TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC KHĨA TRÌNH
LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI 1917 – 1945
(LỊCH SỬ 11 - NÂNG CAO)
Giáo viên hướng dẫn
: ThS. Nguyễn Thị Hà
Sinh viên thực hiện
: Phan Thị Phương Thảo
VINH – 2011
1
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành đề tài này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sĩ Nguyễn
Thị Hà đã tận tình giúp đỡ tơi thực hiện đề tài này.
Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Phương
pháp dạy học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hồn thành khóa luận.
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Phan Thị Phương Thảo
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Luật giáo dục 2005 quy định: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[11,8].
Trong những môn được lựa chọn giảng dạy ở trường phổ thơng thì
Lịch sử là một bộ mơn có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Bởi “trong
nền văn hóa dân tộc, kiến thức lịch sử khơng chỉ giúp cho việc xây dựng
một biểu tượng chính xác, đầy đủ về quá khứ mà còn làm cho người đang
sống có ý thức về xã hội, suy nghĩ, cảm thụ những gì đã xảy ra trong ngày
qua, rút ra bài học kinh nghiệm Lịch sử để làm tròn trách nhiệm với hiện
tại và tương lai” [14, 25].
Để Lịch sử phát huy hơn nữa ưu thế của mình trong việc giáo dục thế
hệ trẻ thì vấn đề đặt ra là ngày càng phải đổi mới phương pháp, đổi mới
nhận thức sao cho phù hợp với tình hình mới. Đổi mới để khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học.
Tuy vậy đã có một thời gian khá lâu và hiện nay vẫn còn tồn tại dai
dẳng ở một số người quan niệm Lịch sử là một môn học thuần túy lý
thuyết, chỉ là những câu chuyện với kiểu học thuộc lòng, cho rằng học lịch
sử không cần bài tập, không cần thực hành. Do đó mà sao nhãng việc rèn
luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, biến giờ học lịch sử trở nên khơ
khan, khó hiểu. Điều này lý giải vì sao hiện nay rất nhiều học sinh khơng
thích học lịch sử, kiến thức lịch sử của học sinh rất hời hợt.
Thực tế đó cũng đang đặt ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ để tìm ra
biện pháp khắc phục. Quan điểm “học đi đôi với hành” gắn liền giáo dục
với thực tiễn cuộc sống một lần nữa lại được đề cao. Do vậy việc rèn luyện
cho học sinh những kỹ năng thực hành là điều cần thiết. Nó khơng chỉ giúp
3
học sinh tăng hứng thú học tập mà còn rèn luyện cho các em các kỹ năng
để vận dụng vào thực tiễn sau này. Vì thế việc rèn luyện KNTH là một
biện pháp quan trọng để phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực hành
động cho học sinh, làm cho giờ học lịch sử trở nên sinh động hơn.
Để khắc phục tình trạng trên, phát huy được những tích cực trong
việc phát triển, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh cũng như giải
quyết những nhiệm vụ đang đặt ra cho lý luận dạy học bộ môn. Nên tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh
trong dạy học khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” ( Lịch sử 11
- nâng cao).
2. Lịch sử vấn đề:
Xung quanh vấn đề rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong
dạy học lịch sử đã có một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
đề cập đến:
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1 (do Phan Ngọc
Liên chủ biên, NXB Đại học sư phạm, 2002) đã đề cập đến việc phát triển
năng lực thực hành của học sinh trong học tập lịch sử về các mặt như: các
quan niệm về thực hành bộ môn trong dạy học lịch sử; sơ lược các nội
dung cần rèn luyện thực hành cho học sinh; con đường, những biện pháp
phát triển năng lực thực hành cho học sinh. Giáo trình này mới chỉ đề cập
một cách khái quát về thực hành bộ môn chứ chưa đi sâu vào việc rèn
luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong từng khóa trình cụ thể.
Tài liệu “Rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” (do
Nguyễn Thị Côi chủ biên, trường Đại học sư phạm - Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 1995) chủ yếu trình bày việc rèn luyện kỹ năng thực hành cho
sinh viên sư phạm nhưng cũng đã đề cập tới một số kỹ năng thực hành về
các mặt: vị trí, ý nghĩa, yêu cầu của các kỹ năng và cách hướng dẫn học
sinh rèn luyện các kỹ năng đó. Tuy vậy việc rèn luyện kỹ năng thực hành
cho học sinh lại chưa được trình bày kỹ.
Trong các tài liệu nói về kênh hình hay việc sử dụng đồ dùng trực
quan của một số tác giả đã có nhắc tới việc rèn luyện kỹ năng thực hành bộ
4
mơn thơng qua việc thiết kế và trình bày nội dung trên đồ dùng trực quan.
Tuy nhiên lại chưa đề cập một cách cụ thể cách thức rèn luyện cho học sinh
như thế nào.
Ở các tài liệu hướng dẫn giảng dạy như: “Thiết kế bài giảng lịch sử
11”(do Nguyễn Thị Thạch chủ biên, NXB Hà Nội, 2008), sách giáo viên
Lịch sử lớp 11” (do Phan Ngọc Liên - Nguyễn Ngọc Cơ chủ biên, NXB
Giáo dục, 2007)….đã nhắc tới trong từng bài học cụ thể thì cần rèn luyện
cho học sinh những kỹ năng gì thơng qua mục tiêu bài học. Từ đó giáo viên
dựa vào mỗi bài mà rèn luyện kỹ năng cho học sinh mà chủ yếu là các kỹ
năng thực hành bộ môn. Song trong các tài liệu này mới chỉ nêu ra là ở mỗi
bài học cần rèn luyện những kỹ năng nào chứ không đề cập tới nội dung,
cách thức để giúp giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành.
Như vậy cho đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đi sâu,
cụ thể về “Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh trong dạy học khóa
trình Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945 (Lịch sử 11 - nâng cao)” nhằm
phát triển năng lực thực hành cho học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả bài
học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là những kỹ năng
thực hành cơ bản cần rèn luyện cho học sinh trong dạy học khóa trình
“Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11 - nâng cao) nhằm phát
huy tối đa khả năng tư duy sáng tạo của người học.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Mục đích nghiên cứu:
- Qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc dạy học lịch sử
chúng tôi muốn làm rõ thêm ý nghĩa của vấn đề rèn luyện KNTH cho học
sinh trong dạy học lịch sử.
- Tìm hiểu nội dung, vai trị, tác dụng của những kỹ năng thực hành
cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử.
5
- Đề xuất phương pháp rèn luyện KNTH cho học sinh trong dạy học
khóa trình “Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, tăng hứng thú học tập môn lịch sử của học sinh.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết những nhiêm vụ cơ bản
sau:
- Nghiên cứu những tài liệu lý luận và thực tế dạy học ở trường phổ
thông để rút ra những cơ sở của việc rèn luyện KNTH trong dạy học lịch
sử.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa để xác định nội dung cơ
bản làm căn cứ cho việc rèn luyện các KNTH.
- Đề xuất các biện pháp rèn luyện KNTH cho học sinh trong dạy học
khóa trình “Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11- nâng cao).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xác định tính hiệu quả, khả thi
của vấn đề nghiên cứu.
5. Giả thuyết khoa học:
Nếu rèn luyện tốt các KNTH cho học sinh trong dạy học lịch sử khóa
trình “Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11- nâng cao) thì sẽ
nâng cao được hiệu quả của các bài học làm cho bài học lịch sử trở nên
sinh động, gây hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu các tác phẩm lý luận có liên quan đến đề tài, các tác
phẩm của Đảng ta về giáo dục, các cơng trình của các nhà khoa học giáo
dục, lịch sử trong và ngoài nước về việc rèn luyện KNTH cho học sinh
trong dạy học lịch sử.
Nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu hướng dẫn giảng dạy, các tài liệu
lịch sử có liên quan.
- Nghiên cứu thực tiễn:
Điều tra, khảo sát tình hình thực tế của việc rèn luyện KNTH cho
học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT thông qua dự giờ, trao đổi
6
với giáo viên, học sinh. Sau đó tổng hợp xử lý thông tin và rút ra nhận xét
khái quát.
Soạn và thực nghiệm một bài cụ thể trong khóa trình “Lịch sử thế
giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11- nâng cao) để chứng minh tính hiệu
quả của các đề xuất của đề tài.
7. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, Nội
dung của đề tài được trình bày trong 3 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn luyện KNTH
cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
CHƯƠNG 2: Những kỹ năng cơ bản cần rèn luyện cho học sinh trong
dạy học khóa trình “Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11- nâng
cao).
CHƯƠNG 3: Phương pháp rèn luyện kỹ năng thực hành cho học
sinh trong dạy học khóa trình “Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945”
(Lịch sử 11- nâng cao).
7
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT.
1.1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm kỹ năng thực hành:
Khái niệm KNTH có hai khái niệm nhỏ cần được làm rõ: kỹ năng là
gì? Thực hành là gì?
Về vấn đề kỹ năng, các tài liệu tâm lý học và giáo dục học có những
ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng cần xem xét kỹ năng ở góc độ kỹ
thuật hành động. Tiêu biểu cho quan niệm này là các nhà nghiên cứu
A.G.Kovaliov, Trần Trọng Thủy, V.V.Isebuseva. Có ý kiến khác lại quan
niệm kỹ năng được tìm hiểu ở góc độ năng lực của con người. Đại diện cho
quan niệm này là các tác giả: X.I.Kixegof, Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn Quang
Uẩn.
Cịn theo Từ điển Tiếng Việt: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những
kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”. [ 13, 501]
Từ các quan điểm khác nhau ấy chúng ta thấy có những điểm chung
nhất về “ Kỹ năng”. Người có kỹ năng về một hành động nào đó là người
phải có:
- Tri thức về hành động, trong đó bao gồm: mục đích, cách thức thực
hiện hành động, các điều kiện để thực hiện hành động.
- Thực hiện hành động cùng với yêu cầu của nó.
- Đạt được hiệu quả hành động như mục đích đã đặt ra
- Có thể hành động đạt kết quả với những hành động tương tự trong
điều kiện khác nhau.
8
Còn thực hành theo Từ điển Tiếng Việt: “ Thực hành là làm để áp
dụng lý thuyết vào thực tế”. [13, 940].
Như vậy có thể hiểu kỹ năng thực hành là khả năng vận dụng những
kiến thức lý thuyết thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý nhận thức học sinh:
Quá trình dạy học với tư cách là một hệ thống bao gồm toàn bộ
những hoạt động của giáo viên và học sinh, trong đó giáo viên là người tổ
chức, hướng dẫn, nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, trên cơ sở đó mà phát triển năng lực nhận thức, năng
lực hành động. Hay nói cách khác thực chất của q trình dạy học ở trường
phổ thơng là q trình nhận thức của học sinh dưới sự tổ chức, điều khiển
của giáo viên. Nhưng nó phải đảm bảo sự phù hợp tâm lý nhận thức của
học sinh. Lứa tuổi học sinh phổ thông trung học đánh dấu sự bắt đầu
trưởng thành của con người như một cá thể, một nhân cách, một chủ thể
nhận thức và một chủ thể lao động. Sự trưởng thành này ở học sinh phổ
thông trung học dẫn đến nội dung, tính chất của hoạt động nhận thức, học
tập biến đổi cả về chất và lượng.
Đặc điểm nhận thức của học sinh biến đổi là yếu tố quan trọng quy
định nội dung và phương pháp giảng dạy. Cùng với sự thay đổi về mặt tâm
lý thì học sinh phổ thông trung học cũng đang ở giai đoạn tư duy phát triển
ở mức cao độ, khả năng độc lập tư duy, tính chủ động trong lĩnh hội tri
thức cũng được biểu hiện rõ. Trong khi đó nội dung kiến thức mà học sinh
tiếp nhận là cái mới chủ quan, tức là những thành tựu, những kiến thức và
những kinh nghiệm mà nhân loại đã khám phá. Hay nói cách khác quá trình
nhận thức của học sinh thực ra là một quá trình “khám phá lại”, “phát hiện
lại”, những kiến thức dưới sự điều khiển, hướng dẫn của giáo viên. Với đặc
điểm tâm lí, sự trưởng thành về nhân cách và đặc trưng quy luật nhận thức
của học sinh như vậy, việc dạy học ở trường phổ thơng địi hỏi giáo viên
9
phải tạo điều kiện cho các em lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng
tạo và bền vững hơn.
Tuy nhiên khác với những bộ môn khoa học khác, trong học tập lịch sử
học sinh không thể trực tiếp quan sát đối tượng nghiên cứu như trong khoa
học tự nhiên. Hay khơng thể tiến hành được thí nghiệm để dựng lại hiện thực
lịch sử quá khứ khách quan. Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp vì con
người là bộ phận không thể tách rời được của đối tượng nghiên cứu. Quá trình
nhận thức của học sinh trong học tập lịch sử phải xuất phát từ các sự kiện.
Nhưng chỉ cung cấp sự kiện một cách khơ khan thì lại làm cho học sinh khó
tiếp thu. Do vậy giáo viên cần kết hợp các phương pháp dạy học để làm cho
các sự kiện lịch sử được trình bày, minh họa một cách sinh động. Từ việc
cung cấp sự kiện trong q trình nhận thức giáo viên cịn phải giúp học sinh
phát triển các kỹ năng như mục tiêu môn học đã đặt ra. Trong đó việc rèn
luyện KNTH cho học sinh là một yêu cầu được đặt ra nhằm giúp học sinh
nhận thức sâu hơn những sự kiện lịch sử đã biết.
1.2.
CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Một số người đến nay vẫn cho rằng học lịch sử khơng cần có thực
hành. Vì đó khơng phải là một bộ mơn thực nghiệm như các môn khoa học
tự nhiên, cũng không cần rèn luyện câu văn, bài viết như môn Văn - Tiếng
việt mà chỉ cần học thuộc lòng để ghi nhớ sự kiện. Đó là quan niệm sai lầm
về phương pháp luận nói chung, về phương pháp dạy học nói riêng. Những
nhận thức này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện mục tiêu đào tạo
nói chung, mục tiêu mơn học nói riêng.
Lịch sử là lịch sử của sản xuất, của các phương thức sản xuất kế tiếp
nhau trong xã hội và từ khi xã hội phân chia thành giai cấp thì lịch sử là
lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong quá trình này các thế hệ trước đã đúc kết
những bài học kinh nghiệm; vì vậy học lịch sử phải biết tiếp thu các bài
học này trong giờ học lịch sử và vận dụng sáng tạo vào cuộc sống. Việc
10
giáo dục nói chung, dạy học lịch sử nói riêng có khả năng khuyến khích và
góp phần vào định hướng hành động của học sinh.
Qua những sự kiện cụ thể, lịch sử cung cấp cho học sinh những mẫu
hình, những hành động khác nhau, có tác dụng gợi ý, mở ra những hướng,
những mặt, những khả năng hành động cụ thể khác nhau trong đời sống xã
hội. Tính phong phú, đa dạng của lịch sử làm cho sự gợi ý, nêu gương cũng
phong phú và đa dạng, mn hình mn vẻ. Lịch sử không lặp lại - không
lặp lại nguyên xi những gì đã xảy ra - nhưng có sự kế thừa, có mối quan hệ
giữa quá khứ và hiện tại và chuẩn bị cho sự ra đời của tương lai. Cho nên
có thể và cần rút bài học của ngày qua cho ngày hơm nay và đốn định con
đường phát triển tương lai, hợp quy luật mà hành động.
Sự kiện lịch sử phản ánh động cơ hành động, hành vi cụ thể, kết quả,
cũng như hậu quả, của hoạt động con người. Từ những sự kiện ấy, giáo viên
vừa khơi phục cho học sinh hình ảnh q khứ, vừa giúp các em rút ra những
kết luận, đánh giá, bài học kinh nghiệm cho cuộc sống ngày hôm nay. Công
việc này có ý nghĩa khơng nhỏ đối với việc giáo dục hành động. Sức mạnh
của tri thức lịch sử được thể hiện ở chổ khuyến khích, thúc đẩy và định hướng
hành động cho học sinh, làm cho hành động ấy đúng, hợp quy luật, có hiệu
quả, có phương pháp khoa học. Học tập lịch sử không chỉ rèn luyện về năng
lưc nhận thức mà còn phát triển năng lực hành động độc lập, chủ động, rèn
luyện phương pháp hành động.
Nguyên lý “học đi đôi với hành” xuất phát từ bản chất nguồn gốc của
khoa học, mà những cơ sở của khoa học này được giảng dạy qua các bộ
môn. Khoa học ra đời trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người,
bao giờ cũng gắn liền với hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội của con
người. Nó là sự tổng kết những kinh nghiệm trong lao động sản xuất và đấu
tranh xã hội, đạt tới trình độ khái qt hóa và trừu tượng hóa. Việc học đi
đơi với hành cũng nhằm đáp ứng yêu cầu của con đường nhận thức biện
chứng: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
11
tượng đến thực tiễn. Học đi đôi với hành trong nhà trường không chỉ giúp
cho việc thu nhận kiến thức sâu sắc mà còn làm cho học sinh biết vận dụng
vào thực tiễn, góp phần vào lợi ích xã hội.
Vì vậy mà việc học tập lịch sử ở trường phổ thơng cũng địi hỏi học
sinh phải có kỹ năng thực hành và phát triển tư duy logic như đối với mọi
môn học.
Nhưng hiện nay việc rèn luyện KNTH cho học sinh lại chưa được
quan tâm đúng mức. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do phần lớn
giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện KNTH
cho học sinh. Mà chủ yếu chỉ quan tâm đến việc cung cấp đủ kiến thức, chỉ
biết nhồi nhét, thông báo thơng tin một chiều, thầy đọc trị ghi dẫn đến học
sinh tiếp thu bài giảng một cách gị bó, thiếu tính chủ động sáng tạo.
Như chúng ta đã biết sự kiện lịch sử xảy ra trong quá khứ không bao
giờ lặp lại và tái tạo được mà lặp lại cũng khơng thể ngun xi. Do vậy mà
trong q trình dạy học ngoài việc cung cấp sự kiện lịch sử, giáo viên cần
biết kết hợp với việc sử dụng đồ dùng trực quan, cho học sinh làm việc với
đồ dùng trực quan, kết hợp hỏi học sinh để học sinh phát huy khả năng diễn
đạt. Mặt khác giáo viên cũng phải có các kỹ năng đó, chính nghệ thuật diễn
đạt, sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử sẽ giúp giáo viên thực
hiện được các yêu cầu của bộ môn, làm giờ học lịch sử thêm sinh động.
Với nhũng ưu thế đó mà việc rèn luyện KNTH cho học sinh là một yêu cầu
cần được quan tâm áp dụng trong thực tế dạy học lịch sử. Tuy nhiên việc
rèn luyện KNTH cho học sinh trong dạy học lịch sử chưa được thực hiện
nhiều đặc biệt là trong việc giảng dạy các khóa trình lịch sử.
Từ thực tế đó trong phạm vi đề tài này, chúng tơi đưa ra các kỹ năng
thực hành cơ bản cần rèn luyện cho học sinh để khắc phục tình trạng trong
dạy học lịch sử nêu trên, góp phần định hướng cho giáo viên trong việc
hướng dẫn học sinh rèn luyện KNTH qua việc học tập khóa trình “Lịch sử
thế giới hiện đại 1917 - 1945” (Lịch sử 11- nâng cao).
12
1.3. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KNTH CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ.
1.3.1.Vị trí:
Việc rèn luyện KNTH cho học sinh có vị trí quan trọng trong quá
trình dạy học, đặc biệt là trong tình hình hiện nay với yêu cầu đào tạo con
người có kỹ năng toàn diện đáp ứng thực tế làm việc.
Như tác giả Trần Viết Thụ trong cuốn “Đại cương về phương pháp
dạy học lịch sử ở trường THPT” đã đề cập: trong quá trình dạy học lịch sử,
giáo viên đồng thời hình thành cho học sinh các bộ phận của tri thức lịch sử
sau đây:
- Tri thức về sự kiện: tức là những hiểu biết xung quanh nội dung
của sự kiện lịch sử như biến cố lịch sử, hiện tượng, niên đại, địa danh, nhân
vật lịch sử, biểu tượng khái niệm….
- Tri thức về lý luận: như các quy luật, bài học lịch sử, nguyên lý,
quan điểm…
- Tri thức về kỹ năng: như các phương pháp nhận thức, học tập lịch
sử, kỹ năng thực hành bộ môn, vận dụng kiến thức lịch sử vào đời sống.
[19,45]
Như vậy, KNTH thuộc bộ phận thứ ba trong ba bộ phận hình thành
tri thức lịch sử.
Quá trình nhận thức lịch sử của học sinh tuân theo quy luật: “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện
thực khách quan”, [ 10, 213]. Tuy vậy nhận thức lịch sử là những nhận
thức cái đã qua, không lặp lại mà thông qua sự kiện, hiện tượng lịch sử do
giáo viên cung cấp dựa trên cơ sở tài liệu sự kiện chính xác, thơng qua các
con đường, các biện pháp để qua đó học sinh hình dung, tái tạo được bức
tranh của quá khứ. Do đó giáo viên khơng chỉ trình bày miệng mà cần kết
hợp các thao tác, kỹ năng giúp học sinh nhận thức sự kiện từ đó biết diễn
13
đạt, sử dụng sự kiện trong từng trường hợp khác nhau; giáo viên cần kết
hợp cả việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan để học sinh có thể hình
dung rõ nét và chân thực về quá khứ lịch sử.
Như vậy việc rèn luyện KNTH cho học sinh có vị trí quan trọng
tham gia vào q trình hình thành tri thức lịch sử cho học sinh nhất là thơng
qua kỹ năng thiết kế và trình bày nội dung trên đồ dùng trực quan. Rèn
luyện KNTH tốt sẽ giúp học sinh không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ, nắm
vững sự kiện mà còn biết vận dụng sự kiện lịch sử vào thực tiễn cuộc sống.
1.3.2.Ý nghĩa:
Việc rèn luyện KNTH cho học sinh góp phần giáo dục tồn diện cho
học sinh, nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, thể hiện trên 3 mặt sau:
* Về mặt giáo dưỡng:
Việc thực hành bộ mơn đã góp phần tạo cho học sinh có biểu tượng
lịch sử chân xác giàu hình ảnh. Công việc này thể hiện ở việc thiết kế đồ
dùng trực quan, trình bày một bài viết về một sự kiện lịch sử.
Qua việc rèn luyện KNTH cho học sinh khơng những đã cung cấp thêm kiến
thức mà cịn giúp học sinh có những kỹ năng để sử dụng kiến thức ấy một cách hợp
lý trong khi trả lời câu hỏi và vận dụng vào bài viết. Việc thiết kế đồ dùng trực quan
và trình bày nội dung trên đồ dùng trực quan không chỉ tạo cho học sinh hứng thú làm
việc mà qua đó học sinh nắm vững hơn sự kiện do được tái hiện lại sự kiện lịch sử
một lần nữa.
* Về mặt giáo dục:
Nhắc đến mặt giáo dục là nói tới việc hình thành tư tưởng, tình cảm,
thái độ cho học sinh. Việc rèn luyện KNTH đã có tác động mạnh mẽ đến tư
tưởng, tình cảm, thái độ của học sinh. Thơng qua thiết kế và trình bày nội
dung trên đồ dùng trực quan cũng như rèn luyện kỹ năng diễn đạt sẽ giúp
học sinh có thái độ học tập hăng say, tăng hứng thú cho học sinh. Khi học
sinh làm các đồ dùng trực quan ngoài địi hỏi tính chính xác, khoa học cịn
đảm bảo tính thẩm mỹ do vậy có tác dụng giáo dục thẩm mỹ cho học sinh.
14
Hay khi trình bày nội dung trên đồ dùng trực quan như khi miêu tả bức
tranh “Trẻ em trong trại tập trung của phát xít Đức” trong bài “Chiến tranh
thế giới thứ hai 1939 - 1945” (Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945) học
sinh sẽ thấy được tội ác dã man của phát xít Đức. Những đứa trẻ non nớt,
đáng thương bị bắt giam như những loài cầm thú khơng những gây xúc
động với học sinh mà cịn giáo dục các em lòng căm thù chủ nghĩa phát xít,
bồi dưỡng cho các em ý thức để xây dựng một thế giới hịa bình.
* Về mặt phát triển:
Thơng qua rèn luyện kỹ năng diễn đạt nói và viết giúp học sinh phát
triển tư duy logic qua việc hệ thống lại kiến thức lịch sử đã học để từ đó
vận dụng vào câu trả lời, bài viết của mình.
Thơng qua việc thiết kế dùng trực quan sẽ phát huy óc sáng tạo, sự
tìm tịi của học sinh về các phương án, cách tiến hành, trình bày nội dung
hợp lý trên đồ dùng trực quan. Cịn việc trình bày nội dung trên đồ dùng
trực quanh học sinh sẽ phải huy động năng lực tư duy tái hiện lại tri thức
lịch sử trên đồ dùng trực quan.
Với việc thực hiện các nhiệm vụ về mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển
học sinh thì việc rèn luyện KNTH cho học sinh góp phần nâng cao chất
lượng dạy học, gây hứng thú học tập, phát triển tư duy cho học sinh.
1.4. THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thơng có ý nghĩa quan trọng trong việc
giáo dục học sinh đặc biệt là có ưu thế trong việc giáo dục truyền thống.
Tuy nhiên một thực trạng hiện nay trong xã hội và trường phổ thông môn
sử vẫn là môn phụ. Do vậy việc dạy và học lịch sử chưa được đầu tư đúng
mức. Điều đáng buồn là giáo viên phổ thông - những người gánh vác trọng
trách của “sự nghiệp trồng người” lại có tư tưởng coi thường mơn sử.
Khơng ít người lên lớp một cách miễn cưỡng, chưa tạo được hứng thú cho
học sinh. Ngoài những quyển sách cơ bản cho dạy học lịch sử như sách
15
giáo khoa, sách giáo viên, họ cũng ít đầu tư thời gian và cơng sức cho việc
tìm tịi, đào sâu kiến thức góp phần làm phong phú hiểu biết cũng như bài
giảng của mình. Chính vì quan niệm “mơn phụ” nên nhiều giáo viên đứng
trên bục giảng theo lối “dạy chay, dạy khoán” để cung cấp kiến thức bài
học cho học sinh là xong. Mà quên đi việc hướng dẫn, rèn luyện các kỹ
năng, kỹ xảo cho học sinh.
Kết quả thi đại học những năm gần đây cho thấy kết quả môn lịch sử
rất thấp, tỷ lệ điểm dưới trung bình chiếm khoảng 60% - 80%. Hiện thực
ấy đã phản ánh việc dù giáo viên đã cung cấp đầy đủ kiến thức, song học
sinh đã không biết cách vận dụng những kiến thức ấy vào bài viết sao cho
có hiệu quả. Chỉ dừng lại ở việc cung cấp đủ kiến thức là một thiếu sót cho
thấy của giáo viên. Chất lượng giảm sút trong dạy học lịch sử là do cách
dạy học phổ biến hiện nay vẫn rất đơn điệu, thiếu ví dụ minh họa, ít sử
dụng đồ dùng trực quan đặc biệt là lối truyền thụ một chiều mà không cho
học sinh được làm việc. Học sinh học nhiều sự kiện mà vẫn không hiểu,
không nắm được bản chất của sự kiện. Các giáo viên hầu như chưa phát
huy được tính tích cực, sáng tạo tư duy của học sinh. Giáo viên hầu như chỉ
giảng dạy mặt lý thuyết mà quên đi việc bồi dưỡng kỹ năng thực hành cho
học sinh.
Kết quả mang lại là thực trạng yếu kém của dạy học lịch sử ở trường
phổ thông. Muốn học sinh nắm được kiến thức lịch sử, biết cách sử dụng
kiến thức ấy một cách hợp lý và biết cách làm việc với đồ dùng trực quan
thì yêu cầu đặt ra lúc này là phải đổi mới phương pháp dạy học, phương
tiện dạy học. Rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh là một hướng đi
phù hợp và đúng đắn. Tuy vậy để thực hiện được điều này đòi hỏi phải có
thời gian, sự cố gắng của nhà trường, giáo viên, học sinh. Việc rèn luyện
KNTH cho học sinh trong dạy học lịch sử được thực hiện tốt sẽ mang lại
hiệu quả cao cho mỗi bài học.
16
CHƯƠNG 2. NHỮNG KỸ NĂNG CƠ BẢN CẦN RÈN LUYỆN
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC KHĨA TRÌNH “LỊCH SỬ
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI 1917 - 1945” (LỊCH SỬ 11 - NÂNG CAO).
2.1. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KHĨA TRÌNH “LỊCH SỬ
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI 1917 - 1945” (LỊCH SỬ 11 - NÂNG CAO).
2.1.1. Vị trí:
Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng tình hình
kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng đổi mới, cải cách giáo dục trên
thế giới, ở nước ta cũng đã tiến hành các cuộc cải cách giáo dục. Cải cách
giáo dục là một cuộc cách mạng làm mục tiêu giáo dục thay đổi, xây dựng
lại nội dung giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo
khoa mới và sắp xếp lại hệ thống giáo dục.
Bộ mơn lịch sử đã có nhiều thay đổi trong chương trình, nội dung và
phương pháp dạy học. Đặc biệt từ năm 2000 Bộ Giáo dục và đào tạo đã chú
trọng tới việc xây dựng chương trình và biên soạn lại sách giáo khoa. Hiện
nay chúng ta đang sử dụng sách giáo khoa biên soạn theo chương trình
phân ban điều chỉnh ở bậc trung học phổ thông. Cấu trúc chương trình mới
có nhiều thay đổi so với cấu trúc chương trình của cải cách giáo dục lần thứ
ba năm 1981. Với việc chi làm hai ban: Ban cơ bản và ban nâng cao, cấu
trúc chương trình mơn lịch sử ở bậc trung học phổ thông đã phục vụ tốt
hơn cho việc phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
Bản chất của lịch sử là một quá trình thống nhất, hợp quy luật nhưng
đồng thời cũng rất phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn. Trong quá trình
phát triển của xã hội lồi người, các dân tộc khơng tồn tại một cách biệt
lập, riêng rẽ mà có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Bởi các dân tộc (kể cả
những dân tộc nhỏ bé hay đã biến mất) đều có những đóng góp nhất định
vào sự phát triển của lịch sử. Dựa vào những cơ sở đó, chương trình mới
hiện nay trong cấu trúc đã thể hiện sự kết hợp, đan xen giữa lịch sử thế giới
17
và lịch sử dân tộc. Thông qua những tri thức cơ bản và có hệ thống, học
sinh nhận thức được quy luật phát triển khách quan của xã hội loài người,
tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, bồi dưỡng cho các em tinh thần dân
tộc song song với tinh thần quốc tế và kinh nghiệm đấu tranh cho dân chủ
hịa bình.
Với số tiết nhiều hơn ban cơ bản, chương trình lịch sử lớp 11 nâng
cao đã có điều kiện nâng cao, mở rộng nhiều vấn đề về lịch sử thế giới, lịch
sử dân tộc.
Về cấu trúc chương trình mơn lịch sử lớp 11 nâng cao có cấu tạo gồm ba
phần:
Phần 1: Lịch sử thế giới cận đại gồm 6 chương, 22 bài và 40 tiết.
Phần 2: Lịch sử thế giới hiện đại (từ 1917 - 1945) gồm 4 chương, 10
bài và 15 tiết.
Phần 3: Lịch sử Việt Nam (từ 1858 - 1918) gồm 2 chương, 9 bài và
15 tiết.
Phần lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1945 gồm 10/ 41 bài chiếm 1/ 4
số tiết. Đây là khóa trình với nhiều vấn đề quan trọng, tái hiện những biến
động của nhân loại trong gần 30 năm của thế kỷ XX. Những biến động đó
ảnh hưởng khơng nhỏ đến lịch sử của các dân tộc trên thế giới cũng như tạo
nên những chuyển biến sâu sắc của tình hình cách mạng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Mười Nga – cuộc cách mạng vô sản đầu tiên dành
thắng lợi – có ý nghĩa lớn lao khơng chỉ đối với nước Nga mà cịn mang giá
trị phổ qt tồn nhân loại. Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười đưa đến
sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Liên Xô đã
bắt tay vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, đạt nhiều thành tựu quan trọng và bảo vệ thành quả cách mạng vừa
dành được.
Tình hình các nước tư bản chủ yếu từ 1918 – 1939 với nhiều giai
đoạn thăng trầm. Thơng qua việc tìm hiểu tình hình kinh tế - chính trị - xã
18
hội của một số nước tư bản chủ yếu từ đó lí giải sự hình thành chủ nghĩa
phát xít dẫn đến sự bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai.
Những nét mới về tình hình các nước châu Á giũa hai cuộc chiến tranh thế
giới 1918 – 1939 qua các nước tiêu biểu: Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Đơng
Nam Á.
Khóa trình lịch sử này đã tái hiện cuộc chiến tranh có quy mơ lớn và
tàn khốc nhất trong lịch sử thế giới – chiến tranh thế giới thứ hai – gây nên
những hậu quả sâu sắc cho toàn nhân loại.
Như vậy, thơng qua khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1917 – 1945
đã có tác dụng nhiều mặt đối với học sinh, không những cung cấp kiến thức
cơ bản và có hệ thống về lịch sử thế giới mà còn giúp cho các em nhận thức
được quy luật nhận thức được quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài
người, những cuộc đấu tranh, những mối quan hệ phong phú, phức tạp của
các lực lượng trên thế giới. Từ đó hình thành cho các em nhân sinh quan,
thế giới quan tích cực, đồng thời cịn giúp các em phát triển tư duy, hình
thành các kỹ năng trong học tập bộ môn lịch sử.
Cùng với những yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới, chương trình
sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi người giáo viên
phải nắm chắc kiến thức, tư duy sáng tạo và linh động trong việc vận
dụng các phương pháp giảng dạy trong đó có việc rèn luyện KNTH để
góp phần giáo dục toàn diện học sinh.
2.1.2. Ý nghĩa:
Lý luận giáo dục đã chỉ ra rằng: “Con đường giáo dục có hiệu quả
nhất là thông qua các môn học ở nhà trường do có tính định hướng rõ ràng,
có những nhà giáo dục giàu kinh nghiệm, có mơi trường giáo dục lành
mạnh và tiết kiệm thời gian” (Phạm Viết Vượng, Giáo dục học đại cương,
nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội, 1993). Bộ mơn lịch sử ở trường phổ thơng có
nhiều đóng góp quan trọng trong việc thực hiện mục đích giáo dục của nhà
trường phổ thông và mục tiêu của cấp học, góp phần vào việc thực hiện
19
mục tiêu của Đảng và Nhà Nước. Đó là đào tạo thế hệ trẻ thành những con
người đủ sức đủ tài, có hiểu biết tri thức, có tư tưởng, tình cảm tiến bộ,
xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy khi giảng dạy bộ
mơn lịch sử ở trường phổ thơng nói chung, giảng dạy phần lịch sử thế giới
hiện đại nói riêng cần quán triệt những yêu cầu chung về mục tiêu giáo dục
nêu trên. Cụ thể, khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1917 – 1945 cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
2.1.2.1. Về mặt giáo dưỡng.
Thơng qua việc giảng dạy khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1917 –
1945 giúp học sinh nắm vững được các kiến thức cơ bản:
Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội nước Nga đầu thế kỷ XX,hiểu
được vì sao nước Nga năm 1917 lại có hai cuộc cách mạng : cách mạng
tháng Hai và cách mạng tháng Mười. Nắm được những nét chính về diễn
biến của cách mạng tháng Hai, cách mạng tháng Mười, cuộc đấu tranh xây
dựng và bảo vệ chính quyền Xơ Viết. Đặc biệt giúp học sinh hiểu được ý
nghĩa lịch sử , bài học kinh nghiệm lớn lao của cách mạng tháng Mười và
ảnh hưởng mạng mẽ của nó đối với phong trào cách mạng thế giới trong đó
có Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười đưa đến sự thành lập nhà nước
công nông kiểu mới mang lại nhiều quyền lợi cho nhân dân lao động. Nhân
dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơn se vích đứng đầu là Lê nin đã
bắt tay vào công cuộc xây dựng chế độ mới. Học sinh cần nắm được những
nét chính về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô từ 1921 1945 trên các lĩnh vực: Phục hồi và phát triển kinh tế, sự thành lập Liên
bang cộng hịa xã hội Xơ Viết, quan hệ ngoại giao của Liên Xơ. Đạt được
những thành tựu đó là sự nỗ lực phi thường của nhân dân Liên Xô. Thông
qua việc nắm kiến thức cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô trong hai thập niên (1921 - 1941) giúp học sinh thấy được vị trí, ý
nghĩa của cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp cách
20