Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Câu hỏi thảo luận môn đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.18 KB, 35 trang )

…………………………………………….
………………………………………………………
------

CÂU HỎI THẢO LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM

………………., ngày……….. tháng……….. năm…………..


CÂU HỎI:
“Thắng lợi của cuộc Cách mạng chống thực dân Pháp vẻ vang chứng minh sự bản lĩnh
tài tình của Đảng ta ngày càng trưởng thành hơn.”
Anh (chị) hãy chứng minh nhận định trên.
TRẢ LỜI:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên
phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn
thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã
giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao
to lớn của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu
cho Đảng và nhân dân ta.
Nhìn lại chiến thắng của cuộc cách mạng chống thực dân Pháp, thế hệ hôm nay
càng cảm phục trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Trí tuệ và bản lĩnh đó được
kết tinh qua sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình và kịp thời của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ đó đã tạo ra sức mạnh tổng hợp về vật chất và
tinh thần của cả dân tộc, chuyển yếu thành mạnh, vừa đánh vừa xây dựng lực lượng,
càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.Đó là một trong những nhân tố quan


trọng góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
dân tộc Việt Nam.
Để chứng minh được bản lĩnh tài tình của Đảng ta, chúng ta sẽ xem xét tình hình
cách mạng Việt Nam ở 2 giai đoạn:
-

Tình hình cách mạng Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời.
Tình hình cách mạng Việt Nam sau khi Đảng ta ra đời.

1 – Tình hình thế giới và cách mạng Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời:
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền. Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống
trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên


cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay
gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập
chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại
bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế
quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền
thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi
phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên
ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản
Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo,

kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho
nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo
dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá
nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu,
phục tùng sự cai trị của chúng.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân
hóa, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần
cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành
lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp. Đa số công nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông
dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt
Nam.Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông


dân.Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm
nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt
Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc
Trung Nam…
Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương
nghiệp… Trong giai cấp tư sản có một bộ phận kiêm địa chủ.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản người Hoa

cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt
Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh
đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do… Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản.Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở
thành những người vô sản.Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc,
thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.Vì
vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao và nhạy cảm chính trị. Được phong
trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách
mạng ngày càng đông và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của
nhân dân, nhất là ở thành thị.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt
Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ
nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm
vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ.Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải
quyết.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược,nhân dân ta không ngừng đứng lên đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc, tuy nhiên phong trào cách mạng nổ ra lẻ tẻ, thiếu sự nhất quán
về cách thức tổ chức, sự công kích của các lực lượng phản động cũng là điều khó khăn


cho cách mạng ta. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa,

phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): Ngày 13/7/1885, Vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương. Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc
Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng phong
trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884, nghĩa quân Yên
Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc
chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước
dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư
sản diễn ra sôi nổi.Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng.Một bộ phận chủ
trương đánh đổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia
bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới
khôi phục độc lập.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê Nghệ An
với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền
độc lập cho dân tộc.
Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước thăng trầm, đi từ
lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân chủ tư sản, nhưng đều bị thất bại.Vào
nửa đầu của thế kỉ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười
Nga.Nguyễn Ái Quốc đánh giá “Phan Bội Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc
gia”. Việc cụ dựa vào Nhật để đánh Pháp chẳng khác nào đuổi hổ cửa trước rước beo
cửa sau”.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua
quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí,
chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện
nước ngoài.
Hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần làm thức tỉnh lòng yêu

nước của nhân dân Việt Nam.Tuy nhiên, về phương pháp, “Cụ Phan Châu Trinh chỉ
yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương… điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin
giặc rủ lòng thương”.


Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác
như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú”
(1919); Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong
các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho
dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong
kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa
tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau:
bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau; dựa
vào Pháp để thực hiện cái cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp… nhưng cuối
cùng đều đàn áp tàn bạo và đi đến thất bại.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu
nước, kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát
triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành
một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư
tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc
về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường
cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của
nhân dân có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến
thành công.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối

cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua
nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động
trong Đảng Xã hội Pháp.
Với sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, tư tưởng cách
mạng Lê nin thật sự tạo nên sức ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng của Hồ Chí Minh lúc
bấy giờ. Nhà nước Xôviết dựa trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự lãnh đạo
của Đảng Bonsêvich Nga ra đời.Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa
Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc cách mạng này cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một


trong những động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức,
Đảng cộng sản Hungari (năm 1918), Đảng Cộng sản Pháp (năm 1919)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười,
Nguyễn ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân
dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng
muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư
và Lênin”.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp
trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con
đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một
chiến sĩ cộng sản quốc tế, Người tích cực tham gia hoạt động phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế bên cạnh việc nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào
Việt Nam (Báo Người cùng khổ, tác phẩm Bản án chế độ thực dân).
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản
tác phẩm Đường cách mệnh với nội dung:
- Đường cách mệnh chỉ rõ: tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
cách mạng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.Hai cuộc cách mạng này có
quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải
việc một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân.Nhưng cái cốt của nó là công- nông
và phải luôn ghi nhớ rằng công nông là người chủ cách mệnh, công nông là gốc cách
mệnh.
- Về vai trò của Đảng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Cách mạng muốn thắng lợi
thì phải có một đảng lãnh đạo. Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt. Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
-Về vấn đề đoàn kết quốc tế, Người nói: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ
phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của
dân An Nam cả”.
-Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ
chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng,
biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải biết cách


làm, phải có “mưu chước”, có như thế mới bảo đảm thành công cho cuộc khởi nghĩa
với sự nổi dậy của toàn dân…
Như vậy: Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cấp những vấn đề cơ bản của một
cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng
Việt Nam.
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào
công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân

dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ
chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
Tuyên ngôn của Đảng nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông dương tổ chức đại đa số và thực
hành công nông liên hiệp mục đích để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa; đánh đổ tư bản chủ
nghĩa; diệt trừ chế độ phong kiến; giải phóng công nông; thực hiện xã hội bình đẳng,
tự do, bác ái, tức là hội cộng sản.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, Điều
lệ của Đảng viết “Ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu
trong một bộ phận đảng, phục tùng mệnh lệnh đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào
đảng được”.
- Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn( 9/1929), nêu rõ : “Đông Dương
Cộng sản Liên Đoàn lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên
hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ
sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa nạn bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ
cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
tuyên bố thành lập.Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.Chính vì vậy điều trước tiên là phải
thống nhất các tổ chức đó lại thành một chính Đảng duy nhất để lãnh đạo phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức
cộng sản.Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Đảng được triệu tập do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
diễn ra từ 6/1/1930 đến 8/2/1930, một hội nghị mang tầm vóc lịch sử, một bước ngoặt


trọng đại của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng đường lối của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã

có cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc
theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa
ra đời đã nắm bắt được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết
được tình trạng khủng khoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách
mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra con đường và phương hướng phát triển mới của
đất nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào
sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
2 – Tình hình cách mạng Việt Nam sau khi Đảng ta ra đời:
Từ khi Đảng ta ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã
quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, xây
dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc., Đảng ta đã dìu dắt các phong
trào cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi tiêu biểu là cách mạng
tháng Tám năm 1945 mà đỉnh cao là thắng lợi ở Điện Biên phủ đã đánh bại sự thống
trị của thực dân Pháp ở Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do,
dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử
vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này,
nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm
năm chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa
nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; đưa Đảng ta từ

hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc; khẳng định trong thực
tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn dân của Hồ
Chí Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn;
nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân


dân ta; mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã
cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa
bàn cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành
công vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng
đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng
Cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi
và nắm chính quyền trong cả nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám, tuy đã lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa –
một Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông – Nam Á, nhưng nước ta
rơi vào tình trạng 'ngàn cân treo sợi tóc", khó khăn lớn nhất là hậu quả do chế độ cũ để
lại. Nạn đói hoành hành đầu năm 1945 đã làm chết hơn hai triệu người ở miền Bắc.
Trên 95% dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với
mưu đồ ''diệt cộng, cầm Hồ''. Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của
liên quân Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta. Đảng ta đã từng bước giải quyết các khó
khăn đó một cách sáng tạo trên cả các phương diện, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm
như thực hiện ngày đồng tâm, hủ gạo tiết kiệm, tấc đất tấc vàng, mở các lớp bình dân
học vụ… Nền độc lập của nước ta chưa được quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao.Núp dưới bóng quân Anh, Ấn, quân đội Pháp lại đánh chiếm Sài Gòn,
nhằm tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có phát xít Nhật và bè cánh
tay sai chống phá chính quyền cách mạng. Để tránh một lúc đối phó với nhiều kẻ thù
Đảng ta chủ trương nhân nhượng với Tưởng ở giai đoạn đầu, rồi hòa với Pháp
(6/3/1946 ký với Pháp hiệp định sơ bộ), tác dụng của 2 việc đó là ta đã có thời gian để

chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Khi thực dân Pháp không đáp lại mong muốn hòa bình, hữu nghị và hợp tác của
Chính phủ và nhân dân Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn
quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và đề ra đường lối kháng chiến, động
viên toàn dân chủ động đối phó với chiến tranh xâm lược quy mô lớn của thực dân
Pháp. Ngày 19-10-1946 đã diễn ra Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng. Tháng 111946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu Công việc khẩn cấp bây giờ, chuẩn bị lực
lượng về mọi mặt, động viên nhân dân và bộ đội:Cố rán sức qua khỏi mùa đông lạnh
lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân.Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự


do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả
năng đánh thắng quân xâm lược.
Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây
bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân,
đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có
quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc.
Đảng ta cũng xác định: phải "kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực
cánh sinh" và đó là sợi chỉ đỏ của sách lược, chiến lược mà Đảng ta vận dụng trong
suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mục tiêu phải nêu cao của Cách mạng lúc này
vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu “ Dân tộc là trên hết, Tổ quốc là trên hết”. Nhưng
lúc này không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
Lại một lần nữa ta thấy rõ vai trò của Đảng ta mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh trong thắng lợi ở Việt Bắc 1947, nghệ thuật quân sự mà Đảng ta chỉ đạo trong
chiến dịch Việt Bắc đã minh chứng cho khả năng lãnh đạo của Đảng ta và tính sáng
tạo quyết đoán trong cách xác định phương hướng tác chiến, điều này ta thấy rõ trong
chiến dịch Biên Giới 1950 (nếu khống đánh Đông Khê trước để mở màng cho chiến
dịch Biên Giới 1950 nhằm phân tán và cắt đức sự liên lạc của địch). Đảng ta rất sáng

suốt trong cách chọn địa điểm tấn công cũng như sự linh hoạt trong mọi tình huống, sự
linh hoạt đó ta lại thấy rõ trong phương châm tác chiến ở chiến dịch Điên Biên Phủ
(1954)" đánh ăn chắc tiến ăn chắc", Đảng ta còn nhận định:" nếu Pháp chọn Điện Biên
Phủ làm pháo đài bất khả xâm phạm thì ta quyết chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết
chiến với chúng". Vì nhận định đúng thời cơ ta có thắng lợi của cách mạng tháng tám
1945, biết được chủ ý của địch, vận dụng tốt các chiến thuật mà ta đã có thắng lợi ở
Điện Biên Phủ, để có thể làm được điều đó ngay từ đầu Đảng ta đã thực hiện việc phân
tán lực lượng địch ở Chiến lược Đông Xuân 1953-1954.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch
sử to lớn đối với nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ
hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập,
chủ quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được
một nửa đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở
thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn
sau; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín
cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân
Pháp phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam
trở thành người đi tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh
mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành


độc lập dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực
lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Đảng là linh hồn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954,những
chỉ đạo về chiến lược, sách lược là minh chứng cho khả năng lãnh đạo của Đảng,
những thắng lợi của nhân dân ta trong những năm 1945-1954 là khẳng định vai trò
tuyệt đối của Đảng trong mọi thời đại, Đảng đã vinh danh các thắng lợi đó, đã dìu dắt
các phong trào cách mạng dù cho hoàn cảnh có khó khăn, chiến tranh trên nhiều

phương diện thù trong, giặc ngoài có khốc liệt, nhưng một khi Đảng tin dân, dân tin
Đảng, Đảng với dân một lòng thì kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi.
Thắng lợi đó còn làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay,
một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh
dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy
đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ
có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường
lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân
dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
CÂU HỎI:
Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thong qua tại hội nghị thành lập ĐCSVN
3/2/1930?
TRẢ LỜI
Sự kiện ĐCS VN ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận động
cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
đến ba tổ chức cộng sản, đến ĐCS VN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và quan
điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
+ Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh và tổ chức quân
đội công nông.


+ Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho
Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia

cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo,
thi hành luật ngày làm 8h.
+ Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ
thông giáo dục theo công nông hóa.
+ Về lực lượng cách mạng:
Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa
vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất.
Lôi kéo tiểu tư sản, tri thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp.
Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản VN mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít hơn mới làm cho họ đứng trung lập.
Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ.
+ Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc với
các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
+ Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế
giới: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Đánh giá:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh:
Phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới.
Đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử.
Nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự
do.
Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội
cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã
chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương

lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.


CÂU HỎI
Những bổ sung phát triển của luận cương chính trị tháng 10/1930 so với cương lĩnh
chính trị đầu tiên?
TRẢ LỜI
So với cương lĩnh 3/1930 luận cương có những bổ xung sau:
- Trên cơ sở khẳng định tính chất xã hội Đông Dương là XH nửa phong kiến, luận
cương đã chỉ rõ phương hướng là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau đó bỏ
qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Luận cương còn chỉ ra điều kiện bỏ qua:
+ Phải có sự giúp đỡ cho ĐCSVN của vô sản thế giới.
+Cách mạng VN đã có đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Phương pháp cách mạng: luận cương khẳng định lại tư tưởng bạo lực quần chúng
bằng hình thức khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền. luận cương chỉ ra những
điều kiện để khởi nghĩa thành công:
+xây dựng lực lượng quần chúng ngày càng vững mạnh.
+tuân thủ quy luật đấu tranh cách mạng.
+ nổ ra khi có tình thế và thời cơ cách mạng.
- Luận cương khẳng định lại vai trò của đảng nhưng để Đảng có thể lãnh đạo được thì
Đảng phải có những tiêu chí xây dựng đảng:
+ Đảng có đường lối chính trị đúng đắn.
+ Có kỷ luật tập trung.
+ Gắn bó với nhân dân.
+ Trải qua đấu tranh để trưởng thành.
+ Có lý luận Mac- Lênin dẫn đường.
CÂU HỎI:
Kết quả chỉ đạo thực hiện chủ trương của Đảng về bảo vệ thành quả cách mạng
Tháng 8 , xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạnggiai đoạn 1945-1946?



TRẢ LỜI
- Kết quả: cuộc đấu tranh thực hiện chủ trươngkháng chiến kiến quốc của Đảng
giai đoạn 1945 - 1946 đã diễn ra rất gay go, quyếtliệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, ngoại giao và đãgiành được những kết quả hết sức quan trọng.
- Về chính trị - xã hội: đã xây dựng được nền móngcho một chế độ xã hội mới
- chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cầnthiết. Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến pháp dân chủ nhân dân
được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máychính quyền từ Trung ương đến làng xã
và các cơ quan tư pháp, tòa án, các côngcụ chuyên chính như Vệ quốc đoàn, Công an
nhân dân được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt
Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam,Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng.Các đảng phái chính trị như Đảng Dân
chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam đượcthành lập.
- Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong tràotăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnhgiảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc
gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi.Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi,
năm 1946 đời sống nhân dân được ổnđịnh và có cải thiện. Tháng 11/1946, giấy bạc
“Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lạicác trường lớp và tổ chức khai giảng năm học mới.
Cuộc vận động toàn dân xây dựngnền văn hóa mới đã bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ
nạn xã hội và tập tục lạc hậu.Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi
nổi. Cuối 1946 cả nướcđã có thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
- Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thựcdân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnhNam bộ, Đảng đã kịp thời
lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phátđộng phong trào Nam tiến chi
viện Nam bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ
trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng,Chính phủ ta đã thực hiện sách
lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai củachúng để giữ vững chính quyền,
tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam.

* Ý nghĩa:
- Những thành quả đấu tranh nói trên đã bảo vệ đượcnền độc lập của đất nước,
giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nềnmóng đầu tiên và cơ bản


cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;chuẩn bị được những điều
kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
* Bài học kinh nghiệm:
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vàodân để xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫntrong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi
nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng cónguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện
pháp đấu tranh cách mạng cần thiếttrong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa
hoãn để xây dựng lực lượng, củngcố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh
giác, sẵn sàng ứng phó với khảnăng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.
CÂU HỎI:
Sách lược lợi dung mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự hòa hoàn có nguyên
tắc để giữ vững chính quyền giai đoạn 1945-1946?
TRẢ LỜI
+ Ở miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 Đà Nẵng trở ra): Gần 20 vạn quân Tưởng lũ lượt
vào miền Bắc. Sau lưng chúng là bọn Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu thủ tiêu chính
quyền cách mạng, đưa bọn tay sai lập chính quyền bù nhìn và thực hiện chính sách
cứơp bóc nhân dân Việt Nam.
+ Ở Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào): Trên một vạn quân Anh cũng mượn
tiếng là vào tước vũ khí của Nhật, nhưng kỳ thực là chúng mở đường cho thực dân
Pháp cướp lại nước ta. Ngày 23/9/1945 dưới sự yểm trở của 2 sư đoàn thiết giáp Anh,
Pháp đã nổ súng tấn công Sài Gòn, chính thức xâm lược nước ta lần thứ 2.
Trên đất nước ta lúc này còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ lệnh giải giáp
nhưng một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng với quân Anh, dọn
đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Chưa bao giờ, cùng một
lúc cách mạng Việt Nam phải đối phó với nhiều kẻ thù như thời điểm này. Chúng có

thể mâu thuẫn với nhau về lợi ích kinh tế nhưng đều thống nhất với nhau trong âm
mưu chống cộng sản, thủ tiêu chính quyền cách mạng, xoá bỏ thành quả mà cuộc
CMT8 vừa giành được.
Chủ trương của Đảng ta


- Tình hình khó khăn trên đặt ra trước mắt Đảng và nhân dân ta những nhiệm vụ
nặng nề và cấp bách. Chúng ta vừa phải xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng
ở các cấp, vừa phải khôi phục kinh tế, giải quyết nạn đói, nạn thất học, vừa phải đấu
tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ chính quyền cách mạng và khẳng định vị thế
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Ngày 25/11/1945 Ban chấp hành trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến
kiến quốc" vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
+ Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc
này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên
hết", nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập.
+ Về xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương,
Ban chấp hành trung ương nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm
lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút
mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt - Minh - Lào chống Pháp xâm lược;
kiên quyết giành độc lập tự do - hạnh phúc dân tộc vv.......
+ Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách
cần khẩn trương thực hiện là:
1. Củng cố chính quyền cách mạng.
2. Chống thực dân Pháp xâm lược.
3. Bài trừ nội phản.
4. Cải thiện đời sống nhân dân.
+ Những biện pháp cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ trên: Xúc tiến bầu cử
Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập hiến pháp, củng cố chính quyền nhân

dân; động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài; kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu "Hoa Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và "Độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế" đối với Pháp.


- Về bảo vệ chính quyền cách mạng: ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng đã kịp thời
lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào Nam tiến
chi viện Nam bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung bộ. Ở miền Bắc, bằng chủ
trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng, Chính phủ ta đã thực hiện sách
lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền,
tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Khi Pháp- Tưởng ký hiệp ước Trùng
Khánh (28/2/1946 ) , thỏa thuận mua bán quyền lợi với nhau, cho pháp kéo quân ra
miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp vứi Pháp để buộc
quân Tưởng phải rút về nước. hiệp định sơ bộ 6/3/1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, tạm
ước 14/9/1946 đã tạo điều kiện cho quân dân có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu mới.
Tóm lại: Những chủ trương trên đây của Ban chấp hành trung ương Đảng được
nêu trong bản chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ra ngày 25/11/1945 đã giải quyết kịp
thời những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong tình
thế mới vô cùng phức tạp và khó khăn của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới
khai sinh.
Kháng chiến và kiến quốc là tư tưởng chiến lược của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, quyết tâm đẩy mạnh kháng chiến
chống thực dân Pháp, bảo vệ và xây dựng chế độ mới.

CÂU HỎI
Trình bày chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc của
Đảng được thể hiện trong 3 nghị quyết BCH trung ương tháng 11/1939-11/19405/1941: Mối quan hệ chống đế quốc và chống phong kiến?
TRẢ LỜI

Do sớm dự báo được chiến tranh thế giới thứ hai sẽ nổ ra, nên Đảng ta không bị
bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 1936-1939 Đảng đã có một số chủ
trương, hoạt động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ.


Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 29-9-1939 Trung ương Đảng
gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến mục
tiêu giải phóng dân téc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và chuyển hướng
hoạt động.
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939) Nhận định chế độ cai trị ở Đông
Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất
là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân téc Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông
Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật.
- Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt: Là đánh đổ đế quốc và tay
sai, giải phóng Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng
đất, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tố cáo,
chống lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công nông binh bằng khẩu hiệu
lập Chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất
dân téc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn
kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn , đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai
cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ.
- Về phương pháp cách mạng: Hội nghị nêu ra mét số chuyển hướng về tổ chức,
xây dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng
vào đế quốc và tay sai, "dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải
phóng dân téc". Hội nghị cũng quyết định các chủ trương và biện pháp nhằm củng cố
Đảng về mọi mặt, thực hiện sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.

CÂU HỎI
Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945?
TRẢ LỜI

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ người nô lệ
trở thành người chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta trở thành một
Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Nước ta từ một nước thuộc địa và nửa


phong kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á.
NN khách quan
- Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù
trực tiếp của nhân dân ta là phátxít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân
đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu
rã. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã
giành được thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
NN chủ quan:
- Cách mạng tháng 8 là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh gian khổ của
toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua 3 cao trào cách mạng
rộng lớn: Cao trào cách mạng 1930-1931, cao trào 1936-1939 và cao trào giải phóng
dân tộc 1939-1945. Quần chúng cách mạng được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện
bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành lực lượng hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt.
- Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của dân tộc ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua cao trào 36 - 39 và cao trào vận
động giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Quần chúng cách mạng đã được tổ chức lãnh
đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, có
lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- Cách mạng tháng Tám thành công là do Đảng ta chuẩn bị được lực lượng vĩ
đại toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đảng là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng tháng Tám, vì Đảng có đường

lối cách mạng đúng đắn, dày dặn kinh nghiệm đấu tranh, nắm đúng thời cơ và chỉ đạo,
kiên quyết khôn khéo tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ thù.
- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, chủ yếu của cách mạng tháng
Tám.


CÂU HỎI
Kết quả thắng lợi của cách mạng Tháng 8 năm 1945?
TRẢ LỜI
- Thắng lợi này đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân pháp trong gần 1 thế kỉ,
lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở ĐNÁ.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do làm
chủ vận mệnh của mình.
- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mac-lenin
được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt
Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy
sáng tạo của đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với CNXH, gắn sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ và ngoạn mục không phải
là sự ngẫu nhiên mà là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường bất
khuất của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của 1 đảng Macxit
đó là đảng cộng sản Việt Nam.
- Cách mạng tháng Tám đánh dấu 1 bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn
năm phấn đấu, đỉnh cao của ý trí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí
tuệ dân tộc hòa quyện với những tư tưởng của C.Mac, Ăng ghen, Lê nin, Hồ Chí
Minh, với xu hướng của thời đại vì hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa XH.


CÂU HỎI
Ý nghĩa thắng lợi cách mạng tháng 8 năm 1945?
TRẢ LỜI


* Đối với dân tộc:
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc
địa. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng
xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ trên đất nước ta, chấm dứt sự
tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
- Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu một trang sử vẻ vang của dân tộc ta,
đánh dấu sự đổi đời của một dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đã đưa nước ta từ một
nước thuộc địa trở thành một nước độc lập dân chủ, đưa Đảng ta từ một Đảng không
hợp pháp trở thành một Đảng nắm chính quyền, đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc
tiên phong trên thế giới.
- Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng nước takỷ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Đây là một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi
đầu tiên của chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa.
- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, "Chẳng những giai cấp lao động mà
nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"
* Đối với quốc tế:
- Cách mạng Tháng Tám đã nâng cao vị thế quốc tế của dân tộc Việt Nam. Lần
đầu tiên một dân tộc nhược tiểu đã tự giải phóng khỏi ách đế quốc thực dân.

- Cách mạng Tháng Tám đã phá tan một mắt xích quan trọng của chủ nghĩa đế
quốc, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Mở đầu thời kỳ suy sụp và tan
rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự
nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.


- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Cách mạng Tháng
Tám là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng
dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng
thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng
vô sản ở "chính quốc", nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở "chính quốc". Trái lại,
nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân "chính quốc" lên nắm
chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về cách mạng
giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc. Những kinh nghiệm chính là:
Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Con đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định
cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau
đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là
thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc
và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách
mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác
định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu
nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực
hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất

công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng
đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi Chiến tranh thế giới thứ hai
nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật - Pháp
và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là
giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng
đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20


triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi
có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và
lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng.
Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa
thắng lợi.
Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế
quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong
kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao
độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung
lập những phần tử lừng chừng. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi
nhanh gọn, ít đổ máu.
Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng
một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân
dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực
lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công
của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết
định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là

kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và
không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước,
từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai
cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ
Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các
cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa
đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa
thắng lợi.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc
bọn cầm quyền phátxít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng;


nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã
bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào
chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước.
Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành
chính quyền
Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách
mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều
đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.
Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ
trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh
khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo
dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức
cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai
trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo
nhân dân đấu tranh.

Với những yếu tố như trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh mặc dù chỉ
có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.

CÂU HỎI
Nguyên nhân thắng lợi của cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược?
TRẢ LỜI
Thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân
ta là do các nhân tố cơ bản sau đây:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với
đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính, có sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.


×