bosnie")
Khu vườn
Kỷ niệm
Bài ca của Fedia Dobrovolski
Con ngựa đen
Đồi
Trái đất
T ình Yêu (4 bản dịch)
Đứng sững trước cánh cửa đêm
Em yêu, đêm nay...
Bi ca
Tiêu chí
4
Vô đề
Hoạ sĩ
Động từ
Người nghệ sĩ (1 bản dịch khác của "Hoạ sĩ")
Ngôn từ (1 bản dịch khác của "Động từ")
Lửa run rẩy trong bóng đêm...
Anh sẽ rong ruổi trong hoàng hôn
Một đêm mùa thu...
Những người giác đấu
Những câu thơ về một đề từ
NHỮNG LÁ THƯ TRIỀU MINH
CHỈ CÓ TRO MỚI BIẾT...
Những trận đánh không dứt
Ở khu Hồ
Giai điệu Belfast
Odysseus nói với Telemachus
Tượng đài
Cuốn sách
Tượng đài cho Pouchkine
Những nhạc sĩ mù
Tưởng niệm Fedia Dobrovolski
Đề tặng Gleb Gorbovski
Đề tặng Yalta
Ta đây như Ulysse
Tại sao còn đi nữa?
Khu vườn
Chúng ta không điếc hơn
Ta sẽ không đạt đến...
Một bài ca
Sáu năm sau
Bài ca của Fedia Dobrovolski
Ở khu Hồ
Nghĩa địa Do thái
Vĩnh biệt
5
Định nghĩa thơ
Tưởng nhớ Fédérico Garcia Lorca.
Huyền thoại kể lại rằng trước khi bị xử bắn ông nhìn
thấy mặt trời đang lên phía trên đầu những người
lính và bấy giờ ông nói:
- Thế tuy nhiên mặt trời vẫn mọc...
Đó có lẽ là khởi đầu của một bài thơ mới
Nhìn lại một lúc cảnh vật
sau những cánh cửa sổ nơi cúi nhìn xuống
những người vợ chúng ta,
những đồng loại chúng ta,
những nhà thơ.
Nhìn lại cảnh vật
sau những phần mộ bạn bè chúng ta
và tuyết chầm chậm bay
khi tình yêu thách thức chúng ta.
Nhìn lại
những thác mưa hỗn loạn bò tràn
trên những cửa kính và làm rối loạn mọi nhịp,
chữ nghĩa áp đặt nhiệm vụ cho chúng ta.
Nhìn lại
trên mặt đất thiếu ân cần
cây thập giá vươn dài những cánh tay cuối cùng
căng cứng.
Một đêm trăng
nhìn lại cái bóng dài
in dáng cây cối và con người.
Một đêm trăng
nhìn lại những con sóng nặng trên sông
lấp lánh như những chiếc quần
đã cũ.
Thế rồi bình minh tới
Nhìn một lần nữa con đường trăng
chỗ hiện ra trung đội hành quyết,
Nhìn lại sau cùng
mặt trời lên giữa những cái gáy xa lạ
của những người lính.
***
6
Vĩnh biệt
Vĩnh biệt,
Hãy quên tôi,
Hãy tha lỗi cho tôi.
Hãy ném thư tôi vào lửa
như người ta đốt mặt đất khi đã đi qua.
Con đường của ngươi hãy là con đường dũng cảm
thẳng tắp và giản đơn,
trong sương mù,
hãy cháy sáng cho ngươi
những ngôi sao tạp nhạp,
hi vọng hãy
sưởi nóng những bàn tay của ngươi
bằng ngọn lửa đốt chung vui.
Hãy đi tới trong bão tố
trong tuyết và trong mưa
trong lửa hừng hực cháy,
và hãy biết tìm thấy
thắng lợi
nhiều lần hơn ta.
Sức mạnh
những trận chiến
hãy gầm thét trong ngực ngươi.
Ta sung sướng cho những ai
ngày mai sẽ dấn thân
theo bước chân của ngươi.
--------------------"Những câu thơ về một đề từ" và "Vĩnh biệt" trích từ Tĩnh vật và những bài thơ khác, thơ
Joseph Brodsky do Hoàng Ngọc Biên tuyển dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa - Huế, 1991. Dịch
từ bản Pháp ngữ của Jean-Jacques Marie trong tập Collines et autres poèmes, Joseph
Brodsky, Éditions du Seuil, 1966.
***
Xuân đến
Cái kim nổi tiếng trong đống rơm nổi tiếng không kém,
trong hoàng hôn và trong ánh sáng giả của thành phố,
trong tiếng xôn xao, trong tiếng bập bềnh và rên rỉ của thành phố
bài ca mong manh của cái chết đi qua.
7
Ánh sáng phía trên những con đường
vẽ trước mắt ta thành phố cúi mình trên sông
và tiếng còi ngắn ngân vang sát những mặt tiền chật hẹp
bay lên hướng bầu trời và tự do.
Ký ức khoác chiếc áo ngắn lảng vảng khắp thành phố,
những đồng tiền reo trong tay, những chiếc lá vàng
quay như một trận mưa đồng rúp, phía trên
các bích chương những chiếc máy bay hẹp bay lên trời
như những con chim cúi mình trên những chiếc tàu sắt.
Mưa dày đặc những đại lộ rơi trên tháng ba
như vào những ngày trở về người ta không quên được.
Anh ra đi một mình trên mặt nhựa đường và chạy bay về phía anh
là những chiếc ô tô lấp lánh. Ánh sáng đi qua
trên vịnh và đi qua còn cả cuộc sống có ngàn tên gọi,
chiếc áo khoác ngoài của nó thì thầm, những gót chân kêu vang
và anh ở lại với quần chúng ấy
với thành phố ấy
với thế kỷ ấy,
mặt đối mặt, lẻ loi như một đứa trẻ.
Ký ức khoác chiếc áo ngắn lảng vảng khắp thành phố, mùa xuân
đến, mưa rơi, ôm chặt chiếc khăn quàng của mình, mắt dán vào các cửa kính
ký ức khoác chiếc áo ngắn nhìn những bộ áo quần của thế kỷ
và cái hoa văn muôn thuở ấy lên tiếng rít khi đi qua đời sống.
***
Những chiếc xe bò
Tiếng nghiến của những chiếc xe bò
rời bỏ những đồng rạ hoang dã
choán hết bóng tối đang lên
và bay đến tận chân trời.
Từ lối mòn này qua đến lối mòn kia
những chiếc xe xé rách cả cổ họng
để đi qua tán lá um tùm
và đến tận những đồng cỏ xa.
Đỉnh những cây trăn trụi lá
và ngọn những cây phong vàng úa
8
thôi rùng mình
khi những bó cỏ buộc chặt
dựng đứng thẳng lên trời.
Những gốc nằm ngang đường
và những cây tai không lọt nổi tiếng chim
chỉ còn nghe mỗi tiếng nghiến
của những tăm bánh gỗ và lời chửi rủa của những người
đánh xe bò.
------------------Hai bài thơ trên từng xuất hiện trong Joseph Brodsky, Tĩnh vật và những bài thơ khác (Huế:
Nxb. Thuận Hóa, 1991) — Hoàng Ngọc Biên dịch từ bản Pháp ngữ của Jean-Jacques Marie
trong Joseph Brodsky, Collines et autres poèmes (Paris: Éditions du Seuil, 1966).
***
Gửi Anna Akhmatova
Nghển cổ lên trời những con gà trống sẽ gáy,
qua những đại lộ sẽ rào rạc tiếng nghiến của giày ủng,
những con ngựa màu ngọc bích sẽ lấp lánh
vào chính giờ chết của chúng ta.
Cây sáo thần sẽ thổi lên qua những phố hẹp,
súng ngắn sẽ nổ ra những tiếng cười
trên sông đào gần những cửa kính rung rung,
căn phòng sẽ tràn ngập ánh sáng,
Và sẽ bước giẫn qua những bụi cây
là những người lính vô hình của mùa hè nóng cháy,
dọc theo những lối đi cỏ cắt sát đất
như bóng những con tàu hìng quả trứng.
Như thế sẽ tiến lên thế kỷ vàng hai mươi mốt
trên con đường mòn chói chang nắng đỏ
lật đổ vũ trụ trong sương mù
để trả lời những câu hỏi và những câu nguyền rủa.
Nhưng trên quảng trường kiến nghị trước khi đêm tới
bà sẽ đến không có ai theo, một mình,
trùm một chiếc áo choàng xanh, như ngày xưa,
muôn đời không có nịnh thần,
không có chúng ta.
9
Bà chỉ có trong tay một cái loa nhỏ bằng giấy
một chiếc taxi cuống cuồng theo dõi bà từ xa,
nước rùng mình và ngời sáng hai bên người bà,
trên mặt nhựa đường lủng lẳng những dây điện thoại.
Bà sẽ ngẩng khuôn mặt sáng lạn của bà lên
tiếng cười của bà vang như một tiếng khóc vĩnh biệt
và trên chiếc cầu còn hơi ấm một tiếng thì thầm âm ỉ,
phù du sẽ làm đảo lộn cả thành phố.
Tôi chưa nhìn thấy, tôi sẽ không nhìn thấy nước mắt bà,
sẽ không nghe thấy tiếng bánh xe lăn lao xao
đưa bà về phía vịnh và những hàng cây
qua khắp đất nước không có được một bức tượng của bà.
Trong một căn phòng hẹp và không có sách,
không có nịnh thần – họ không đến với bà được nữa –
hai thái dương bà nằm giữa hai lòng bàn tay,
về chúng tôi và sẽ viết theo đường vòng.
Và bấy giờ bà sẽ nói: Chúa ôi, trời ơi,
khoảng không trống vắng ấy nay chỉ còn là xác thịt
của những linh hồn bị thiên hướng của mình phản bội.
Chẳng phải là Sáng tạo mới của người.
***
Những người hành hương
Trước sân vận động và đền miếu,
trước nhà thờ và quán rượu,
trước những nghĩa địa phong lưu
trước những dãy chợ lớn,
trước sự bất hạnh và sự thanh thản,
trước Rome và trước La Mecque,
cháy bỏng dưới nắng xanh mặt trời,
họ đi khắp cùng thế giới
những người hành hương.
10
Họ là những người què cụt, lưng gù,
là những người đói khát, rách rưới,
trong đôi mắt hoàng hôn say ngủ,
trong trái tim lạc lõng buổi bình minh.
Phía sau họ những sa mạc ca hát,
và những ánh chớp lóe sáng,
dưới bước chân họ những ngôi sao thức dậy,
và chim chóc thét vào tai họ
rằng thế giới sẽ không thay đổi.
Không. Nó sẽ không thay đổi.
Tuyết sáng rỡ
dịu dàng mà vô định,
thế giới sẽ không ngừng nói dối,
bất động trong vĩnh cửu của mình
dễ hiểu có lẽ
nhưng tuyệt đối vô hạn.
Vậy thì tại sao tin ở mình?
Tại sao tin ở Thượng đế?
Chúng ta chỉ còn mỗi
phiêu lưu và ảo tưởng.
Và những hoàng hôn nổi lên mặt đất,
và những bình minh đăng quang mặt đất.
Mặt đất được tưới bằng máu của người lính,
kích động bỏi tiếng thét của nhà thơ.
***
Mây bay qua
Anh có nghe, anh có nghe trong khoảng rừng chồi tiếng hát trẻ em,
những tiếng hát bốc lên trên những chòm cây bạc
tản lạc trong đêm tối, chầm chậm tắt
hòa lẫn với bầu trời mà đêm đang xóa đi.
Những dòng mưa lấp lánh quấn quít những mình cây
và rì rào trong lặng lẽ trên vùng cỏ trắng,
anh có nghe những tiếng hát của chúng, anh có thấy những mái tóc
của chúng cài những chiếc lược đỏ,
và những lòng bàn tay chúng mở ngửa, hướng về những chùm lá ướt?
11
«Mây bay qua, mây bay qua rồi tan rã.»
Lũ trẻ hát như thế và những cành đen thì thầm,
những tiếng hát hốt hoảng bay đi, giữa những mình cây
âm u, bay về hướng đêm đang lại gần, những tiếng hát không trở lại.
Những chiếc lá ẩm ướt bay theo gió, vọt lên
từ những bụi rậm, bỏ trốn, như một tiếng gọi đến từ mùa Thu xa.
Từ bụm cỏ tới những chỏm cao thế giới chỉ còn là
tiếng hát nhịp nhàng, run rẩy.
Khi mây qua, sự sống cũng qua và bay đi.
Chúng ta mang trong mình cái chết của chúng ta, như những đám mây
phồng lên những tiếng hát và tình yêu giữa những cành đen.
«Mây bay qua...» lũ trẻ ngợi ca thế giới.
Anh có nghe, anh có nghe trong khoảng rừng chồi tiếng hát trẻ em?
Những dòng mưa lấp lánh quấn quít, những tiếng hát vang vang,
những tiếng hát chóng qua bên những gò đống hẹp hòi nơi những
bóng tối mới
tràn ngập những khoảng trời hấp hối.
Trên những rừng chồi bay đi những đám mây, bay đi những đám mây.
Ở đâu đó nước rịn thoát, chỉ cần hát và khóc
dọc theo những hàng rào của mùa Thu,
chỉ cần nhìn lên cao mãi, chỉ cần nức nở không cùng,
chỉ cần là một đứa trẻ của đêm tối,
chỉ cần nhìn lên cao mãi, chỉ cần hát và khóc,
chỉ cần không biết tới nước mắt.
Ở đâu đó nước rịn thoát dọc theo những hàng rào của mùa Thu
và hàng cây âm u,
tiếng kêu trong những vùng tăm tối mới, chỉ cần hát và khóc
chỉ cần xếp lại chùm lá.
Bên trên chúng ta, một chiếc bóng lướt qua và tan rã,
chỉ cần hát và khóc, chỉ cần
sống.
(DC)
***
12
Tĩnh vật
Verrà la morte e avrà i tuoi occhi
Cesare Pavese
1
Con người và sự vật đầy dẫy quanh ta
Ta có thể đau đến xé mắt
vì con người vì sự vật.
Tốt hơn vẫn là sống trong bóng tối.
Ta ngồi trên một chiếc băng gỗ
nhìn người qua lại –
có khi là nguyên những gia đình.
Ta chán ngấy ánh sáng.
Đây là tháng đông.
Tháng đầu trên tờ lịch.
Ta sẽ bắt đầu lên tiếng
khi ta chán ngấy bóng đêm.
2
Đã tới lúc. Ta sẽ bắt đầu đây.
Bắt đầu từ đâu cũng thế thôi.
Mở miệng. Ta có thể câm nín,
nhưng lên tiếng vẫn hơn.
Vậy thì ta sẽ nói gì đây?
Ta sẽ nói về hư không?
Ta sẽ nói về ngày, hay về đêm?
Hay về con người? Không, chỉ nói về sự vật,
bởi lẽ con người chắc chắn có ngày sẽ chết.
Ai nấy sẽ chết. Ta cũng thế.
Lên tiếng cũng chẳng làm được gì.
Chỉ như viết chữ lên vách gió.
3
Máu ta rất lạnh –
cái lạnh cắt da hơn cả
13
những con suối băng đến tận đáy.
Ta chẳng ưa thích gì con người.
Ta ghét dáng điệu của họ.
Bám chặt vào cây đời,
mỗi gương mặt trơ cứng
không dễ gì tách ra được.
Có cái gì nghĩ đến đã thấy ghê tởm
lộ ra trên từng gương mặt từng hình dáng.
Cái gì như là xu nịnh
với những kẻ hầu như chẳng biết là ai.
4
Sự vật dễ chịu hơn. Nhìn từ
bên ngoài chúng không thiện
không ác. Và bên trong chúng cũng
cho thấy chẳng tốt chẳng xấu.
Bên trong sự vật chỉ là mục nát.
Là bụi. Là sâu bọ đục khoét cây. Và
là cánh bướm khô mong manh. Mặt tường mỏng.
Chẳng thoải mái cho bàn tay.
Bụi. Khi ta bật đèn lên,
chẳng nhìn thấy gì ngoài bụi.
Đúng như thế cho dù sự vật
có bí ẩn đóng kín.
5
Cái tủ xưa ấy –
bên ngoài cũng như bên trong –
lạ lùng thay làm ta nhớ đến
Nhà Thờ Đức Bà ở Paris.
Mọi thứ đều tối đen trong
ấy. Cán chổi hay dải lụa của vị giám mục
không sao đụng tới được bụi đời thường.
Còn chính sự vật, như một qui tắc,
14
chúng không tìm cách rửa sạch hay chế ngự
bụi từ bên trong mình.
Bụi là da thịt của thời gian.
Thời gian, ấy là thịt da và máu.
6
Gần đây ta thường ngủ
giữa ban ngày. Cái
chết của ta, giờ đây có vẻ như
đang thử thách và sát hạch ta,
đem gương soi đặt gần
đôi môi hãy còn hít thở của ta,
xem cho biết ta còn có thể chịu
nổi không hiện hữu giữa ánh sáng ngày.
Ta không cử động. Hai bên
sườn này lạnh như những khối băng.
Những đường tĩnh mạch hiện một màu xanh
trên nền da trắng màu đá hoa.
7
Gộp hết các góc cạnh của mình
để gây ngạc nhiên cho chúng ta,
sự vật thoát ra khỏi thế giới của
con người – một thế giới làm bằng chữ nghĩa.
Sự vật không chuyển động, hay đứng nguyên.
Đấy chỉ là sự mê sảng của chúng ta.
Mỗi sự vật là một không gian, bên ngoài
không gian ấy có thể chẳng có gì cả.
Một sự vật có thể bị ta đánh vỡ, đốt cháy,
có thể bị ta moi ruột, đập nát.
Vứt bỏ. Thế tuy nhiên sự vật
sẽ không bao giờ hét, “Ôi, mẹ kiếp!”
8
Cây cối. Bóng mát của nó, và
mặt đất, với những rễ bám đâm suốt.
15
Như những chữ kết tên đan vào nhau.
Đất sét và những dãy đá.
Rễ cây dệt chéo và pha lẫn vào nhau.
Đá tảng dùng khối nặng của riêng mình
thoát ra khỏi những chùm
gốc rễ chằng chịt.
Tảng đá kia nằm cố định. Ta không thể
dời chỗ nó, hoặc trục nó đi.
Bóng cây lá ập lên con người,
như một con cá nằm trong lưói.
9
Sự vật. Màu nâu của nó. Đường
viền mờ nhạt của nó. Buổi hoàng hôn.
Bấy giờ chẳng còn gì.
Chỉ còn một tĩnh vật.
Cái chết sẽ đến và sẽ tìm thấy
một thân người, sự an bình lặng lẽ
sẽ chiếu rọi cái chết đến gần
như gương mặt của người đàn bà.
Lưỡi hái, sọ người, xương –
cả một túi dối trá phi lý.
Đúng ra: “Khi cái chết tới,
nó sẽ móc chính đôi mắt của ngươi.”
10
Mary bấy giờ nói với Chúa Ki tô:
Ngươi có phải là con ta? – hay Thượng đế?
Ngươi bị đóng đinh trên cây thập giá.
Đường về nhà ta nay ở nơi đâu?
Làm sao có thể đi qua cổng nhà
khi ta còn chưa hiểu ra:
Ngươi đã chết? – hay còn sống?
Ngươi có phải là con ta? – hay Thượng đế?
16
Đến lượt Chúa Ki tô thưa:
“Dù chết hay sống,
thưa mẹ, thì cũng thế mà thôi –
là con hay là Thượng đế, con vẫn là con của mẹ.”
6.1971
-----------------------------------* "Verrà la morte e avrà i tuoi occhi": Khi cái chết tới, nó sẽ lấy đi đôi mắt của
ngươi.
Ghi chú: "Tĩnh vật" -- một trong những bài thơ quan trọng của Joseph Brodsky -đã được Simon Nabatov (nhạc sĩ Nga lưu vong, người có cuộc sống gần giống như
Brodsky) soạn thành nhạc phẩm "Nature Morte" dài 66 phút cho giọng nam,
clarinet, trombone và dương cầm. Nhạc phẩm đã được ghi vào đĩa Simon Nabatov
Quartet, "Nature Morte", LEO RECORDS CD LR310.
Phê bình gia Stuart Broomer viết về nhạc phẩm này như sau:
"Bản 'Nature Morte' của Simon Nabatov là một phép lạ của tài năng và kiến quan
nghệ thuật, một kết hợp hiếm có của những thành tố âm nhạc, trong đó ca từ, khúc
thức và sự ngẫu tác đã hỗ trợ cho nhau cực kỳ tinh tế..."
Riêng về bài thơ "Tĩnh vật", Stuart Broomer nhận định:
"Tĩnh vật" của Joseph Brodsky là một bài thơ căng thẳng khủng khiếp, một mộng
tưởng giữa tháng Giêng băng giá về đời sống và cái chết, thân xác và thời gian, sự
tiến hoá và sự thoái hoá, thượng đế và con người. Những đường cong của ý nghĩa -những đề tài của nó -- bao gồm hơi thở, cái kinh nghiệm nội tại của thân xác, sự
hiện diện bất khả biện biệt của tính cách thiêng liêng trong con người. Nó là bài thơ
của một thân phận lưu đày nhưng đã được viết trước khi chính nhà thơ bị lưu đày,
bài thơ của một người bị kết án "ăn bám xã hội" có lẽ chỉ vì người ấy có khả năng
đàm luận về những phương diện của cuộc nhân sinh ("Bụi là da thịt của thời gian")
hơn là chỉ biết đàm luận đơn thuần về chính trị, hay thậm chí đơn thuần về xã hội.
[...] Dù ngôn ngữ hình tượng của nó có điểm tương đồng với những bài thơ khác
của Brodsky, nó không phải là một bài thơ để đem ra phân tích, tháo gỡ, chú giải.
Các phần của nó đã sẵn phô bày hiển hiện, được chia thành những đoạn cân đối, và
sẽ sẵn sàng kết hợp lại thành một cấu trúc tổng thể trong quá trình đọc, trong chính
người đọc. Bài thơ tự nó làm nên ý tưởng. Hãy đọc nó nhiều lần và nó sẽ trở nên
minh bạch và hoàn hảo, tâm trí của người đọc sẽ đạt được điều này trong khi đọc.
Chúng ta không thể hỏi nó có ý nghĩa gì. Tự nó sẽ mang ý nghĩa đến cho chúng ta.
***
25. XII. 1993
Để có một phép lạ, hãy lấy mảnh áo da anh chăn cừu, ném
Vào một nhúm hôm nay, một hạt ngày xưa
Và một nắm ngày mai. Hãy thêm vào bằng mắt
Một chút đất, một mảnh trời,
17
Thế là phép lạ xảy ra. Để có những phép lạ, khi cuốn hút
về trái đất, hãy chỉ biết con người sẽ chờ đợi ở đâu,
Thế là anh sẽ hớn hở tìm thấy đúng địa chỉ
Và chủ nhà, cho dù ở một vùng hoang dã.
Hoặc, giả như anh bỏ nhà ra đi, hãy bật sáng một
ngôi sao bốn chấm trên Thiên đường, như anh vẫn làm,
Để thắp sáng một thế gian trống vắng bằng ngọn lửa cháy rực
Và theo anh đến tận cùng với cái nhìn sắc bén của nó.
Nguyên tác đăng trên The New Yorker, Dec. 27, 1999 & Jan. 3, 2000
***
Anno Domini[1]
Các thị trấn đang ăn mừng lễ Giáng sinh.
Dinh ngài Toàn quyền giăng đầy
tầm gửi, đèn đuốc nghi ngút khói ở cổng vào.
Trên những ngõ hẹp dân chúng xô đẩy và nô đùa.
Một đám đông vui vẻ, nhàn rỗi, dơ bẩn,
tụ lại náo động ở phía sau dinh.
Ngài Toàn quyền đang bệnh. Ngài nằm
trên trường kỷ, quấn trong chiếc khăn quàng từ Alcazar,
nơi xưa kia ngài từng phục vụ, và ý nghĩ hướng về
người vợ ngài và thư ký của ngài
đang tiếp khách ở đại sảnh tầng dưới.
Quả tình ngài không ghen. Lúc này
quan trọng với ngài hơn cả là rút về
cái vỏ bọc ốm đau, những giấc mộng, sự trì hoãn
chuyển về thủ phủ. Và từ đó
ngài hiểu rằng để vui hưởng một ngày vui chung
đám tiện dân chẳng cần gì đến tự do —
cũng bởi lý do đó ngài cho phép
luôn bà vợ tha hồ cắm sừng ngài. Vậy thì
ngài nghĩ gì nếu những nỗi muộn phiền tràn ngập
không làm ngài đau khổ? Nếu như ngài đang yêu?
Một cái rùng mình lạnh buốt chạy khắp hai bờ vai,
18
ngài bèn xua đi những ý nghĩ khiếp hãi kia.
Trong sảnh đường cuộc vui lắng xuống
nhưng vẫn chưa dứt. Lãnh chúa các bộ lạc
say hết biết trời trăng đờ đẫn nhìn xa ra
chân trời nay không một bóng quân thù.
Răng cổ ai nấy biểu lộ sự giận dữ,
phác một nụ cười trông y như bánh xe đang lăn
người ta đạp thắng gấp — và một người bồi
đến châm thức ăn cho họ. Trong giấc ngủ gà gật
một tay lái buôn la lớn. Khúc ca nghe bài được bài không.
Bà vợ ngài Toàn quyền và người thư ký lẳng lặng
chuồn ra vườn. Và trên vách tường
con đại bàng hoàng cung, trông như một con dơi, mắt
ngó xuống, sau khi xơi tái trọn lá gan ngài Toàn quyền.
Và tôi,[2] anh viết truyện từng nhìn thấy thế giới,
từng đi hết đường xích đạo trên lưng một con lừa,
anh viết truyện nhìn ra cửa sổ tận những ngọn đồi thiu ngủ
và nghĩ về sự những thống khổ trùng hợp của chúng ta:
Hoàng đế sẽ không cho ngài gặp mặt, còn ta ta sẽ
không được gặp con trai ta và Cynthia[3]... Và chúng ta,
ở đây chúng ta sẽ chết rũ. Sự ngạo mạn sẽ không đẩy
số phận gắt gao của chúng ta đến mức làm chứng
rằng chúng ta được tạo ra theo hình ảnh của Chúa.
Phần mộ sẽ làm cho mọi người đều giống hệt.
Vậy nên, ít ra khi còn trên đời, ta hãy khác nhau!
Cho dù lý do nào ta vội vã rời bỏ dinh thự này,
ta không thể xét đoán đất nước chúng ta. Lưỡi gươm công lý
sẽ tức khắc bám chặt vào nỗi nhục của chúng ta:
những kẻ thừa kế, quyền uy, nằm trong tay kẻ mạnh hơn...
Hạnh phúc thay tàu thuyền đã không nhổ neo!
Hạnh phúc thay biển khơi đã đóng băng!
Hạnh phúc thay chim chóc trong những đám mây kia
quá yếu so với những khung nền nặng trĩu như thế!
Về việc ấy, ta chẳng có thể trách cứ ai.
19
Nhưng có lẽ sức nặng của chúng ta thì sẽ
cân xứng đúng với âm thanh của chúng.
Dù sao, hãy để chúng bay về quê hương chúng ta.
Dù sao, hãy để chúng cất vang giọng la hét cho chúng ta.
Tổ quốc tôi... những người khách phương xa,
đến viếng thăm Cynthia, cúi mình trên
máng cỏ y như các đạo sĩ thời nay.
Đứa bé ngủ ngon lành. Một ngôi sao le lói
như một hòn than dưới đáy bình nước rửa tội.[4]
Và những người khách, tay không đụng đầu đứa bé,
đã lấy cả một quầng sáng dối trá thay vào hào quang,
và chuyện tầm phào thay chuyện Mẹ Đồng trinh sinh ra Chúa,[5]
bỏ qua chuyện người cha trong dấu lặng...
Nhưng dinh ngài thưa dần. Ánh đèn mỗi tầng lầu đang tắt.
Tầng nhất, rồi đến tầng nữa. Sau cùng, là tầng cuối.
Và trong toàn tòa nhà chỉ còn hai cánh cửa sổ
còn sáng đèn; cửa sổ chỗ tôi, nơi quay lưng lại ánh đuốc,
tôi nhìn vầng trăng tròn trôi qua
những ngọn cây mọc lưa thưa, và nhìn thấy
Cynthia, và tuyết; cửa sổ chỗ ngài Toàn quyền, nơi
suốt đêm ngài âm thầm phấn đấu với bệnh tật
và giữ nguyên ánh lửa, để nhìn rõ kẻ thù của mình.
Kẻ thù rút lui. Ánh sáng ngày nhợt nhạt
vừa ló dạng ở phương Đông thế giới,
rón rén lọt vào các cửa sổ, cố sức
nhìn xem bên trong đã xảy ra những gì,
và, rơi đúng vào chỗ thức ăn còn lại của bữa tiệc tàn,
nó ngập ngừng. Nhưng rồi nó cũng tiếp tục đường đi.
[Giêng] 1968 Palanga
--------------[1]
Anno Domini: viết tắt là AD, có nghĩa trong năm Đức chúa thuộc công nguyên, sau Công
nguyên. Thí dụ 55 AD, có nghĩa là vào năm 55 sau Công nguyên.
[2]
Chú thích của Joseph Brodsky: Người thuật truyện là một viên chức tưởng tượng ở một tiền
đồn La mã không nêu tên.
[3]
Chú thích của Joseph Brodsky: Cynthia cùng tên với người được đề tặng những lời thơ tình
của thi sĩ La mã Sextus Propertius (c.50-c.15, B.C.).
[4]
nguyên tác: a coal under a cold font (một hòn than dưới một cái bình lạnh).
[5]
nguyên tác: Virgin Birth.
20
Ba bài trong TỪ LOẠI
Trong thị trấn từ đó cái chết trải dài trên tấm bản đồ lớp học
sỏi cuội ánh lên như những vảy bọc ngoài con cá chép,
trên cây hạt dẻ trăm năm lủng lẳng những ngọn nến đang tan,
và một con sư tử đúc bằng sắt luyến tiếc một tiếng gầm dữ dội.
Qua tấm màn cửa vải tuyn giặt mòn bạc phếch
chảy rỉ những vết xước hoa cẩm chướng và những tháp nhà thờ;
chiếc xe điện lách cách tiếng rít từ xa, như những ngày xưa,
nhưng không ai còn xuống xe trước sân vận động nữa.
Chiến tranh chấm dứt thật ấy là chiếc áo dài của nàng tóc vàng
máng trên chỗ dựa lưng một chiếc ghế mong manh thành Vienne
những viên đạn màu bạc trong khi giương đôi cánh vo ve bay,
đã cuốn mất về phía Nam nhiều mạng người, giữa tháng Bảy.
Munich
●
Nếu có cái gì đáng ca ngợi, trước hết có thể là làm sao
gió tây đã trở thành gió đông, khi cành cây đóng băng
đu đưa qua phía trái, cót két tiếng kêu chống đối,
và tiếng ho của anh bay qua vùng Đồng bằng đến tận
những rừng cây Dakota.
Giữa trưa, vác lên vai một cây súng, bắn vào bất cứ gì
giống như thỏ rừng trên những bãi tuyết, sao cho quả đạn
khoét rộng vết nứt giữa ngòi bút đưa ra những dòng thơ
ẻo lả vụng về này và cái sinh vật để lại
những dấu vết thật trên nền trắng. Thỉnh thoảng đầu sống
chan hòa với tay, không phải để chảy tràn thêm những
dòng thơ mà là để úp tai nghe tuôn trào giọng líu nhíu
tiếng nói chung của chúng. Như một mảnh thân
đầu người mình ngựa.
●
Em đã quên ngôi làng mất hút trong hàng lớp những
đầm lầy trong thị trấn rừng thông chẳng bao giờ ta phải đặt
trong vườn trái đám bù nhìn: hoa trái chẳng bõ công,
và mặt đường ở đây cũng chỉ là mương rãnh và cành khô.
Dì Nastasya đã qua đời, ta chấp nhận, và cả Pesterev nữa,
hẳn thế, nếu không ông đã ngồi say khướt ở hầm rượu
21
hoặc đang loay hoay sửa tấm ván đầu giường chúng ta:
làm một cái cửa xép, như ta vẫn nói, hay một loại tủ chứa.
Và mùa đông họ chẻ củi, và họ sống chỉ bằng mỗi củ cải,
và một ngôi sao lấp lánh trên bầu trời khói sương buốt giá,
không nàng dâu lụa là bên cửa sổ, chỉ bụi bám đầy linh tinh
các thứ cùng với cái chỗ trống vắng xưa ta từng yêu đương.
-----------------------TỪ LOẠI tức là cuốn A Part of Speech. Dịch từ các bản Anh ngữ của Joseph Brodsky, phần lớn
do Daniel Weissbort dịch và xuất hiện lần đầu tiên trong Poetry (3.1978); bản Anh ngữ sau
đó được chính J. Brodsky xem lại và một số đã được đăng trong The New York Review of
Books (20.12.1979). Nguyên bản tiếng Nga gồm cả thảy 20 bài, theo thứ tự khác so với thứ
tự những bài Anh ngữ được đăng báo, hoặc in vào sách A Part of Speech (Oxford University
Press, 1987) và Collected Poems in English (Farrar, Straus and Giroux, 2000). Và thứ tự
những bài Anh ngữ cũng khác so với thứ tự những bài Pháp ngữ trong các tập thơ Poèmes
1961-1987 (Gallimard, 1987) và Vertumne et autres poèmes (Gallimard, 1993) của Joseph
Brodsky.
***
Ba bài khác trong TỪ LOẠI
Ta sinh ra, ta lớn lên trong những đầm lầy vùng Ban tích, gần
những ngọn sóng xám bạc lúc nào vỗ vào bờ cũng đi cặp đôi,
vì thế mọi vần thơ, vì thế tiếng nói âm ỉ kia
rì rào cuộn vào nhau như sợi tóc còn ướt đẫm,
nếu như quả nó có rì rào. Và, dựa chắc trên cùi chõ,
xoăn tai nghe không phải tiếng sóng dội,
mà là những tiếng đập của vải, của cánh cửa, của bàn tay, của nước
sôi trên bếp lò, nhiều hơn cả, là tiếng thét của chim mòng biển.
Và trong khoảng mênh mông kia, đó chính là cái giúp cho tim khỏi
phải nhìn ra sai lạc – chẳng có nơi nào trú thân, xa tít ngút ngàn.
Chỉ với âm thanh khoảng không mới là vật cản,
con mắt thì chẳng bao giờ than thiếu vắng một tiếng dội cho mình.
●
Ta nhận ra ngọn gió kia sà xuống mặt cỏ,
cỏ oằn xuống dưới gió, như dưới bầy đàn Tata.
Ta nhận ra chiếc lá kia úa dập
trong bùn đường, như một đại công tước đẫm máu.
Chảy rỉ thành mũi tên rộng trên chái lều xô nghiêng
của ngôi nhà gỗ trong vùng đất xa lạ,
như con ngỗng trời sải cánh, mùa thu nhìn vào mặt
22
trong cửa kính mới nhận ra được giòng lệ.
Và, đôi mắt dạo khắp trần nhà,
ta không ca bài tụng của vị tướng chỉ huy mà là
bài ca vẫn còn nằm trên lưỡi trong đêm thốt lên
cái tên Mông cổ, thông hành đi vào Bộ lạc du mục.
●
Sương muối trên mặt đất và những rừng trụi lá,
bầu trời xám như màu tôn của mái nhà.
Ra đường một ngày lẻ tháng Mười,
rét cóng, bạn tính tròn con số nói “mẹ kiếp!”.
Bạn không phải là chim để bay khỏi nơi này,
bởi lẽ, như kẻ đi tìm người đẹp dấu yêu,
bạn đã đi cùng khắp thế gian, bên kia làm sao còn
có trang giấy nào để lật tới trong khoảng thiên nhiên.
Hãy ngủ đông ở đây, ngay bên cạnh cuốn sổ đen,
xuyên buốt bên ngoài là cái lạnh, và ở đây, là cái nhìn,
ngòi bút chẻ nát những từ thành chữ,
như củi lửa từng khúc chất chồng bên nhau.
-----------------------Partie du discours. Dịch từ bản tiếng Pháp của Véronique Schiltz, trong Vertume et
autres poèmes, Gallimard, 1993. Nguyên bản tiếng Nga gồm cả thảy 20 bài, theo
thứ tự khác so với thứ tự những bài Pháp ngữ trong các tập thơ Poèmes 1961-1987
(Gallimard, 1987) và Vertumne et autres poèmes (Gallimard, 1993) của Joseph
Brodsky. Và thứ tự những bài Anh ngữ được đăng báo, hoặc in vào sách A Part of
Speech (Oxford University Press, 1987) và Collected Poems in English (Farrar,
Straus and Giroux, 2000) cũng khác so với thứ tự những bài Pháp ngữ.
***
Bốn bài trong TỪ LOẠI
Đất Bắc làm kim loại co dúm, kính thì không hề hấn gì;
miền đất ấy dạy cho cổ họng cách nói, “Hãy cho tôi vào.”
Khí lạnh đã nuôi tôi lớn, và để cho lòng bàn tay được ấm,
tôi đã chụm những ngón tay của mình quanh một ngòi bút.
Rét cóng, tôi nhìn thấy mặt trời đỏ lặn
phía sau đại dương, và chung quanh không nhìn ra một
bóng người. Hoặc tôi trượt gót trên băng, hoặc chính trái đất
đang xoay vòng gắt dưới lòng bàn chân tôi.
23
Và trong cổ họng tôi, nơi hẳn phải có một câu chuyện kể
hoặc một ngụm trà, hoặc nữa là một tiếng cười vô vị,
tuyết gia tăng vang động và tiếng “Vĩnh biệt!” nghe
tối mù như nhà thám hiểm[*] bị bao phủ bởi cơn bão cực nam.
●
... và khi chữ “tương lai” được thốt lên, những đàn chuột
xông ra từ ngôn ngữ Nga và gặm một
miếng ký ức đã chín lỗ chỗ với những lỗ gấp hai
lần nhiều hơn một miếng phó mát.
Sau những năm dài kẻ nào hay cái gì nằm trong góc cửa,
phủ kín này màn này trướng, chẳng còn là chuyện quan trọng,
và đầu óc anh không vang dội nốt nhạc “đô” thanh khiết,
chỉ là tiếng lao xao. Đời sống, mà chẳng ai dám đánh giá
phẩm chất, như tặng phẩm cho không,
giận dữ nhe răng toe toét mỗi lần
chạm mặt. Cái còn lại của mỗi con người gom lại
chỉ là một phần. Là phần được nói ra. Là một phần loại từ.
●
Không phải tôi mất tự chủ, chỉ là tôi đã hết chịu nổi mùa hè.
Anh kiếm một cái sơ mi trong hộc tủ và thế là nguyên ngày mất toi.
Mong sao mùa đông đến và tuyết có thể phủ kín hết
những đường phố, những con người, nhưng trước tiên, là đám cây
cỏ tàn lụi kia. Ta sẽ ngủ để nguyên áo quần hoặc chỉ nhặt đại một
cuốn sách mượn, trong khi cái nhịp điệu lơ lửng còn lại trong năm,
như con chó bỏ tên chủ mù của mình chạy mất,
băng qua đường ở chỗ bình thường có vạch trắng. Tự do
ấy là khi anh quên đi cách đánh vần tên của kẻ bạo chúa
và nước miếng trong miệng anh ngọt hơn cái bánh mật Ba tư,
và mặc dù đầu óc anh bị siết chặt như cái sừng một con cừu đực
chẳng có gì giọt xuống từ con mắt xanh nhợt nhạt của anh.
●
Lúc nào cũng còn có một khả năng còn lại – để anh
bước ra đường nơi khoảng mênh mông màu nâu sẽ
làm dịu con mắt với những khuôn cửa, những hàng liễu gầy
chia nhánh, những vũng nước chắp nối, bước đi thế thôi.
Mái tóc tôi trên đầu trần khuấy động trước gió
24
và đường phố, đàng xa, khép kín lại thành hình chữ V, trông
giống khuôn mặt xuống đến cằm; và một chú chó con vừa sủa
vừa chạy bay ra khỏi cổng nhà như một mảnh giấy vo tròn.
Một con đường. Có mấy ngôi nhà, chẳng hạn,
trông khá hơn những ngôi nhà khác. Lấy một thứ,
có những nhà cửa sổ quí giá hơn. Hơn thế nữa, là nếu anh điên,
điều ấy sẽ không xảy ra, ít ra, là bên trong nhà.
-----------------------Dịch từ các bản Anh ngữ của Joseph Brodsky, phần lớn do Daniel Weissbort dịch và xuất hiện
lần đầu tiên trong Poetry (3.1978); bản Anh ngữ sau đó được chính J. Brodsky xem lại và
một số đã được đăng trong The New York Review of Books (20.12.1979). Nguyên bản tiếng
Nga gồm cả thảy 20 bài, theo thứ tự khác so với thứ tự những bài Anh ngữ được đăng báo,
hoặc in vào sách A Part of Speech (Oxford University Press, 1987) và Collected Poems in
English (Farrar, Straus and Giroux, 2000). Và thứ tự những bài Anh ngữ cũng khác so với thứ
tự những bài Pháp ngữ trong các tập thơ Poèmes 1961-1987 (Gallimard, 1987) và Vertumne
et autres poèmes (Gallimard, 1993) của Joseph Brodsky.
[*] Trong bản tiếng Nga và tiếng Anh, chữ được dùng là Scott – tên nhà thám hiểm người
Anh Robert Falcon Scott (1868-1912) chết trong một trận bão tuyết dữ dội giữa khi sắp hoàn
thành chuyến đi vùng cực Nam. Trong bản tiếng Pháp (Vertumne et autres poèmes,
Gallimard, 1993) người dịch thay thế Scott bằng Amundsen, tên nhà thám hiểm Na uy Ronal
Amundsen (1872-1928) – người từng khám phá cực Nam năm 1911 – có lẽ vì độc giả Pháp
quen với tên nhà thám hiểm Na uy hơn? Trong suy nghĩ của chúng tôi, bản Việt ngữ có thể
dùng nhà thám hiểm để thay thế cho “ý niệm” Scott, hay Amundsen.
***
Bài ca tháng Mười
Một con chim cút nhồi rơm
đậu trên mép lò sưởi canh chừng cái đuôi mình.
Chiếc đồng hồ cũ đều đặn ngân nga trong buổi chiều tà
làm dịu tiếng lao xao của trục xoắn.
Ngoài cửa sổ, những cây bu lô làm nến không đủ sáng.
Đến ngày thứ tư biển kéo cả chân trời vạm vỡ xô vào đê.
Hãy buông sách xuống, hãy cầm kim chỉ lên;
vá áo vá quần cho ta nhưng hãy đừng bật đèn:
mái tóc vàng óng
thắp sáng góc phòng.
1968
25