Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Bao cao thuc tap tot nghiep dai hoc luat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.63 KB, 43 trang )

Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

LỜI CÁM ƠN!
Để hoàn thiện báo cáo thực tập của mình, tôi đã được sự quan tâm,
hướng dẫn của thầy Hồ Xuân Thắng cũng như các bạn bè cùng khóa. Tôi xin
chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ, động viên và khích lệ của thầy và các
bạn trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài này.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, hướng dẫn, giới thiệu
của đồng chí đồng nghiệp tại cơ quan tròn việc tiếp cận với các văn bản, số
liệu hệ thống các loại văn bản hành chính của nhà nước, nhờ đó mà tôi có được
cách nhìn mới hơn, thực tế hơn về lĩnh vực pháp lý trong nghiên cứu khoa học
cùng như thực tiễn đời sống, góp phần bổ sung kiến thức pháp luật, nâng cao
trình độ hiểu biết về kỹ năng chuyên ngành luật, kinh nghiệm sống.
Tôi xin cám ơn lãnh đạo cơ quan xã Ea Bhốk và cán bộ công chức xã, đã
tiếp nhận yêu cầu thực tập và nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫnm cung cấp các
thông ton về hoạt động và tổ chức của cơ quan pháp luật, các hoạt động tiếp
công dân và xử lý khiếu nại, tố cáo. Điều đó giúp tôi tự tin lựa chọn đề tài này.

Ea Bhốk, ngày tháng

năm 2016

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 1


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước
ta đã từng bước phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và


nâng lên rõ rệt. Quyền dân chủ của nhân dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố
cáo không ngừng được phát huy.
Cùng với những thành tựu đạt được trong nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế
- xã hội, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân cũng có những diễn biến mới.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa VIII đã ra
Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước
nhằm xây dựng Nhà nước ta thực sự là “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.
Một trong các vấn đề bức xúc mà Nghị quyết Trung ương 8 nhấn mạnh là các
cấp, các ngành cần tập trung giải quyết có hiệu quả các khiếu nại, tố cáo của
công dân.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và sự chỉ đạo của Chính phủ, trong
thời gian qua, các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo tổ chức tiếp công dân, tiếp
nhận, xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, và đã đạt được
những kết quả đáng kể. Nhiều khiếu nại, tố cáo của công dân đã được xem xét,
giải quyết kịp thời, đúng chính sách, pháp luật, qua đó góp phần vào việc duy trì
trật tự kỷ cương, pháp luật, giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội của đất
nước.
Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo hiện nay vẫn đang có chiếu hướng
ngày càng gia tăng, số người trực tiếp đi khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều, tính
chất khiếu nại, tố cáo rất gay gắt và phức tạp, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn
đọng và vượt cấp lên trên; việc giải quyết còn chậm; tình trạng vi phạm pháp
luật còn phổ biến.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân quan
trọng là việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn qua nhiều thủ tục
hành chính rườm rà hoặc trong quá trình thực hiện không tuân thủ đúng trình tự,
thủ tục pháp luật đã quy định gây khó khăn, phiền hà cho công dân cũng như cơ
quan nhà nước khi xem xét, giải quyết.
Tình trạng trên đòi hỏi phải nghiên cứu tìm giải pháp để khắc phục nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình

mới.
Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu tìm ra những giải pháp chấn chỉnh,
khắc phục những tồn tại, thiếu sót về thủ tục hành chính trong công tác tiếp công
dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong tình hình hiện nay. Qua
đó hoàn thiện các thủ tục hành chính trong công tác tiếp công dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 2


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

nước, quản lý xã hội, đó là yếu tố cơ bản để hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào 3 vấn đề chính như sau:
- Cơ sở lý luận về thủ tục hành chính trong tổ chức tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
- Thực trạng về thủ tục hành chính trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo. Một số kết quả bước đầu thực hiện cải cách hành chính hiện nay.
- Những kiến nghị về cải cách thủ tục hành chính trong tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo thời gian tới.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 3


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

Giải quyết khiếu nại tố cáo là một vấn đề quan trọng và bức thiết trong bối
cảnh nước ta hiện nay khi tình trạng khiếu nại, tố cáo ở nước ta ngày càng gia
tăng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, làm ảnh hưởng đến quyền lời,
nghĩa vụ căn bản của nhân dân, trách nhiệm của những cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Việc giải quyết khiếu nại tốt hay xấu nó thể hiện được chất lượng
quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như mối quan hệ giữa nhân dân
với Đảng và Nhà nước.
Hơn nữa vấn đề đơn giản hóa thủ tịch hành chính cũng đang đặt ra cho các
nhà khoa học pháp lý những bài toán khó giải, xử lý được vấn đề này sẽ góp
phần đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng quản lý của
các cơ quan quản lý hình chính nhà nước, xây dựng được bộ máy nhà nước gọn
nhẹ nhưng hiệu quả, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
2. Mục đích:
Với tư cách là công dân của một xã thuần nông, tôi muốn nghiên cứu những
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về khiếu nại tố cáo cũng như công tác
giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan có thẩm quyền hiện nay, nhằm nâng cao
hiểu biết cho bản thân, phổ biến kiến thức pháp luật khiếu nại tố cáo cho đông
đảo quần chúng nhân dân. Qua đó, cũng mong muốn nêu ra những kiến nghị,
phương hướng nhằm góp phần khắc phục những thiếu xót, từ đó hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riwwng, đáp ứng
các yêu cầu về thủ tục pháp lý.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về
khiếu nại, tốt cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo của cơ quan có thẩm
quyền giải quyết hiện nay. Bên cạnh đó, tôi thực hiện các hoạt động điều tra,
đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu nại tố cáo ở nước ta hiện nay, đồng
thời nghiên cứu tìm tòi, tham khảo những ý kiến đóng góp để đưa ra những kiến
nghị, nhằm nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện
nay.
4. Kết cấu của chuyên đề:


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 4


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 5


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP CÔNG DÂN VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI, TỐ CÁO THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH TẠI
VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾP CÔNG DÂN, GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI TỐ CÁO THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1. Khái niệm đặc điểm về tiếp công dân:
* Khái niệm: Tại khoản 1 điều 2, khoản 2 điều 1 luật khiếu nại tố cáo và điều
74 hiến pháp.
Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại
Điều 4 của Luật này đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực
hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật.
Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, giữa cơ quan nhà nước và người dân cần có sự tiếp xúc
nhằm trao đổi những thông tin, tình cảm, hiểu biết, hành vi…Quá trình này
chính là quá trình giao tiếp với công dân.

Chính quyền xã là cấp chính quyền gần dân nhất, trực tiếp giải quyết các
công việc của dân theo quy định về nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy
định. Hoạt động tiếp dân có thể hiểu là quá trình giao tiếp giữa cơ quan nhà
nước và công dân nhằm trao đổi, chia sẻ thông tin giữa công dân và người tiếp
công dân trên cơ sở quy định của pháp luật.
* Đặc điểm: Cụm từ “ tiếp dân” hiện nay đang ngày càng trở nên quen thuộc và
cần thiết trong sinh hoạt đời sống xã hội. Có thể nói, đây là cấu nối để lãnh đạo
chính quyền, cán bộ nhà nước gần và sát dân hơn. Thông qua các buổi tiếp dân,
cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn
khoăn, trăn trở của nhân dân, từ đó có biện pháp giải quyết hợp tình hợp lý, tạo
được niềm tin trong nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền
các cấp.
Để hỗ trợ cho công tác tiếp dân đạt hiệu quả cao, bám sát công việc, vì lợi
ích chung, không ngại va chạm với lợi ích cục bộ, thiểu số. Xử lý các đơn thư
trực tiếp, các sự việc mà đài, báo nêu, không để tồn đọng.
Không mang nặng tính hình thức, thủ tục tiếp dân rườm rà, không đúng
hẹn. Tiếp dân mà để dân ra về trong lòng không thoả mãn, không “tâm phục
khẩu phục”. Làm thế nào khi người dân ra về, dù không đạt được kết quả như ý
muốn ban đầu (vì các kiến nghị không phải lúc nào cũng chính đáng) nhưng họ
vẫn không có điều gì phiền trách cán bộ tiếp dân.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 6


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Tùy trường hợp, người cán bộ lãnh đạo phải thật tỉnh táo, tránh nóng giận,
điềm tĩnh giải thích, giải quyết có tình có lý. Cần thiết phải có biện pháp trấn áp
thích đáng đáng nhưng phải đảm bảo không vi phạm pháp luật.
Công tác tiếp dân sẽ phát huy hiệu quả khi lãnh đạo sâu sát, có tâm, có tầm, có

trách nhiệm,dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân.
Đồng thời cũng cần lên án tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, việc thuộc thẩm
quyền ở cấp xã, phường lại không chịu tiếp dân để giải quyết mà đùn đẩy lên
huyện, huyện lại đùn đẩy lên tỉnh. Kết quả là vụ việc kéo dài, người dân phải vất
vả, tốn kém thời gian, có khi cả tiền bạc một cách không đáng có. Và trên hết
việc tiếp dân phải dựa trên cơ sở những chủ trương, quy định mang tính xuyên
suốt và cơ bản của nhà nước cấp trung ương và địa phương, không “đao to búa
lớn” không “quan trọng hoá” vấn đề, làm cho dân lo, dân sợ và cũng tránh xuê
xoa, tuỳ tiện trong giải quyết các vướng mắc, tồn đọng, làm ảnh hưởng đến việc
triển khai các chủ trương, chính sách chung.
2. Khái niệm, đặc điểm giải quyết khiếu nại, tố cáo:
2.1 Khái niệm:
Khiếu nại và tố cáo rất khác nhau, việc phân biệt giữa khiếu nại với tố cáo
có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp công dân thực hiện quyền khiếu nại,
quyền tố cáo của mình đúng thủ tục và đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo; đồng thời giúp cho cơ quan nhà nước giải quyết khiếu nại, tố
cáo nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tránh nhầm lẫn, sai sót trong khi giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Do đó, ngày 11 tháng 11 năm 2011, Quốc hội Khóa 13 đã
thông qua Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, 02 Luật này đều có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2012 và thay thế Luật Khiếu nại, tố cáo. Đây là lần đầu tiên khiếu
nại, tố cáo được tách thành 02 Luật và quy định cụ thể về khái niệm, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết quyết rất khác nhau.
Về khiếu nại: Theo quy định của Luật Khiếu nại “Khiếu nại là việc công dân,
cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” (Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại).
Trong đó, quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật cán

bộ, công chức được định nghĩa như sau:
- Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về
một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng
một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể (Khoản 8 Điều 2 Luật Khiếu
nại);
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 7


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

- Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (Khoản 9 Điều 2 Luật Khiếu
nại);
- Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ
chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức
(Khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại).
Về tố cáo: Theo quy định của Luật Tố cáo quy định: “Tố cáo là việc công dân
theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo). Tố
cáo được chia làm 02 loại như sau:
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên
chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ (Khoản 2 Điều 2 Luật Tố cáo);

- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là
việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp
hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực (Khoản 3 Điều
2 Luật Tố cáo).
Có thể nói rằng, đây chính là những cơ sở pháp lý cần thiết để công dân tự bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước những hành vi trái pháp luật của cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Đồng thời cũng là
căn cứ pháp lý để người dân thực hiện tốt quyền làm chủ và giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, góp phần làm trong sạch bộ máy nhà nước đồng thời
cũng qua đó phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện
đúng bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.
2.2 Đặc điểm:
Đặc điểm cơ bản của khiếu nại là trong đó bao giờ cũng hàm chứa những
dữ liệu chứng tỏ sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền là lợi ích được pháp luật
bảo vệ, cho nên việc khiếu nại không phải là việc mang tính phòng ngừa mà là
việc bảo vệ một cách tích cực quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức
cụ thể hơn:
- Mọi công dân có quyền khiếu nại và tố cáo.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 8


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

- Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp trong nội bộ nhân dân
trước khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó
nhằm hạn chế khiếu nại phát sinh từ cơ sở.

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của
mình cí trách nhiệm tiếp người đến khiếu nại tố cáo; tiếp nhận và giải quyết kịp
thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo; xử lí ngiêm minh người vi phạm.
- Người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết hoặc cố
tình giải quyết trái pháp luật phải bị xử lí ngiêm minh, nếu gây thiệt hại phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
- Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân coi trọng.
- Người bị thiệt hại được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại, được
bồi thường thiệt hai theo quy định của pháp luật.
- Khiếu nại, tố cáo do cơ quan báo chí chuyển đến phải đc cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét và giải quyết ngay.
- Nghiêm cấm việc thực hiện mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo; trả thù, đe dọa, trù dập người khiếu nại, tố cáo; tiết lộ họ tên, địa chỉ,
bút tích người khiếu nại, tố cáo, cố tình không giải quyết hoặc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trái pháp; can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo; kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người khác khiếu nại, tố cáo sai sự
thật; đe dọa, xúc phạm ng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 1, 3,
5, 6, 7, 8, 13, 15, 16 Luật Khiếu nại, Tố cáo)
II. NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TIẾP
CÔNG DÂN VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO.
1. Những nội dung cơ bản trong tổ chức tiếp công dân:
Ngày 25/11/2013 Quốc hội thông qua Luật Tiếp công dân gồm 9 chương, 36
điều; có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014.
1.1 Về trách nhiệm tiếp công dân (Điều 4)
Luật đã quy định một cách đầy đủ về các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách
nhiệm tiếp công dân. Theo đó, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức tiếp
công dân bao gồm:
- Chính phủ;
- Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức tương đương; cục;

- Ủy ban nhân dân các cấp;
- Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh;
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 9


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

- Các cơ quan của Quốc hội;
- Hội đồng nhân dân các cấp;
- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm tiếp
công dân theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức chính trị,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thuộc
Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức việc tiếp công dân phù hợp với
yêu cầu, quy mô, tính chất hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
1.2 Về trách nhiệm của người tiếp công dân (Điều 8)
Luật cũng quy định về trách nhiệm của người tiếp công dân, đó là:
- Khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có
đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định.
- Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ
hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày
rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài
liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc.
- Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người

đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày.
- Giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải
quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm
quyền giải quyết.
- Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh cho công dân.
- Yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm;
trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan
chức năng xử lý theo quy định của pháp luật.
Các quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong
hoạt động tiếp công dân, đồng thời đảm bảo thiết lập trật tự kỷ cương tại nơi
tiếp công dân và ngăn chặn trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để
gây rối trật tự công cộng.
1.3 Những trường hợp được từ chối tiếp công dân (Điều 9):
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 10


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Người tiếp công dân được từ chối tiếp người đến nơi tiếp công dân trong các
trường hớp sau:
Người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình; người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người
tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi
tiếp công dân; người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về vụ việc đã giải

quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm
tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn
nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh kéo dài và những
trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
1.4 Về Trụ sở tiếp công dân, việc tiếp công dân ở cấp xã (Từ Điều 10 đến
Điều 15)
Trụ sở tiếp công dân là nơi để công dân trực tiếp đến khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh với lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương hoặc lãnh đạo Đảng,
chính quyền ở địa phương; có đại diện của một số cơ quan, tổ chức tại trung
ương hoặc địa phương tham gia tiếp công dân thường xuyên và là nơi để lãnh
đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương hoặc địa phương trực tiếp tiếp công dân trong
những trường hợp cần thiết.
+ Trụ sở tiếp công dân bao gồm:
- Trụ sở tiếp công dân ở Trung ương;
- Trụ sở tiếp công dân ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- Trụ sở tiếp công dân ở quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh.
Ban tiếp công dân được thành lập để trực tiếp quản lý Trụ sở tiếp công dân ở
mỗi cấp; phối hợp cùng đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan tổ chức, thực
hiện việc tiếp công dân thường xuyên tại Trụ sở tiếp công dân. Ban tiếp công
dân trung ương thuộc Thanh tra Chính phủ, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý
các Trụ sở tiếp công dân ở Trung ương. Ban tiếp công dân cấp tỉnh do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thành lập, trực thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, do
một Phó Chánh Văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý Trụ sở
tiếp công dân cấp tỉnh. Ban tiếp công dân cấp huyện do Ủy ban nhân dân cấp
huyện thành lập, trực thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
cấp huyện, do một Phó Chánh Văn phòng phụ trách, chịu trách nhiệm trực tiếp
quản lý Trụ sở tiếp công dân cấp huyện.
Ở cấp xã, việc tiếp công dân của cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp xã được thực hiện tại trụ sở Ủy ban nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã trực tiếp phụ trách công tác tiếp công dân.

2. Những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết khiếu nại, tố
cáo:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 11


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Những quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong Luật Khiếu nại, tố
cáo số 09/1998/QH10 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số
26/2004/QH11 và Luật số 58/2005/QH11 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật
này có hiệu lực.
Luật Khiếu nại được xây dựng trên cơ sở tách ra từ Luật Khiếu nại, tố cáo
hiện hành nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện
hành, đáp ứng yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay. Đồng
thời, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền
khiếu nại, đề cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong
việc giải quyết khiếu nại, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại và hiệu lực công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã
hội.
Luật Khiếu nại gồm 8 chương, 70 điều. Kế thừa quy định của Luật Khiếu
nại, tố cáo hiện hành, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước;
khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; tiếp công
dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại (Điều 1). Như vậy, so với
Luật Khiếu nại, tố cáo thì Luật Khiếu nại đã quy định rõ hơn về phạm vi điều
chỉnh. Ngoài ra, để tạo cơ sở hướng dẫn về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong các cơ quan, tổ chức; khiếu nại của tổ chức, cá nhân nước ngoài, khiếu nại
trong các đơn vị sự nghiệp công lập, trong doanh nghiệp nhà nước... Luật quy

định các cơ quan, tổ chức nói trên được hướng dẫn và áp dụng các quy định của
Luật Khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền (Điều 3).
Trình tự khiếu nại được đổi mới so với Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Theo
quy định của Luật thì khiếu nại lần đầu, người khiếu nại có quyền khiếu nại trực
tiếp đến người có quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc có quyền khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án, không nhất thiết phải khiếu nại với người có
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại như trước đây. Việc khởi
kiện vụ án hành chính tại Tòa án vẫn có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào
trong quá trình giải quyết khiếu nại (Điều 7).
Một nội dung mới đáng chú ý là để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cần giải quyết
khiếu nại của nhiều người về cùng một nội dung, Luật Khiếu nại đã bổ sung quy
định mới về trường hợp nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung. Theo đó,
nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung mà khiếu nại trực tiếp thì cơ quan
có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình
bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi nhận nội dung khiếu nại.
Nếu nhiều người khiếu nại bằng đơn thì đơn phải có chữ ký của những người
khiếu nại và phải cử đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết
khiếu nại (khoản 4 Điều 8). Đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định về việc ra
quyết định giải quyết khiếu nại trong trường hợp này (khoản 3 Điều 31).
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 12


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Luật Khiếu nại quy định cụ thể hơn quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại,
người bị khiếu nại, người giải quyết khiếu nại và luật sư trên cơ sở kế thừa các
quy định còn phù hợp của Luật Khiếu nại, tố cáo và bổ sung các quyền, nghĩa vụ
này nhằm bảo đảm sự phù hợp với trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu
nại. Cụ thể là:

Đối với người khiếu nại, Luật Khiếu nại đã quy định người khiếu nại có
quyền được ủy quyền cho luật sư, trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Người khiếu nại cũng được biết, đọc, sao
chụp, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu
thập để giải quyết khiếu nại; được yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại,
cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình để giao nộp cho người giải quyết khiếu
nại.
Đối với người bị khiếu nại, có quyền được biết, đọc, sao chụp, sao chép
và xem các tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải
quyết khiếu nại; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ,
quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại, cung cấp thông tin,
tài liệu đó cho mình để giao cho người giải quyết khiếu nại; đồng thời phải chấp
hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật; bồi
thường hoặc bồi hoàn thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật của mình gây ra.
Đối với luật sư, trợ giúp viên pháp lý có quyền tham gia vào quá trình
giải quyết khiếu nại; thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại khi
được ủy quyền; xác minh, thu thập chứng cứ có liên quan đến nội dung khiếu
nại và cung cấp chứng cứ cho người giải quyết khiếu nại; được nghiên cứu hồ sơ
vụ việc, ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ việc để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
Kế thừa quy định hiện hành, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc về người có quyết định hành chính, hành vi
hành chính, khiếu nại lần hai do Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người
có thẩm quyền giải quyết lần đầu giải quyết, từ Điều 17 đến Điều 26. Đáng chú
ý là Luật đã xác định rõ trách nhiệm giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải
quyết khiếu nại giữa các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của mình, của
Chủ tịch UBND tỉnh, Bộ trưởng và Thủ tướng Chính phủ, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại hành chính.

Trên tinh thần của Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành về thụ lý giải quyết
khiếu nại; thời hạn, thời hiệu khiếu nại và giải quyết khiếu nại; thẩm tra, xác
minh; thu thập tài liệu liên quan... đến việc ra quyết định giải quyết khiếu nại,
Luật Khiếu nại bổ sung một số quy định mới về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu
nại cho phù hợp với thực tiễn, theo hướng đơn giản, công khai, dân chủ, kịp
thời, tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại. Đặc biệt là Luật quy định việc
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 13


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

gặp gỡ, đối thoại trong trường hợp cần thiết và có thể mời đại diện tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan tham dự. Đối với những
vụ việc phức tạp, trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại, nếu thấy cần thiết
người giải quyết khiếu nại có thể thành lập Hội đồng tư vấn để tham khảo ý kiến
làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại.
Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật cũng là nội dung
mới của Luật Khiếu nại. Việc quy định thi hành quyết định giải quyết khiếu nại
trong Luật là nhằm bảo đảm các quyết định giải quyết khiếu nại được thực hiện
nghiêm chỉnh. Vì vậy, Mục 4 Chương III đã xác định những người có trách
nhiệm thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật và việc thi
hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật,
nhất là khi Luật Cán bộ, công chức chưa quy định cụ thể về khiếu nại và giải
quyết khiếu nại kỷ luật cán bộ, công chức, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định về
khiếu nại và giải quyết khiếu nại này. Tuy nhiên, do tính đặc thù của nền hành
chính, đòi hỏi việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại kỷ luật đối với cán bộ, công
chức phải theo một trình tự, thủ tục phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý
cán bộ, công chức. Vì vậy, kế thừa Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Khiếu nại quy

định người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức
theo phân cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do
mình ban hành. Trường hợp còn khiếu nại tiếp thì người đứng đầu cơ quan cấp
trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có thẩm quyền và
trách nhiệm giải quyết. Đồng thời, xác định Bộ trưởng Nội vụ có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại (Điều 51).
Đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở
xuống bị kỷ luật buộc thôi việc, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được quyết định giải quyết tiếp theo, nếu không đồng ý với quyết định giải
quyết đó thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của
Luật Tố tụng hành chính (Điều 56). Ngoài ra, Luật Khiếu nại cũng có những
quy định mới về thời hiệu khiếu nại; hình thức khiếu nại; thời hạn thụ lý và giải
quyết khiếu nại; xác minh nội dung khiếu nại; tổ chức đối thoại... (từ Điều 48
đến Điều 58).
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Khiếu nại dành
một chương quy định về trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân; quyền,
nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại trụ sở tiếp công
dân, địa điểm tiếp công dân; trách nhiệm tiếp công dân của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức; trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân, người phụ trách trụ sở tiếp
công dân, đồng thời giao cho Chính phủ hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 14


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Luật Khiếu nại tiếp tục quy định Chính phủ thống nhất quản lý về công tác

giải quyết khiếu nại và giao cho Thanh tra Chính phủ giúp Chính phủ quản lý
nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại. Các bộ, ngành và ủy ban nhân dân
các cấp quản lý nhà nước về khiếu nại trong thẩm quyền quản lý của mình. Cơ
quan thanh tra của các bộ, ngành và địa phương chịu trách nhiệm và giúp các bộ,
ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về khiếu nại (Điều 63).
Đồng thời, quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ
tịch nước, các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội trong công tác giải quyết khiếu nại; việc phối hợp trong công tác giải
quyết khiếu nại; việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên đối với công tác giải quyết khiếu nại (Điều 64, 65 và Điều 66).
Về xử lý vi phạm, để các quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại được
thực hiện nghiêm túc, khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc xử lý vi
phạm về khiếu nại, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định việc xử lý vi phạm thành
một chương riêng. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ
khiếu nại và giải quyết khiếu nại nếu có sai phạm thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định
của pháp luật.
III. Ý NGHĨA , VAI TRÒ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN,
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO.
Trong lịch sử loài người; ở mỗi chế độ đều có mỗi quan niệm về việc tiếp
công dân khác nhau. Riêng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Đảng và Nhà nước luôn luôn có quan niệm đúng
đắn về việc tiếp công dân. Xem việc tiếp công dân là bước đầu giải quyết khiếu
nại; tố cáo của công dân trong hoạt động quản lý Nhà nước và bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể, của nhân dân. Quan niệm này
của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau:
- Tiếp công dân là thể hiện quan điểm “dân là gốc” của Đảng và Nhà nước ta
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã để lại cho chúng ta một
bài học vô cùng quý giá “dân là gốc”.

Thực vậy, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, mọi vấn đề liên quan đến vận
mệnh của dân tộc đều do dân quyết định. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định:
“Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử”. Với vai trò “dân là
gốc” Đảng và Nhà nước ta vô cùng coi trọng và quan tâm đến việc tiếp công
dân. Qua đó nắm bắt kịp thời các thông tin để lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều
hành Nhà nước ngày một tốt hơn, nhằm đưa đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước thành hiện thực.
- Tiếp công dân là tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội. Tổ chức tốt công tác tiếp dân là biểu hiện cụ thể quan
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 15


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

điểm “dân là gốc” của Đảng và Nhà nước ta. Thông qua công tác tiếp dân, mối
quan hệ máu thịt giữa dân với Đảng, Nhà nước càng gắn bó hơn, để Đảng và
Nhà nước hiểu dân hơn và để cho nhân dân hiểu rõ hơn về Đảng, Nhà nước, về
phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức.
Thông qua việc tiếp dân, các cơ quan Nhà nước nắm được tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước để kịp thời chấn chỉnh, bổ sung, sửa đổi hoặc huỷ bỏ các nội dung
không còn phù hợp. Đồng thời Đảng và Nhà nước nắm được tình hình thực hiện
chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các địa phương, nắm được phẩm chất,
năng lực của cán bộ, công chức. Qua đó để nâng cao, hoàn thiện công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý trong tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước.
- Tiếp công dân là bước đầu giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
Tiếp công dân là một khâu rất quan trọng đầu tiên trong quá trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Vì công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở các cấp, các

ngành luôn luôn dựa vào dân để nhân dân cung cấp những thông tin cần thiết
phục vụ cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phù hợp với thực tiễn hoạt động
của địa phương, đơn vị.
Thực tiễn cho thấy, nếu tổ chức tốt công tác tiếp dân; tiếp dân có hiệu quả
thì hạn chế rất nhiều việc công dân khiếu nại tố cáo tiếp theo. Nếu trong tiếp dân
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền không quan tâm
giải quyết thoả đáng các khiếu nại tố cáo, thỉnh cầu của dân, thì dân vẫn khiếu
kiện tiếp và khiếu kiện vượt cấp.
1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo:
1.1 Tiếp công dân
Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng, Nhà
nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Thông qua việc
tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được các khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực hiện chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý, khắc phục
kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất Nhà nước của dân,
do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp cho Đảng và Nhà nước tiếp
nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc
sống, từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác này, thời gian qua, Đảng
và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về tiếp
công dân; các cơ quan, tổ chức đã triển khai, thực hiện có hiệu quả công tác này.
Chính vì vậy, công tác tiếp công dân đã thu được những kết quả nhất định: các
cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đã nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiệm tiếp
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 16



Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, coi đây là một trong những nhiệm vụ
chính trị của mình; nhiều đồng chí lãnh đạo đã trực tiếp tiếp công dân theo quy
định, từng bước khắc phục tình trạng khoán trắng cho một số cơ quan chuyên
môn; tổ chức đối thoại, chỉ đạo giải quyết các vụ việc phức tạp ngay từ nơi phát
sinh; chấn chỉnh những việc làm sai trái của cán bộ, cơ quan cấp dưới; hướng
dẫn công dân thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Nhiều nơi đã thành lập Trụ sở, ban hành nội quy, quy chế tiếp công
dân, bố trí công chức làm nhiệm vụ tiếp công dân, đầu tư cơ sở, trang thiết bị
cho Trụ sở, công tác tiếp công dân đã dần dần đi vào nề nếp. Hàng năm, Trụ sở
tiếp công dân đã tiếp và hướng dẫn hàng trăm lượt người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh, trong đó có nhiều đoàn khiếu kiện đông người, phức tạp.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, công tác tiếp công dân của các cấp, các
ngành và Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước còn có những
hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, cụ thể là:
a) Lãnh đạo một số cơ quan, tổ chức chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan
trọng của công tác tiếp công dân, chưa quan tâm đúng mức đến công tác này,
chưa đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
b) Việc tiếp công dân còn hình thức, chưa hiệu quả; có nơi còn biểu hiện thiếu
tinh thần trách nhiệm, thái độ không đúng mực đối với người dân đến khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh; tình trạng né tránh trách nhiệm, hướng dẫn công dân
không đúng quy định vẫn còn xảy ra;
c) Tên gọi, mô hình tổ chức của tổ chức tiếp công dân, cơ cấu thành phần tại
nơi tiếp công dân; số lượng cán bộ, điều kiện làm việc, chế độ chính sách đối
với công chức tiếp công dân còn thiếu thống nhất từ Trung ương đến địa
phương. Việc phối, kết hợp giữa Trụ sở tiếp công dân ở Trung ương với địa
phương, giữa các cơ quan, tổ chức thường trực tại Trụ sở tiếp công dân; giữa
Trụ sở tiếp công dân với các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cũng thiếu chặt chẽ; ở một số nơi, việc tiếp công
dân chưa gắn với giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tiếp
công dân ở Trụ sở chưa gắn với theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc tiếp thu, xem
xét, giải quyết của các cơ quan, tổ chức;
d) Trong hoạt động tiếp công dân, chưa phân định rõ việc tiếp công dân đến
khiếu nại, tố cáo với kiến nghị, phản ánh; chưa quy định rõ việc tiếp công dân
của người đứng đầu với việc tiếp công dân của công chức, giữa việc tiếp công
dân thường xuyên với việc tiếp công dân theo yêu cầu khẩn thiết đối với vụ việc
phức tạp, có nhiều người tham gia;
đ) Chế độ thông tin về tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại Trụ sở
tiếp công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được đầy đủ, kịp thời; công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân
chưa được quan tâm đúng mức;
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 17


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

e) Đội ngũ công chức làm công tác tiếp công dân nhiều nơi chưa đáp ứng yêu
cầu, còn hạn chế về hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm quản lý, khả năng giao tiếp,
phương pháp vận động, thuyết phục quần chúng. Công tác đào tạo chuyên môn
cho công chức làm công tác tiếp công dân chưa được quan tâm đúng mức; chế
độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức làm công tác tiếp công dân còn nhiều
bất cập.
Những tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là
chưa có văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực tiếp công dân.
Thông qua hoạt động tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp
nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến

việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp
xử lý, khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất
Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước; giúp cho Đảng, Nhà nước tiếp nhận được những thông tin
phản hồi từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống, từ đó đề ra những chủ
trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân.Nhận thức được vấn đề trên, các cấp
Uỷ đảng, chính quyền Sở Tài nguyên và Môi trường đã có nhiều cố gắng, nỗ
lực, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực thực hiện chức năng, nhiệm vụ tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thực hiện Luật Tiếp công dân,nghị quyết của Đảng, Chỉ thị số 35-CT/TW
ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, vừa
cấp bách, vừa lâu dài, phải gắn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với công tác
quản lý hành chính nhà nước.
1.2 Giải quyết khiếu nại, tố cáo:
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, cơ quan, tổ chức. Đó chính là biện pháp nhằm bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân, qua đó bảo vệ, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của họ
khi bị xâm hại, đồng thời xử lý kịp thời, chính xác, nghiêm minh các hành vi trái
pháp luật, thể hiện đúng bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy, phần lớn khiếu nại, tố cáo của công dân nảy
sinh từ xã, phường, thị trấn. Là cơ quan quản lý toàn diện kinh tế -xã hội ở cơ
sở, Uỷ ban nhân dân cấp xã giữ vai trò, trách nhiệm rất lớn trong công tác này,
đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, chính xác, khách quan trên cơ sở quy định
của pháp luật. Để hạn chế đến mức thấp nhất những khiếu kiện, Uỷ ban nhân
dân cấp xã phải làm tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ đồng thời không ngừng tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, thực
hiện tốt công tác dân vận, có như vậy mới thực sự gần dân. Khi có khiếu nại, tố

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 18


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

cáo phát sinh, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải giải quyết kịp thời, đúng pháp luật
sẽ sớm chấm dứt vụ việc, ngược lại nếu không giải quyết ngay, hoặc giải quyết
không đúng thì vụ việc sẽ trở lên phức tạp, tiếp khiếu lên cấp trên hoặc phát sinh
thành điểm nóng, gây mất ổn định, ảnh hưởng xấu đến sự đoàn kết của cộng
đồng dân cư, bỏ lọt tội phạm, thiệt hại về tính mạng, tài sản, danh dự, uy
tín… của công dân và Nhà nước. Chính vì vậy mà Uỷ ban nhân dân cấp xã cần
hết sức coi trọng và làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở thuộc
phạm vi trách nhiệm của mình.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở góp phần khôi phục lại những
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, mặt khác kịp thời phát hiện và xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn kỷ cương, trật tự tại cơ sở, tạo
lòng tin của người dân vào chính quyền và cơ quan quản lý Nhà nước nơi mình
đang sinh sống và lao động, động viên nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý
nhà nước, thúc đẩy mọi người hoàn thành tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước và
xã hội. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác này và không
ngừng đẩy mạnh, nâng cao tính hiệu quả của nó. Ngoài ra, thực hiện tốt công tác
này còn giúp các cơ quan Nhà nước kịp thời phát hiện những sai lầm, hạn chế
trong hoạt động của mình để uốn nắn, sửa chữa nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước. Bên cạnh đó, để hạn chế những khiếu kiện, cấp cơ sở cũng cần
thường xuyên kiểm tra, xem xét những hoạt động quản lý của mình. Chính vì
những lẽ đó, Điều 3 của Luật khiếu nại, tố cáo đã quy định:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của mình, nếu thấy trái
pháp luật thì kịp thời sửa chữa khắc phục để tránh phát sinh khiếu nại”.

Thực tiễn cũng cho thấy nếu vụ việc xảy ra mà cấp cơ sở kịp thời xem xét và
giải quyết đúng chính sách, pháp luật có lý có tình thì người dân đồng tình chấp
thuận và chấm dứt khiếu nại ngay từ cơ sở. Nếu cấp cơ sở không giải quyết hoặc
giải quyết không đúng thì người dân khiếu nại lên cấp trên, sự việc sẽ trở lên
căng thẳng, phức tạp và khó giải quyết. Do đó, đặt ra yêu cầu đối với chính
quyền cấp cơ sở là cần phải giải quyết nhanh gọn, dứt điểm, đúng pháp luật
không để vụ việc dây dưa, kéo dài hay đùn đẩy lên cơ quan nhà nước cấp trên.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành được
thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước nhằm thi hành pháp luật và tổ
chức, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
các hoạt động khác nhau để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý
hành chính nhà nước. Trong đó, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một
trong những hoạt động quản lí nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước.
Giải quyết khiếu nại và tố cáo có những vai trò sau:
+ Một là, thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, cơ quan hành chính
nhà nước cấp trên có thể kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động của cấp dưới.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 19


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém và xử lí hành
vi vi phạm pháp luật để xây dựng một nền hành chính vững mạnh, trong sạch,
chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
+ Hai là, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo là một hoạt động bảo đảm pháp
chế trong quản lí nhà nước, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích của nhà Nước, xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương, trật
tự pháp luật, xử lí những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động giải

quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước trước hết phải tuân
theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Ba là, thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vừa bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh,
trí tuệ của nhân dân trong việc tham gia quản lí nhà nước, vừa bảo đảm kỷ
cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính
nhà nước.
+ Ngoài ra, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn có vai trò bảo đảm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, nâng cao hoạt động quản lý hành chính nhà nước và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước
và nhân dân và đây cũng là một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thì các cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Giải quyết tốt, có hiệu quả khiếu nại, tố cáo là nhân tố tích cực tác
động trở lại với hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà
nước.
1.2.1 Khiếu nại:
* Người khiếu nại:
Tự mình khiếu nại; trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên,
người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc
khiếu nại; trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể
chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ
quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người
khác để khiếu nại;
- Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại;
- Biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra bằng chứng
về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;
- Nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; biết thông tin, tài

liệu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; nhận quyết định giải quyết khiếu nại;
- Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật;
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 20


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

- Khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính;
- Rút khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại.
2- Người khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:
- Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;
- Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải
quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc
cung cấp các thông tin, tài liệu đó;
- Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực
pháp luật.
* Thời hiệu:
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính
hoặc biết được có hành vi hành chính.
Trong các trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở
nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực
hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó
không tính vào thời hiệu khiếu nại.
* Để thực hiện việc khiếu nại, người khiếu nại phải khiếu nại đến:
- Người khiếu nại lần đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định hành
chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính mà người khiếu
nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,

lợi ích hợp pháp của mình.
- Trong thời hạn 30 ngày (đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì có thể
kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày), kể từ ngày hết thời hạn giải quyết mà
khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành
chính tại Toà án;
Trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch UBND
cấp tỉnh thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân cấp tỉnh,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Trong trường hợp việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn
khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu
nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu
nại và yêu cầu của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký
tên.
- Trong trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì cán bộ có trách
nhiệm phải hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung theo
quy định nói trên, có chữ ký của người khiếu nại.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 21


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

* Những trường hợp khiếu nại không được thụ lý để giải quyết:
Khiếu nại thuộc một trong các trường hợp sau đây không được thụ lý để giải
quyết:
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan
trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;

- Người khiếu nại không có năng lực hành vi đầy đủ mà không có người đại
diện hợp pháp;
- Người đại diện không hợp pháp;
- Thời hiệu khiếu nại, thời hạn khiếu nại tiếp đã hết.
- Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- Việc khiếu nại đã được Toà án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản án, quyết
định của Toà án.
* Thời hạn giải quyết khiếu nại:
- Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày (đối với vụ việc
phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày), kể từ ngày thụ lý để
giải quyết;
ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu
không quá 45 ngày (đối với vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không
quá 60 ngày), kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
- Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày (đối với vụ việc
phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày), kể từ ngày thụ lý để
giải quyết;
ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai
không quá 60 ngày (đối với vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài hơn nhưng không
quá 70 ngày), kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
1.2.2 Tố cáo:
* Người tố cáo:
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức.
Khi thực hiện việc tố cáo, người tố cáo có các quyền và nghĩa vụ được pháp
luật quy định, cụ thể:
+ Người tố cáo có các quyền sau đây:
- Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;

- Yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của mình;
- Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 22


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả
thù.
+ Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
- Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
- Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
* Thủ tục giải quyết tố cáo:
- Người tố cáo phải gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo; nội dung tố cáo.
Trong trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người có trách nhiệm tiếp
nhận phải ghi lại nội dung tố cáo, họ, tên, địa chỉ của người tố cáo, có chữ ký
của người tố cáo.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo phải giữ bí mật
cho người tố cáo; không được tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và
các thông tin khác có hại cho người tố cáo.
- Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá
nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp tố cáo không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo khi họ yêu cầu.
Trong trường hợp cấp thiết, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo phải
báo ngay cho cơ quan có trách nhiệm để áp dụng biện pháp ngăn chặn kịp thời
hành vi vi phạm pháp luật; áp dụng biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn cho

người tố cáo khi họ yêu cầu.
- Thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải
quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn, nhưng
không quá 90 ngày, kể từ ngày thụ lý để giải quyết.
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp
luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết thì người tố
cáo có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết
tố cáo; thời hạn giải quyết được thực hiện như đã nêu trên.
* Những hành vi liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại tố
cáo bị pháp luật nghiêm cấm:
Pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo; đe doạ, trả thù, trù dập người khiếu nại, tố cáo; tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút
tích của người tố cáo; cố tình không giải quyết hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trái pháp luật; bao che người bị khiếu nại, tố cáo; can thiệp trái pháp luật vào
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; kích động, cưỡng ép, dụ dỗ, mua chuộc người
khác khiếu nại, tố cáo sai sự thật; đe dọa, xúc phạm người có trách nhiệm giải
quyết khiếu nại, tố cáo; lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống,
gây rối trật tự.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 23


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức,
cá nhân thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì
thuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính,
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định

của pháp luật.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 24


Báo cáo thực tập – Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồ Xuân Thắng

Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TIẾP
CÔNG DÂN VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRÊN ĐỊA BÀN
XÃ EA BHỐK, HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐĂK LĂK. TỪ NĂM 2010 ĐẾN
NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
I. Giới thiệu tổng quan về quá trình hình thành, phát triển của xã Ea Bhốk,
huyện Cư Kuin, Tỉnh Đăk Lăk
Xã Ea Bhốk là một xã của huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm
Thành phố Buôn Ma Thuột 19 km. Có tổng diện tích tự nhiên là 4.200 ha. Phía
Đông tiếp giáp xã Hòa Hiệp, Phía Tây tiếp giáp xã Ea Hu, Phía Nam giáp xã
Đrây Bhăng, Phía Bắc giáp xã Ea Tur. Toàn xã có 17 thôn, buôn; trong đó có 9
thôn và 8 buôn đồng bào dân tộc tại chỗ.
Vùng này trước đây các buôn đồng bào người dân tộc Êđê sống du canh
du cư. Đất bằng phẳng với rừng đại ngàn cổ thụ cao lớn. Địa hình khá hiểm trở,
thú rừng chim chóc phong phú. Việc đi lại chủ yếu dùng voi và đi bộ tính
khoảng cách bằng ngày đường.
Khoảng 1954-1956 một số hộ di dân từ miền Bắc vào hình thành dần các
ngôi làng, sống láng giềng với các buôn người Êđê. Họ khai hoang núi rùng phát
nương làm rẩy, làm ruộng nơi trũng. Đồng bào dân tộc tại chỗ cũng ổn định định
cư cùng người kinh. Phần khai hoang chỉ canh tác vào mùa mưa, vào khô bắt
đầu có các thảo nguyên cỏ tranh, cỏ gấu, cây bớp bớp. Dân số trước và sau năm
1975 dần được tăng lên chủ yếu tăng theo cơ học. Các đồn điền cao su, cà phê

bắt đầu được trồng trên diện tích rộng. Quanh các đồn điền này có các dãy nhà
công nhân lao động, bảo quản đồn điền. Phần còn lại vẫn rừng núi, rừng cổ thụ,
suối nước, hồ rộng. Đất đai hoang sơ nhiều tre, nứa, lồ ô, một số ít đất quảng
canh làm lúa rẩy của đồng bào Êđê và các đồn điền Cà phê, cao su. Sau 1975
thực hiện kế hoạch đi kinh tế mới, người dân di cư vào lập các nông trường quốc
doanh cao su và cà phê. Thời kỳ đầu đang còn nhiều khó khăn, vì phải khai
hoang gần như mới hoàn toàn diện tích. Săn bắn, xẻ gỗ đã trở thành một nghề
của một số người. Công nhân của các nông trường làm việc tập trung theo chế
độ bao cấp, trồng mới được nhiều diện tích cà phê, số ít điện tích được tiếp quản
và phát triển từ các đồn điền cà phê cũ.
Trong khoảng thời gian ngắn đã có nhiều thay đổi diện tích trồng mới
phát triển liên tục, giao thông thủy lợi được mở rộng. Nhờ diện tích rộng địa
hình bằng phẳng do khai hoang chưa sử dụng hết người dân gia tăng chăn nuôi,
bò, trâu, lợn, gà v.v... Lúa rẫy, các loại cây họ đậu được gieo trồng theo mùa của
Tây Nguyên. Trong thập niên 80 thế kỷ 20 xã đã trở thành một nơi Xuất khẩu
Hồ tiêu, Cà phê, Lúa của huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Các xã phía đông nam vẫn là núi rừng mênh mông. Dân di cư từ các vùng miền
đông dần, tỉnh phải tiến hành thành lập xã mới. Cây trồng chủ yếu lúa nước và
các cây lương thực ngắn ngày, sản lượng lương thực theo kiểu tự cung tự cấp.
Cây công nghiệp thích hợp với cây điều nhiều hơn, các cây khác diện tích chiếm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quang Hưng; Lớp Luật 21102
Trang 25


×