Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

chương 1 nguyễn thị như quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.54 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
NHẬN XÉT CỦA KHOA
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ vào năm 2008 và lan
rộng ra toàn cầu đã khiến cho nền kinh tế của nước ta và thế giới bị ảnh hưởng không ít
thì nhiều. Và đến nay, năm 2017, nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung đang được hồi phục, gây dựng và có tốc độ phát triển tương đối ổn định. Nhưng
không vì thế mà chúng ta thỏa mãn, nền kinh tế như một con dao hai lưỡi, nếu không
cẩn thận thì chúng ta sẽ gánh chịu những hậu quả rất nặng nề. Hoạt động kinh tế đối
ngoại và hội nhập quốc tế có những bước tiến mới, đặc biệt kể từ khi Việt Nam chính
thức gia nhập tổ chức Thương Mại thế giới WTO vào tháng 11/2006. Sự kiện trọng đại
này đã mang đến cho Việt Nam cơ hội mở rộng giao thương, nhưng đồng thời cũng tạo
ra thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chúng
ta phải thật cẩn thận và tập trung cao độ để phát triển bản thân, cạnh tranh với các đối
thủ trong nước cũng như không để bị các nước lớn nuốt chửng. Vì vậy, mỗi doanh
nghiệp dưới sự hỗ trợ và quản lý tích cực của Nhà nước đều tìm cho bản thân mình
những cách giải quyết riêng để đứng vững và phát triển tốt trong nền kinh tế thị trường
cạnh tranh vô cùng khốc liệt này.
Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một đơn
vị độc lập tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu về lợi
nhuận. Vì vậy, tối đa hóa lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh,
hiệu quả sử dụng vốn, quản lý và sử dụng tốt nguồn tài nguyên vật chất cũng như nhân
lực của mình để có những quyết sách, chiến lược phù hợp.
Phân tích hoạt động tài chính là công việc thường xuyên và vô cùng cần thiết không



những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả các đối tượng
bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh nghiệp. Đánh giá
được đúng thực trạng tài chính, doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định kinh tế thích
hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn lực; nhà đầu tư có
quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ được đảm bảo về khả
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với khoản cho vay; nhà cung cấp và khách hàng
đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam kết đặt ra; các cơ quan quản lý
Nhà nước có được các chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp và đồng thời kiểm soát được hoạt động của doanh
nghiệp bằng pháp luật.
Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán được xem như tấm
gương phản ánh toàn diện về tình hình tài chính, khả năng và sức mạnh của một doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định. Do đó, việc trình bày các báo cáo tài chính một
cách trung thực và khách quan sẽ là điều kiện tiên quyết để phân tích chính xác hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích
hoạt động tài chính và đánh giá thực trạng tài chính của một doanh nghiệp em đã chọn
đề tài: "Phân tích hoạt động tài chính tại Công ty TNHH HANSOLL VINA"
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu hoạt động tài chính của công ty
thông qua phân tích tài chính. Trên cơ sở đó đánh giá và đưa ra những giải pháp
thích hợp để gia tăng nguồn vốn công ty và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Bằng việc áp dụng một số phương pháp khoa học như: phương pháp tại bàn,
phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, so sánh và phân tích báo cáo tài
chính của công ty.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu: Tình hình tài chính của Công ty TNHH HANSOLL

VINA.


-

Phạm vi nghiên cứu: Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh.

5. Bố cục đề tài:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính tại công ty TNHH Hansoll Vina
Chương 3: Gỉai pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích tài
chính của công ty.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp
- Doanh nghiệp là một trong những chủ thể kinh tế chủ yếu của xã hội. "Doanh
nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành lập để thực hiện hoạt động kinh doanh
nhằm mục đính sinh lời"
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm thực hiện ổn định các hoạt động
kinh doanh.
2. Tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, là
một phạm trù khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có một
lượng vốn tiền tệ nhất định, đó là một tiền đề cần thiết. Quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, đã phát sinh các luồng tiền tệ gắn liền với hoạt

động đầu tư vào các hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp, các luồng
tiền tệ đó bao hàm các luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp,
tạo thành sự vận động của các luồng tài chính của doanh nghiệp.
Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các vốn tiền tệ của doanh nghiệp
là các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị tức là các quan hệ tài chính trong
doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp, có những quan hệ tài chính sau:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, được thể hiện qua việc nhà nước cấp vốn
cho doanh nghiệp hoạt động (đối với các doanh nghiệp nhà nước) và doanh nghiệp


thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước như nộp các khoản thuế và lệ phí
v.v...
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp đối với các chủ thể kinh tế khác như quan hệ về mặt
thanh toán trong việc vay và cho vay vốn, đầu tư vốn, mua hoặc bán tài sản, vật tư,
hàng hoá và các dịch vụ khác.
- Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, được thể hiện trong doanh nghiệp thanh toán
tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền thưởng, tiền phạt với công nhân viên
của doanh nghiệp; quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, trong việc
phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp; việc phân chia lợi tức cho các cổ đông,
việc hình thành các quỹ của doanh nghiệp...
3. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp
-Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp:
- Hoạt động của tài chính doanh nghiệp luôn gắn liền và phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hoạt động của tài chính doanh nghiệp bị chi phối bởi tính chất sở hữu vốn trong
mỗi doanh nghiệp.
- Hoạt động của tài chính doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi mục tiêu lợi nhuận
4. Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương

pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực
của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính,
quyết định quản lý phù hợp.
II. Chức năng, vai trò và mục đích phân tích tài chinh doanh nghiệp:
1. Chức năng của tài chính doanh nghiệp
 Chức năng của doanh nghiệp:
- Đảm bảo nguồn vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh để có đủ vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải tính toán nhu cầu vốn, lựa chọn
nguồn vốn, tổ chức huy động và sử dụng vốn đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự
phát triển có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về phía Nhà nước phả hổ trợ doanh nghiệp là tạo môi trường hoạt động phong phú,
đa dạng để tạo vốn và phát triển các loại hình tính dụng thu hút tối đa các nguồn vốn
nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và dân cư, tạo nguồn vốn cho vay dồi dào với mọi loại
hình doanh nghiệp.
 Phân phối thu nhập của doanh nghiệp.
Sau khi huy động vốn và đã sử dụng nguồn vốn đó sẽ thu được kết quả là việc tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp tiến hành phân phối kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.


ở nước ta, do tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, hình thức sở hữu khác nhau, cho
nên quy mô và phương thức phân phối ở các loại hình doanh nghiệp cũng khác nhau.
Sau mỗi kỳ kinh doanh, số tiền mà doanh nghiệp thu được bao gồm cả giá vốn và chi
phí phát sinh. Do vậy các doanh nghiệp có thể phân phối theo dạng chung như sau:
 Bù đắp chi phí phân bổ cho hàng hoá đã tiêu thụ bao gồm:
+ Trị giá vốn hàng hoá.
+ Chi phí lưu thông và các chi phí khác mà doanh nghiệp đã đã bỏ ra như lãi vay ngân
hàng, chi phí giao dịch, lợi tức trái phiếu.
+ Khấu hao máy móc.

- Phần còn lại sau khi bù đắp các chi phí được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp. Phần
lợi nhuận này, một phần phải nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức thuế, phần
còn lại tuỳ thuộc vào quy định của từng doanh nghiệp mà tiến hành chia lãi liên doanh,
trả lợi tức cổ phần, trích lập các quỹ doanh nghiệp.
 Chức năng giám đốc:
-Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra, giám đốc bằng
đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trịvà phương tiện thanh toán của
tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực hiện chức năng phân phối,
sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần thiết, quy mô của việc phân phối
các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân phối qua các quỹ tiền tệ.
Giám đốc tài chính mang tính chất tổng hợp toàn diện, tự thân và diễn ra thường xuyên
vì giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm
phát hiện những ưu điểm để phát huy, tồn tại để khác phục.
Hoạt động tài chính diễn ra trên mọi lĩnh vực của quá trình tái sản xuất xã hội trên tầm
vĩ mô và vi mô. Trong các hoạt động đó tài chính không chỉ phản ánh kết quả sản xuất
mà còn thúc đẩy phát triển. Động lực để thúc đẩy nhanh nền sản xuất xã hội không chỉ
phụ thuộc vào sự phân phối cân bằng, hợp lý và cân đối giữa các bộ phận mà còn trực
tiếp phụ thuộc vào sự kiểm tra, kiểm soát nghiêm nghặt mọi hoạt động tài chính.
Nội dung giám đốc tài chính là giám đốc sự vận động và chu chuyển của nguồn vốn
tiền tệ với hiệu quả sử dụng vốn, giám đốc việc lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch,
các định mức kinh tế tài chính, giám đốc quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền
tệ, quá trình hạch toán kinh tế và giám đốc việc chấp hành các chính sách về tài chính.
Thực hiện quản lý tài chính đã khẳng định, để thực hiện triệt để và có hiệu quả việc
giám đốc tài chính cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài
chính phù hợp với cơ chế chính sách quản lý kinh tế và thực tiễn sản xuất kinh doanh.
Thông qua đó giúp cho việc thực hiện các giải pháp tối ưu nhằm làm lành mạnh tình
hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Vai trò của tài chính doanh nghiêp:
– Vai trò huy động, khai thác nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh của
doanh nghiệp và tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất:



Để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải thanh
toán nhu cầu vốn, lựa chọn nguồn vốn, bên cạnh đó phải tổ chức huy động và sử dụng
đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả quá trình SXKD ở doanh
nghiệp , đây là vấn đề có tính quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trong quá
trình cạnh tranh “khắc nghiệt” theo cơ chế thị trường.
– Vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh:
Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp được tài chính doanh nghiệp phân phối. Thu
nhập bằng tiền mà doanh nghiệp đạt được do thu nhập bán hàng trước tiên phải bù đắp
các chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất như: bù đắp hao mòn máy móc thiết bị, trả
lương cho người lao động và để mua nguyên nhiên liệu để tiếp tục chu kỳ sản xuất
mới, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Phần còn lại doanh nghiệp dùng hình thành
các quỹ của doanh nghiệp, thực hiện bảo toàn vốn, hoặc trả lợi tức cổ phần (nếu có).
Chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp là quá trình phân phối thu nhập bằng
tiền của doanh nghiệp và quá trình phân phối đó luôn gắn liền với những đặc điểm vốn
có của hoạt động SXKD và hình thức sở hữu doanh nghiệp.
Ngoài ra, nếu người quản lý biết vận dụng sáng tạo các chức năng phân phối của tài
chính doanh nghiệp phù hợp với qui luật sẽ làm cho tài chính DN trở thành đòn bẩy
kinh tế có tác dụng trong việc tạo ra những động lực kinh tế tác động tới tăng năng
suất, kích thích tăng cường tích tụ và thu hút vốn, thúc đẩy tăng vòng quay vốn, kích
thích tiêu dùng xã hội.
– Vai trò là công cụ kiểm tra các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành thường
xuyên, liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu đó là: chỉ
tiêu về kết cấu tài chính, chỉ tiêu về khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc trưng về hoạt
động, sử dụng các nguồn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả năng sinh lời…Bằng
việc phân tích các chỉ tiêu tài chính cho phép doanh nghiệp có căn cứ quan trọng để đề
ra kịp thời các giải pháp tối ưu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính – kinh doanh của
doanh nghiệp

3. Mục đích phân tích tài chính doanh nghiệp.
- Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thể tác
động liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có thể phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp mới đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của
chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêubiểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp. Trong
điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, các
doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều
có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các nhà đầu tư,
nhà cho vay, nhà cung cấp.. .Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan tâm đến


khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi
nhuận tối đa. Bởi vậy phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các
mục tiêu sau:
-Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ những thông tin hữu ích cho các
nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác để họ có thể ra các quyết định về
đầu tư, tín dụng và các quyết định tương tự. Thông tin phải dễ hiểu đối với những
người có một trình độ tương đối về kinh doanh và về các hoạt động kinh tế mà muốn
nghiên cứu các thông tin này.
-Phân tích tình hình tài chính cũng nhằm cung cấp thông tin quan trọng nhất cho chủ
doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chủ nợ và những người sử dụng khác đánh giá số
lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các
dòng tiền của các nhà đầu tư liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá
trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro
của các dòng tiền thu thuần dự kiến của doanh nghiệp.
-Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế, vốn chủ
sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến đổi các nguồn
vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết thêm nghĩa vụ của
doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ kinh tế,

giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển doanh nghiệp trong
tương lai.
Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối
chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh nghiệp với quá khứ để
định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong
công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để tăng cường các hoạt
động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu thế phát
triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
III. Vị trí của tài chính doanh nghiệp và các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính
doanh nghiệp.
1. Vị trí của tài chính doanh nghiệp trong doanh nghiệp và trong hệ thống tài
chính nước ta.
Tài chính doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia.
Tài chính doanh nghiệp bao gồm tài chính của cấc đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh
hàng hóa và cung cấp dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế
Xét trong phạm vi của một đơn vị sản xuất kinh doanh thì tài chính doanh nghiệp
được xem là một trong những công cụ quan trọng để quản lý sản xuất kinh doanh của
đơn vị. Bởi mọi mục tiêu phương hướng sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được
trên cơ sở phát huy tốt các chức năng của tài chính doanh nghiệp, từ việc xác định nhu
cầu vốn cho sản xuât kinh doanh, tạo nguồn tài chính đáp ứng được nhu cầu đã xác
định. Khi có đủ vốn phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm
................


2. Các chỉ tiêu đặc trưng đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2.1. Các hệ số khả năng thanh toán:
 Các hệ số khản năng thanh toán tổng quát : là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà
hiện nay doanh nghiệp đang quản lý sử dụng tổng số nợ phả trả
HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN TỔNG QUÁT = TỔNG TÀN SẢN / NỢ
PHẢI TRẢ

Chỉ tiêu này bằng 1 thể hiện tổng tài sản trong ngân hàng được tài trợ hoàn toàn
bằng nguồn vốn nợ phải trả. Còn nếu hệ số lớn hơn 1 và càng lớn hơn 1 bao nhiêu
càng chứng tỏ vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên, do đặc
điểm hoạt động kinh doanh trong các NHTM chủ yếu dựa vào việc huy động vốn
dưới các hình thức vay nợ, vốn chủ sở hữu trong các NHTM theo quy định của Nhà
nước tối thiếu bằng 9% tổng nguồn vốn. Bởi vậy, hệ số khả năng thanh toán tổng
quát trong các NHTM thường rất nhỏ.

 Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: hay còn gọi là hệ số khả năng thanh
toán hiện thời –current ratio cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn được bù đắp bằng
bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn, vì vậy đây là chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất khả
năng chuyển đổi tài sản thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn cho DN
 HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN NỢ NGẮN HẠN = TÀI SẢN NGẮN HẠN /
NỢ NGẮN HẠN
Chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện khả năng các khoản nợ ngắn hạn sẽ được thanh
toán kịp thời.
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn < 1à tài sản ngắn hạn không đủ bù đắp cho nợ
ngắn hạn(vốn hoạt động thuần
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = 1 thể hiện tài sản ngắn hạn vừa đủ bù đắp các
khoản nợ ngắn hạn cho DN à DN có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, tuy nhiên trong
thực tế, nếu chỉ tiêu này ở mức 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của DN cũng
vẫn rất mong manh.
Nhà phân tích cần so sánh độ lớn các chỉ tiêu này giữa các kì và với các DN khác cùng


ngành hoặc trung bình ngành để đánh giá khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của DN. Vì
không có một mức chuẩn cho độ lớn của chỉ tiêu này
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Khả năng thanh toán nhanh được hiểu là khả
năng doanh nghiệp dùng tiền hoặc tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để trả
nợ ngay khi đến hạn và quá hạn. Tiền ở đây có thể là tiền gửi, tiền mặt, tiền đang

chuyển; tài sản có thể chuyển đổi thành tiền là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
(cổ phiếu, trái phiếu). Nợ đến hạn và quá hạn phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài
hạn đến hạn phải trả, nợ khác kể cả những khoản trong thời hạn cam kết doanh
nghiệp còn được nợ. Khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp được tính theo
công thức:
HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN NHANH = ( TÀI SẢN LƯU ĐỘNG & ĐẦU
TƯ NGẮN HẠN - HÀNG TỒN KHO) / NỢ NGẮN HẠN
HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN NHANH = ( TIỀN + TƯƠNG ĐƯƠNG
TIỀN) / (NỢ TỚI HẠN + NỢ QUÁ HẠN)
Thông thường hệ số này biến động từ 0,5 - 1
Hàng tồn kho là hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán, vật tư chưa thể bán nhanh, hoặc
khấu trừ, đối lưu ngay được, nên chưa thể chuyển thành tiền ngay được.
Khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp cao hay thấp, tình hình tài chính được
đánh giá tốt hay xấu tùy thuộc vào lượng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
lớn hay bé, nợ ngắn hạn nhỏ hay lớn. Tuy nhiên khi sử dụng hệ số thanh toán nhanh
phải lưu ý một số điểm:
Thứ nhất, công thức này vô hình chung đã triệt tiêu năng lực thanh toán "không dùng
tiền" của doanh nghiệp trong việc trả các khoản nợ đến hạn. Tức là chưa tính đến khả
năng doanh nghiệp dùng một lượng hàng hóa mà thị trường có nhu cầu cao có thể bán
ngay được hoặc xuất đối lưu; cũng như chưa tính đến khoản phải thu mà khi cần đơn vị
có thể thỏa thuận để bù trừ khoản nợ phải trả cho các chủ nợ. Và như vậy sẽ là sai lầm
khi lượng tiền của doanh nghiệp có thể ít, khoản đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp
không có nhưng lượng hàng hóa, thành phẩm tồn kho có thể bán ngay bất cứ lúc nào
lớn, khoản phải thu có thể bù trừ ngay được cho các khoản phải trả nhiều, mà lại đánh
giá khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp thấp.
Thứ hai, nợ ngắn hạn có thể lớn nhưng chưa cần thanh toán ngay thì khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp cũng có thể được coi là lớn. Nợ ngắn hạn chưa đến hạn
trả mà buộc doanh nghiệp phải tính đến khả năng trả nợ ngay trong khi nợ dài hạn và
nợ khác phải trả hoặc quá hạn trả lại không tính đến thì sẽ là không hợp lý.



Nhìn chung hệ số này bằng 1 là lý tưởng nhất. Tuy nhiên giống như hệ số thanh toán
nợ ngắn hạn, độ lớn của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn
thanh toán các món nợ trong kỳ
 Hệ số thanh toán lãi vay:
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi
như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây sức ép lên
công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay được tính
bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) trên lãi vay:
HỆ SỐ THANH TOÁN = LỢI NHUẬN TRƯỚC THUẾ VÀ LÃI VAY / LÃI VAY
PHẢI TRẢ
Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan trọng.
Rõ ràng, khả năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả năng thanh toán lãi của doanh
nghiệp cho các chủ nợ của mình càng lớn
Khả năng trả lãi vay của doanh nghiệp thấp cũng thể hiện khả năng sinh lợi của tài sản
thấp. Khả năng thanh toán lãi vay thấp cho thấy một tình trạng nguy hiểm, suy giảm
trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm Lãi trước thuế và lãi vay xuống dưới mức nợ
lãi mà công ty phải trả, do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán và vỡ nợ. Tuy nhiên rủi
ro này được hạn chế bởi thực tế Lãi trước thuế và lãi vay không phải là nguồn duy
nhất để thanh toán lãi. Các doanh nghiệp cũng có thể tạo ra nguồn tiền mặt từ khấu hao
và có thể sử dụng nguồn vốn đó để trả nợ lãi. Những gì mà một doanh nghiệp cần phải
đạt tới là tạo ra một độ an toàn hợp lý, bảo đảm khả năng thanh toán cho các chủ nợ
của mình.
Chỉ riêng hệ số khả năng thanh toán lãi vay thì chưa đủ để đánh giá một công ty vì hệ
số này chưa đề cập đến các khoản thanh toán cố định khác như trả tiền nợ gốc, chi phí
tiền thuê, và chi phí cổ tức ưu đãi.
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay còn được gọi là hệ số thu nhập trả lãi định kỳ và còn
có tên tiếng Anh là Times interest earned Ratio
2.2 Các hệ số phản ảnh cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản
 Cơ cấu nguồn vốn:

Để đánh giá khả năng tài chính của một công ty người ta thường dùng rất nhiều các chỉ
số tài chính. Trong đó, chỉ số phản ánh tình trạng nợ của một công ty rất quan trọng và
được nhà đầu tư, các chuyên gia phân tích tài chính quan tâm.
Chỉ số cơ bản phản ánh nợ của một doanh nghiệp bao gồm:
- Tỷ số nợ trên tổng tài sản
- Tỷ số khả năng trả lãi
- Tỷ số khả năng trả nợ
Thông thường nhà phân tích sử dụng tỷ số Nợ trên tổng tài sản, tỷ số này đo lường
mức độ sử dụng nợ của công ty so với tài sản,được tính bằng công thức:
HỆ SỐ NỢ = TỔNG SỐ NỢ / TỔNG TÀI SẢN


Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường
thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Ngược
lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tăng khả năng sinh lợi cho cổ
đông. Tuy nhiên muốn biết tỷ số này cao hay thấp cần phải so sánh với tỷ số nợ của
bình quân ngành.
Tỷ số nợ càng thấp thì mức độ bảo vệ dành cho các chủ nợ càng cao trong trường hợp
doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.
Thật khó để có thể đánh giá được mức độ vay nợ phù hợp của doanh nghiệp, vì tỷ số
nợ phụ thuộc rất nhiều yếu tố: loại hình doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp, tính
chất – lĩnh vực hoạt động, mục đích vay. Tuy nhiên thông thường, ở mức 60/40 là chấp
nhận được. Có nghĩa Hệ số nợ là 60% (Tổng tài sản có 100 thì vốn vay là 60
 Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ
Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ : phản ánh tỷ lệ tài sản cố định được đầu tư.
Tỷ suất này sẽ cung cấp dòng thông tin cho biết số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
dùng để trang bị TSCĐ và đầu tư dài hạn là bao nhiêu. Tỷ suất này nếu >1 thì chứng tỏ
khả năng tài chính vững vàng, lành mạnh. Khi tỷ suất < 1 thì một bộ phận của TSCĐ
được tài trợ bằng vốn vay, và đặc biệt mạo hiểm khi đó là vốn vay ngắn hạn.
TỶ SUẤT TỰ TÀI TRỢ = NGUỒN VỐN CHỦ SỞ HỮU / TỔNG TÀI SẢN

2.3 Những chỉ tiêu phản ánh về năng lực hoạt động kinh doanh
 Số vòng quay hàng tồn kho:
Số vòng quay hàng tồn kho (hay Hệ số quay vòng của hàng tồn kho) là một trong
những tỷ số tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
SỐ VÒNG QUAY HÀNG TỒN KHO = DOANH THU THUẦN / TỔNG TÀI SẢN
BÌNH QUÂN
 Số ngày vòng quay hàng tồn kho:
Số ngày vòng quay hàng tồn kho cho thấy khoảng thời gian trung bình hàng tồn kho
được lưu giữ.
Sự tăng lên của vòng quay hàng tồn kho qua các năm cho thấy sự chậm đi trong công
việc kinh doanh hoặc là sự tích trữ hàng tồn kho ở một công ty, điều đó cũng có thể
được hiểu rằng đầu tư vào hàng tồn kho đang trên mức cần thiết.


SỐ NGÀY VÒNG QUAY HÀNG TỒN KHO = (HÀNG TỒN KHO * 365) / GIÁ
VỐN HÀNG BÁN
 Vòng quay các khoản phải thu:
Số vòng quay khoản phải thu (hay Hệ số quay vòng các khoản phải thu) là một trong
những tỷ số tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nó cho biết
các khoản phải thu phải quay bao nhiêu vòng trong một kỳ báo cáo nhất định để đạt
được doanh thu trong kỳ đó.
SỐ VÒNG QUAY KHOẢN PHẢI THU = DOANH THU THUẦN / SỐ DƯ CÁC
KHOẢN PHẢI THU
Tỷ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Quan sát số vòng
quay khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp hay
tình hình thu hồi nợ của doanh nghiệp.
 Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân (hay Số ngày luân chuyển các khoản phải thu, Số ngày tồn
đọng các khoản phải thu, Số ngày của doanh thu chưa thu) là một tỷ số tài chính
đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ số này cho biết doanh nghiệp mất

bình quân là bao nhiêu ngày để thu hồi các khoản phải thu của mình.
KỲ THU TIỀN BÌNH QUÂN = CÁC KHOẢN PHẢI THU / DOANH THU BÌNH
QUÂN MỘT NGÀY
Dựa vào Kỳ thu tiền bình quân, có thể nhận ra chính sách bán trả chậm của doanh
nghiệp, chất lượng công tác theo dõi thu hồi nợ của doanh nghiệp. Theo quy tắc chung,
kỳ thu tiền bình quân không được dài hơn (1 + 1/3) kỳ hạn thanh toán. Còn nếu
phương thức thanh toán của doanh nghiệp có ấn định kỳ hạn được hưởng chiết khấu thì
kỳ thu tiền bình quân không được dài hơn (1 + 1/3) số ngày của kỳ hạn được hưởng
chiết khấu.
 Vòng quay vốn lưu động:cho biết tài sản ngắn hạn được chuyển đổi bao nhiêu lần
thành doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh vốn lưu động luân chuyển được bao nhiêu lần trong kỳ hay 1
đồng vốn lưu động thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Số vòng quay
càng lớn thì càng tốt, chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động hiệu quả.


VÒNG QUAY VỐN LƯU ĐỘNG = DOANH THU THUẦN / TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
BÌNH QUÂN
 Số ngày một vòng quay vốn lưu động:
Chỉ tiêu này cho biết thời gian bình quân của 1 vòng quay vốn lưu động trong kỳ. Thời
gian của 1 vòng quay vốn lưu động càng nhỏ càng tốt, chứng tỏ tốc độ luân chuyển vốn
lưu động của doanh nghiệp nhanh, thời gian luân chuyển được rút ngắn.
SỐ NGÀY MỘT VÒNG QUAY VỐN LƯU ĐỘNG = 360 / SỐ VÒNG QUAY VỐN
LƯU ĐỘNG

2.4 Chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận và phân phối lợi nhuận
 Tỷ số lợi nhuận trên tài sản: ROA
Tỷ số lợi nhuận trên tài sản (hay Chỉ tiêu hoàn vốn tổng tài sản, Hệ số quay vòng
của tài sản, Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản), thường viết tắt là ROA từ các chữ cái
đầu của cụm từ tiếng Anh Return on Assets, là một tỷ số tài chính dùng để đo lường

khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh nghiệp.
Đây là một chỉ số thể hiện tương quan giữa mức sinh lợi của một công ty so với tài sản
của nó. ROA sẽ cho ta biết hiệu quả của công ty trong việc sử dụng tài sản để kiếm lời.
ROA được tính bằng cách chia thu nhập hàng năm cho tổng tài sản, thể hiện bằng con
số phần trăm. Công thức tính như sau:
ROA = LỢI NHUẬN RÒNG / TỔNG TÀI SẢN BÌNH QUÂN
 Tỷ số lợi nhuận trên nguồn vốn: ROE
ROE là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Return On Equity, có nghĩa là Lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu hay lợi nhuận trên vốn
ROE = LỢI NHUẬN RÒNG / VỐN CHỦ SỞ HỮU BÌNH QUÂN
Trị giá ROE được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng theo niên độ kế toán sau khi đã trả
cổ tức cho cổ phần ưu đãi nhưng trước khi trả cổ tức cho cổ phần thường, chia cho toàn
bộvốn chủ sở hữu (hay vốn cổ phần) vào lúc đầu niên độ kế toán. Chỉ số này là thước
đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu
đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu
cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty
nào. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ
đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay


để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy
mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
 Tỷ số lơi nhuận trên doanh thu: ROS
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu (Tỷ suất sinh lời trên doanh thu, Suất sinh lời của
doanh thu, Hệ số lãi ròng) là một tỷ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi
của công ty cổ phần. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho cổ đông và
doanh thu của công ty.
ROS = LỢI NHUẬN RÒNG / DOANH THU THUẦN
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Tỷ suất này càng lớn thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp càng cao.



×