Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
ĐỀ CƯƠNG PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 12
1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH
Về tác phẩm này, các em ôn tập theo những dạng đề sau :
Dạng 1: Phân tích 1 đoạn trích: Đoạn đầu quan trọng nhất
Dạng 2: Cảm nhận/ bình luận/ phân tích 1 khía cạnh thuộc nội dung hoặc nghệ thuật
của bản tuyên ngôn
Dạng 3: Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm
Dạng 4: Phân tích tác phẩm/ đoạn trích, từ đó liên hệ thực tế ( dạng đề tích hợp nghị
luận xã hội
Ngoài ra có thể ôn đề đọc hiểu về đoạn trích trong TNĐL
Bài tập tham khảo :
Câu 1: Bình luận về sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập- Hồ Chí Minh.
Bài làm:
TNĐL là một tác phẩm chứa nhiều giá trị. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, giá
trị nào của tác phẩm này cũng thật sâu sắc. Về mặt thể loại văn học, Tuyên Ngôn Độc
Lập là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực, đáng lưu truyền muôn thuở. Một
trong những nét nổi bật của bản Tuyên Ngôn Độc Lập là sự lập luận sắc sảo, chặt chẽ
tạo nên một sức thuyết phục rất lớn. Xuất phát từ quan điểm sáng tác và đặc trưng thể
loại của tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy được cội nguồn của sức thuyết phục ấy.
Như mọi người đều biết, Tuyên Ngôn Độc Lập là một tác phẩm chính luận. Văn
chính luận thuyết phục người ta bằng những lý lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch
bằng những lý lẽ. Sức mạnh của nó là ở những lý lẽ đanh thép, những lập luận chặt
chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình
ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục
bằng lý lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên Ngôn độc Lập theo
quan niệm đó. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ như thừa.
Bởi vì lời giải đáp đã có sản trong văn bản:
‘Hỡi đồng bào cả nước!… “Chúng tôi (…) trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng’.
Như vậy là Bác viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa.
Còn viết để làm gì, thì viết để Tuyên Ngôn Độc Lập chứ còn có mục đích nào khác?
Thực ra vấn đễ không hẳn chi có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và thế giới chung
chung thì chắc Người không phải dùng đến lắm lý lẽ như vậy. Và chưa hẳn đã cần
phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên
Ngôn nhân quyền và dân quyền của Mỹ và Pháp từ thế kỷ XVIII. Vậy đối tượng và
mục đích của văn kiện lịch sử nàyphải được tìm hiểu cặn kẽ -hơn nữa. Cần thấy rằng
khi Bác Hồ đọc bản Tuyên Ngôn thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội
Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải pháp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông
Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mỹ, đã trực sản ở
biên giới. Người viết bản Tuyên Ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh –
Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho
Pháp trở lại Đông Dưong” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 1
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
15-8-1945 Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị
cho cuộc xâm lược thứ hai của mình đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ
“hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công
khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi Phát xít Nhật đã bị Đồng
minh đánh bại. Như vậy là bản Tuyên Ngôn không chỉ đọc trước đồng bào và một thế
giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối
tượng thế giới ở đây trước hết là bọn đế’ quốc Mỹ, Anh, Pháp. Và sự khẳng định
quyền độc lập tự do của dân tộc ở đây đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ
lý lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu
của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối
thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy ông đập lưng ông”.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính lời lẽ của
tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên
Ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn
hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên
quyết. Khéo léo vì nô tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp,
người Mỹ .Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm
vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước
Mỹ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản tuyên
ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng cd nghĩa là
đặt ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau, ba bản
Tuyên Ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí
Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô Đại cáo ngày
xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu Đinh.
Lê, Lý, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tông, Nguyên của Bắc quốc.Mà đăng
đối cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 thực ra đã giải quyết
đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776) và của Pháp (1789).
Bản Tuyên Ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một
trăm năm nay đã gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu đặt ra
cho cuộc cách mạng của nước Mỹ: đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc
Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên Ngôn cũng viết: “Dân ta lại đánh đổ chế độ
quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”. Đấy cũng là tinh
thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ,vấn đề hàng đầu là vấn đề
độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã mở đầu như
thế: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập
năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên
thế giới, sinh ra đầu bình dàng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Y kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của HỒ
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 2
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước
ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển
quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều
có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. (HồChí Minh trong lòng nhân dân
thế giới – NXB Sự thật. H. 1979).
Vậy thì có thể xem cái luận điểm ”suy rộng ra’ kia là phát súng lệnh khởi đầu cho
bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế
giới vào nửa sau thế kỷ XX?
Những kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọạ nén độc lập của dân tộc khi bản
Tuyên Ngôn ra đời và bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc chiến đấu
vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đầu ấy rất cần đến sự đồng tình và
ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lý của cuộc kháng
chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân
muốn “hợp pháp hoá” cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quôc tế. Bản Tuyên
Ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và
đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của chúng đối với Đông Dương
ư? Thì bản Tuyên Ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính
nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ,
chia rẽ ba kỳ, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách
ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối
cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào ta
bị chết’ đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? ThÌ bản Tuyên
Ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm chúng đã bán nước ta
hai lần cho Nhật”.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có quyền trở
lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dươngcó còn là thuộc địa của chúng nữa đâu?
Bản Tuyên Ngôn vạch rõ: ”Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc
địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì
nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Sự thật là dàn ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ
tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lý cực kỳ quan trọng. Nó sẽ dẫn tới
lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên Ngôn: ”Bở thế cho nên, chúng tôi lâm thời
chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát ly
hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước
Việt Nam. Xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Sức mạnh của
chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lý lẽ nào
có sức thuyết phục cao hơn là lý lẽ của sự thật. Vì thế Người viết Tuyên ngôn luôn
luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…” “sự thật là…” Và cuối cùng thì
nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập”… Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của
bản Tuyên Ngôn. Đấy là hệ thống lý lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 3
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do
hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên Ngôn đã
đưa ra những lý lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định:
Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho
Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước
và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật.
Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng hành
động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm
giết một số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng’ thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ
khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9
tháng 3, Việt Minhđã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho
nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”.
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến
đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng Minh chống phát xít, đã nêu ao tinh
thần nhân đạo, bác ái như thế. “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc’ do phải được
độc lập”…
Tinh thầni khẳng định trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa: hưởng
độc lập tự do không chỉ là một cái quvền phải có, không phải chỉ là một tư cách cần
có, mà đó là một hiện thực: ‘Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự
thật đã thành một nước tự do, độc lập’, Và vì thế “Toàn thể đàn tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập
tự do ấy’
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo là “Thiên cổ hùng văn”. Cũng có thể nói như thế
đối với bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản Tuyên
Ngôn ra đời không còn ở thời kỳ văn học nguyên hợp, văn sử bất phân nữa để người
viết đưa vào những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài Cáo của người
xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ ở đây là dàn dựng được
một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chúng không ai
chối cãi được. Và đằng sau những lý lẽ ấy là một tấm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã
tổng kết được trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, khúc triết, kinh
nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại. Chính Bác Hồ cũng đánh giá đây là thành công thứ ba
khiến Người cảm thấy “sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh
nghiệm của mình./.
( Bài viết trong sách tham khảo)
Câu 2 : Từ “Tuyên ngôn độc lập” (Hồ Chí Minh), anh/chị có suy nghĩ gì về độc lập,
tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân.
Định hướng cách làm:
Mở bài:
+Giới thiệu tác giả tác phẩm
+Giới thiệu vấn đề nghị luận:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 4
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Vấn đề cần nghị luận là: Từ Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh), suy nghĩ về
độc lập – tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân
Thân bài : có thể trình bày theo định hướng sau:
+ Khái quát những nội dung chính của bản tuyên ngôn (Các luận điểm chính của bản
tuyên ngôn) trong hoàn cảnh lịch sử- Cách mạng tháng Tám:
-Hoàn cảnh lịch sử: Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp lâm le trở lại
Việt Nam…
– Các luận điểm chính của bản tuyên ngôn: nêu nguyên tắc về quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, tố cáo tội ác thực dân trong 80 năm qua, phủ nhận quyền của Pháp đối
với Việt Nam, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thể hiện quyết tâm bảo
vệ nền độc lập.
+ Suy nghĩ về độc lập tự do trong thời đại ngày nay (Trong mỗi giai đoạn lịch sử, độc
lập tự do có ý nghĩa khác nhau):
– Thời đại ngày nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa (Xu thế không thể đảo ngược).
-Độc lập tự do thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau: bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biên
giới hải đảo; độc lập về kinh tế, không phụ thuộc vào các nước khác trên tinh thần
hợp tác; về văn hóa: chúng ta “Hòa nhập” nhưng không “Hòa tan”, khẳng định .vị
thế, bản sắc văn hóa dân tộc trên trường quốc tế…
Kết bài: Bàn bạc mở rộng vấn đề:
-Với mỗi cá nhân: suy nghĩ, hành động luôn trên tinh thần của công dân nước Việt
Nam độc lập tự hào dân tộc. Trong đời sống cá nhân, độc lập tự do có ý nghĩa hết sức
lớn lao khi ta thực sự sống là chính mình.
Câu 3 : Đọc đoạn trích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác
ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn
kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một
cách vô cùng tàn nhẫn.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 5
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
1. (1 điểm) anh (chị) hay cho biết vị trí của đoạn văn trên trong tác phẩm “Tuyên
ngôn đô ôc lâ ôp” của Hồ Chí Minh? anh (chị) hay kể tên những bản tuyên ngôn đô ôc
lâ ôp đã có trong văn học Viê ôt Nam?
2. Nêu chủ đề của đoạn trích trên?
3. Anh (chị) hãy nêu nét đă cô sắc của đoạn trích trên?
4. Anh (chị) viết mô ôt đoạn văn thể hiê nô sự hiểu biết của mình về đoạn văn trên
(không quá năm câu).
Trả lời :
1
Đoạn trích nằm ở phần 2 của bản “Tuyên ngôn độc lập”
Văn học Việt Nam đã ghi nhận 3 tác phẩm được xem là Tuyên ngôn độc lập:
+ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt
+ Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
+ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
2
Chủ đề của đoạn trích: tố cáo tội ác thực dân Pháp: Kinh tế, chính trị, văn hóa, thể
hiện long căm thù giặc của Hồ Chí Minh.
3. Đặc sắc về nghệ thuật:
Nghệ thuật lặp cấu trúc câu kết hợp với điệp từ, nghệ thuật liệt kê.
Dẫn chứng xác đáng, chân thực vạch trần bản chất độc ác với thái độ gay gắt của tác
giả.
4. Đoạn văn nằm ở phần 2 của bản Tuyên ngôn, phần tố cáo tội ác của giặc. Vạch
trần bộ mặt tàn ác quỷ giữ của thự dân Pháp. Đoạn trích có vị trí quan trọng trong
bản Tuyên ngôn với dẫn chứng chính xác, chân thực với cách điệp lại cấu trúc câu,
lặp từ, góp phần taọ nên thành công cho bản Tuyên ngôn.
Câu 4 : Đánh giá về bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh (sách Ngữ văn 12,
tập một), có ý kiến cho rằng: Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá.
Nhưng cũng có ý kiến nhận định: Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận
mẫu mực.
Bằng cảm nhận của mình về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.
Gợi ý :
1 Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ cách mạng đồng thời là nhà văn, nhà văn hóa vĩ đại. Sáng
tác của Người phong phú, đa dạng và thống nhất sâu sắc, nhuần nhị mối quan hệ giữa
chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Tuyên ngôn Độc lập là tác
phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương Hồ Chí Minh.
- Tuyên ngôn Độc lập có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn đồng thời phản ánh một
cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật văn chính luận của Hồ Chí
Minh.
2 Giải thích ý kiến
- Ý kiến thứ nhất chủ yếu đánh giá về giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập. Đó là
văn kiện có ý nghĩa khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra trang sử
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 6
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
mới cho dân tộc.
- Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tới giá trị nghệ thuật của tác phẩm, xem đây là tác phẩm
chính luận đặc sắc, có tính thuyết phục cao. 0,5
3 Bình luận , chứng minh hai ý kiến
Cần tập trung bình luận:
- Cả hai ý kiến đều xoay quanh giá trị nội dung và nghệ thuật của bản Tuyên ngôn
Độc lập, đánh giá về thành công tiêu biểu của tác phẩm.
- Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành cách đánh giá đầy đủ,
toàn diện về tác phẩm.
- Về giá trị lịch sử: Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân
đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh
dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác giả đã nêu lên cơ sở pháp
lí vững chắc, tố cáo những tội ác của thực dân Pháp gây ra trên đất nước ta như
những bằng chúng, thước phim lịch sử để từ đó tuyên bố độc lập và khẳng định quyết
tâm giữ vững nền độc lập, tự do của đất nước.
- Về giá trị nghệ thuật: Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực thể hiện
ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội
ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch
và các phe nhóm cơ hội quốc tế, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân và khát
vọng độc lập, tự do cháy bỏng của tác giả và toàn dân tộc.
- Sự kết hợp giữa giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật đã khiến cho bản Tuyên ngôn
Độc lập từ khi ra đời cho đến nay là áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc hàng
chục triệu trái tim con người Việt Nam.
Xem thêm các đề khác tại đây : />2. TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
Dạng 1 :Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng
Bài này các em chú ý cho cô khổ 1-2-3 nhé, khổ 4 không quan trọng mấy.
Dạng 2 : Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng
Dạng 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong bài
thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung.
Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc, Đất nước,
hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,…
Dạng 4 : Liên hệ thực tế.
Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới hình ảnh
người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,… hoặc liên hệ
tới lí tưởng sống của thanh niên thời nay.
Dang 5 : Cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến, cảm nhận chi tiết , hình ảnh, …
Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng
1. Quang Dũng.
– Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 7
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hâ ôu, phóng
khoáng, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính: Mây đầu ô, Thơ văn
Quang Dũng…
2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập
đầu năm 1947.
– Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng
thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc
Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng
chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học
sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật
chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất
dũng cảm.
– Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang
đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài
thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài
thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời
gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
3. Đặc điểm nổi bật của bài thơ Tây Tiến
– Cảm hứng lãng mạn: Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi trữ tình
– nỗi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh,
phát huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng đô ôc
đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ
dô ôi, vừa thơ mô ông trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mô ông
mơ, lãng mạn. Sử dụng rô ông rãi thủ pháp đối lâ ôp: đối lâ ôp về hình ảnh, thanh điê ôu,
tính cách của người lính TT.
– Âm hưởng bi tráng: “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm
có âm hưởng bi
tráng thường không né tránh những chuyê ôn xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa
đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ
trong những cuô ôc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau
thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện
bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
– Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
a. Nội dung:
– Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ,
trữ tình.
– Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm
hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam
trong kháng chiến chống Pháp.
– Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 8
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
quê hương Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
– Nỗi nhớ của tác giả:
Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc
trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị bộ
đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
– Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” ,
gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi
tên những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến,
núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến
trở thành một “ mảnh tâm hồn” của tác giả.
– Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “
chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng ,
nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung
đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm
không thể nào quên.Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác
giả trào dâng nỗi nhớ da diết, mãnh liệt.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ ,
con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét.
– Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một
nét riêng không dễ gì quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
….
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
…..
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
……
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân
mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua.
+ Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm
áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức
tranh Mường Lát thêm gần gũi, trìu mến.
+ Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới
mưa thật lãng mạn, trữ tình.
+ Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp
xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên.
+ Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 9
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
khiến cho con người cảm giác bất an : “cọp trêu người”.
Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có
nhiều gian nan, vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, trữ tình.
– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua
đoạn thơ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
…..
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công
trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, bút pháp,…
+ Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút”
+ Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời
– “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao ,
ngàn thước xuống” .
+ Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu
người”
+ Sử dụng nhiều thanh Trắc.
+ Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung
đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian
khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn,
khó quên.
– Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ toàn
thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến
được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà
ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường
hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách.
Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng
của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên
thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử
thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
– Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ
sức để tiếp tục nhiệm vụ, lí tưởng của mình:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước
nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không
tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 10
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành hành nên
không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi trong
những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến. sự ra
đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang Dũng. Tác
giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và càng thôi
thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do.
Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc
của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây
Tiến và bức tranh núi rừng Tây Bắc hiện về khá rõ nét.
Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc : Yêu
mến, gắn bó và tự hào.
( Chế Lan Viên : Khi ta ở , chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn )
* Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến
chống Pháp.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
* Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến.
Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên
những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó
quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan lửa trại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào
( Tây Bắc, Lào) .
“ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và
tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”,
có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt
tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc
nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm
vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người.
+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có
chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến
các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được
tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có
những “ đóa hoa” say lòng người đến thế.
+ Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với
các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn.
+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh
sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và
đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây
Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây
phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang
của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 11
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
* Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp
riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến ,
Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm
nếp thật hấp dẫn ,…thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh
Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884
mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra
bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một
mảnh trong tâm hồn của bao người.
“ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn” ( Chế Lan Viên )
+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu
làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in
đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “
thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên
trong lòng.
+ “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ
sông bờ suối“nẻo bến bờ”.
Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên
nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”.
+ Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm
phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến
người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có
nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng
đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây
Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang
đong đưa
trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có
“tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và
con người Tây Bắc thật tài hoa!
Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao
nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại
bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc.
+ Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác
giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà
thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có
những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá
đến như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài
của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính
thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 12
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và sự
gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và
với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 3 : chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn
trong máu lửa chiến tranh.
TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành
* Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm ,
đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa
cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da
phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,…
TâyTiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
– Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến
chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh
cái khốc liệt của chiến tranh.
Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với
nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang ,
tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp
sợ.
– “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các
chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi
rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ
Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người
lính cụ Hồ.
* Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu
thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội,
biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người
thân thương,…
– Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt
kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của
đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ.
– Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều
thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo việc
đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình.
Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn
năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các
anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên
được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên được những
tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn,
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 13
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
…? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều
thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của
Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn
của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc.
Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh
thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi
vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm
kháng chiến chống Pháp.
* Bốn câu thơ tiếp theo tô đậm chân dung chiến sĩ Tây Tiến:
– Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ
nằm lại nơi chân đèo góc núi :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết
ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám
lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài
của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí,
tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên
cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ
tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết
trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết
tử cho Tố quốc quyết sinh”.
Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng,
cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân
tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong
những năm kháng chiến chống Pháp:” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai
câu cuối của đoạn thơ:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh.
Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”.
Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống
là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “
chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm
lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy
chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu
trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 14
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
* Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài .
Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng
tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được
vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và
chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi
mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:
“ Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !” ( Tố Hữu )
* Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định ,
ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và
tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.
b. Nghệ thuật:
– Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh.
– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,..
– Hình ảnh đặc sắc, đậm chất thơ chất nhạc.
– Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng.
Nét bút tài hoa của Quang Dũng.
Một số đề tham khảo :
Đề 1 : So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến – Quang Dũng)
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Mở bài:
Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những bài thơ
đặc sắc trong nền thơ cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm này đã nói về những con
người vô danh lặng thầm chiến đấu bảo vệ quê hương. Mỗi bài thơ đều để lại những
cảm xúc, suy tư sâu lắng trong lòng người đọc. Trong đó có những câu thơ rất đặc
sắc:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……………………………….”
Và:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 15
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
“Có biết bao người con gái con trai
……………………………………..”
Thân bài:
Trước hết chúng ta tiến hành phân tích từng đoạn:
a.Đoạn thơ trong bài Tây Tiến
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn thơ
+Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính, sống
một đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc trong
thơ ông. Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai“chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh” – người lính Tây Tiến.
+Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là
thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu
hao lực lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt
động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Năm
1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị
cũ sáng tác bài thơ này.
+ Bài thơ có 4 khổ, đây là khổ thứ 3, nội dung khắc hoạ hình tượng người lính TT
*Phân tích cụ thể:
-Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt động của
đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây Tiến đã đi
qua – Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ mộng, trữ tình,
vùng đất ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình. Trên nền cảnh ấy
là hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với phẩm chất hào hùng
đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền biên giới – họ đã hi
sinh vì lí tưởng sống cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
-Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện không khí
trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những người đã ngã
xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức gợi (biên
cương, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thái cổ kính, gợi liên tưởng
đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sẵn sàng chấp nhận cảnh
“da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.
-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng sức
nặng của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng không
phải mộ theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau ngay trên
con đường hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong không
gian bao la, mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm mồ ấy
gợi lên bao nỗi xót xa.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 16
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi) để nhấn
mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến
tranh, sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là sự lựa
chọn đầy trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp lắm” và
“cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời
xanh” cho thấy sự dứt khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái
chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc,
hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước.
Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại“Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là lí
tưởng sống cao đẹp, hào hùng.
-Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang Dũng
rất chân thực, ông không hề né tránh hiện thực:
Áo bào thay chiếu anh về đất
“Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng cái thiếu
thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của người lính. Từ
Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất”làm cho cái chết của người lính
Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều. Nhà thơ vẫn gợi
lên sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật chất, ở vùng biên
giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến sĩ đã ngã xuống
không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để liệm thân mà khi
ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành quân. Đó có thể
là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng với thái độ trân
trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm áo bào của chiến
tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông núi. Cách nói “về đất” không chỉ là
cách nói giảm, nói tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng. Cái chết không
phải là ra đi vào cõi hư vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ yêu thương. Đất
Mẹ cũng đã mở lòng đón những đứa con đầy trách nhiệm của mình trở về. Họ đã ra
đi như thế đấy. Họ đã nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con đường hành
quân đầy gian khổ, nhọc nhằn, họ đã để lại mình nơi biên cương lạnh lẽo, hoang
vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái chết của họ dù để lại nhiều xót xa trong lòng
người đọc nhưng họ ra đi một cách rất thanh thản. Họ chỉ là “không bước nữa”, là
“bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không phải là chết. các anh đã ngã xuống, đã
“hoá thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỗi thế núi hình sông, mỗi tên đất tên làng
đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về trong lòng Đất Mẹ để “cho cây đời
mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống bất tận.
– Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ
đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để
tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được phóng
đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay động đất
trời, khiến dòng sông gầm lên đớn đau, thương tiếc.
* Nghệ thuật:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 17
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
– Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất
tốt đẹp của người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
b.Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của nhà
thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước:
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời chống Mỹ . Ông xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân
ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa
Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….
+Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971
tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt .
*Phân tích cụ thể:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
– Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện
thân mật giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng
nề, khô khan của chất chính luận.
– Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương
của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình
ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối
với mỗi con người.
Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết trân trọng đất nước hôm
nay.
– Từ việc xác định vai trò quan trọng của đất nước đối với mỗi con người, nhà thơ
khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ. Phép điệp ngữ
“phải biết” vừa có ý nghĩa cầu khiến vừa là lời thiết tha, mong chờ như mệnh lệnh từ
trái tim. Ba cụm động từ cụ thể hóa trách nhiệm của mỗi con người: “Gắn bó” là lời
kêu gọi đoàn kết, hữu ái giai cấp. Vì, có đoàn kết là có sức mạnh. “San sẻ” là mong
muốn mỗi người có ý thức gánh vác trách nhiệm với quê hương. Còn “hóa thân” là
biểu hiện tinh thần sẵn sàng hi sinh cho đất nước, là sự dâng hiến thiêng liêng, đẹp
đẽ.
* Nghệ thuật:
– Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại,
giọng điệu trữ tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ “Đất Nước” dược lặp lại
hai lần kết hợp cách viết hoa đã tăng thêm sự tôn kính thiêng liêng, thể hiện quan
niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”.
So sánh:
* Giống nhau:
Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ
mình cho đất nước non sông.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 18
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
* Khác nhau:
– “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ cũa người lính vùng
cao về những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Đất
Nước” hoàn thành trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên
bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng quát đưa đến những chiêm nghiệm mới
mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn bó máu thịt với mỗi con
người.
-Đoạn thơ trong bài Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn, có sử dụng nhiều từ
Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để
tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người chiến sĩ
vô danh.
+Đoạn thơ trong Đất Nước được viết bằng thể thơ tự do, giọng điệu tâm tình trò
chuyện, từ ngữ giản dị, gần gũi nhằm khẳng định vai trò to lớn của nhân dân vô
danh.
Lí giải :
Sự khác biệt như trên :
Do hoàn cảnh sáng tác
Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ
Kết bài: Đánh giá chung về giá trị hai đoạn thơ và tài năng nghệ thuật của hai tác giả
Đề2 : Đề so sánh hai đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử và đoạn thơ
trong bài Tây Tiến – Quang Dũng.
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử
Hướng dẫn:
1. Mở bài :
Giới thiệu 2 tác giả , 2 bài thơ , 2 đoạn thơ
2. Thân bài :
+Ý khái quát : một vài nét về tác giả tác phẩm và vị trí đoạn thơ cần phân tích
+Phân tích, cảm nhận từng đoạn thơ:
a. Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng,
trữ tình.
Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy”- khoảng
thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 19
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
thương trong tâm trí nhà thơ. Đó có thể là khi đoàn quân chia tay một bản làng Tây
Bắc chăng? Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyền hoặc:
“hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”. Cảnh vật hiện
lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi,
rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm chất lãng mạn của người lính Hà thành:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm
của một thời đã xa. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây lau tưởng như vô tri vô giác
cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ
mộng hơn. Thiên nhiên mang “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay
bởi nơi đây còn vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận
tinh tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm chứa chan
xúc cảm.
Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của Quang
Dũng . “trên độc mộc”- chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện
lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ
đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng
của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà
hào hùng?. “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể
là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội
chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm
sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và
khéo léo:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết ‘đắt’ nhất mà Quang Dũng
tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn
đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh
sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang
“trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi
đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt đong đưa, lúng
liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn yêu đời
nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế? Bằng bút pháp
lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn
vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn
cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con
người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao
nguyên đến như vậy!
Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã
quyện hoà với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về
đồng đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 20
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
hồn một người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. Xin nhắc mãi vần thơ
của ông trong nỗi nhớ chơi vơi da diết!
b. Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm
nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng.
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên” … ở khổ thơ thứ hai,
Hàn Mạc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ
thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”. Cũng có mây,
nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường, đôi ngả:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”.
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như
một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế
tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. Thi nhân đã và đang sống
trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như
tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mạc Tử.
Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi
xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng
thêm mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt
triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà
con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ
“lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội
cũng mang tình người và hồn người.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía
cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều,
tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm
cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương
Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ
mộng.
“Thuyền, ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực
rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3
bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm
“có chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng
khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến
đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Cả hai câu thơ của Hàn Mạc
Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò.
Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải
“về kịp tối nay” vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của
ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”:
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 21
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Con thuyền vô định. Phiếm chỉ — là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm
kiều, e ấp, mà chơ vơ còn lại con thuyền mồ côi khắc khoải đợi chờ trăng!
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng
ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ
đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng
học ở Huế, từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thôn Vĩ, mang tên
một loài hoa. Với chàng thi sĩ tài hoa đa tình và bất hạnh, đang sống trong cô đơn và
bệnh tật, nhớ Vĩ Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh “gió theo lối gió, mây đường
mây”, cảnh thuyền ai đậu bến sông trăng đó là cảnh đẹp mà buồn., Buồn vì chia lìa,
xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
3. Nét tương đồng và khác biệt
a. Tương đồng:
+ Cả hai đoạn thơi đều là sự cảm nhận của cái tôi trữ tình về khung cảnh sông nước
quê hương.
+ Chính cái tôi lãng mạn chắp cánh cho cảnh vật thêm thơ mộng, huyền ảo, lung
linh. Cả hai đoạn thơ đều cho thấy nét bút tài hoa của hai thi sĩ.
b. Khác biệt:
+ Đoạn thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc tâm trạng chia ly,mong nhớ
khắc khoải.
+ Đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến mang nỗi nhớ da diết về thiên nhiên miền Tây, về
kỷ niệm kháng chiến.
4. Lí giải sự tương đồng và khác biệt
+ Cả Quang Dũng và Hàn Mặc Tử đều là những hồn thơ lãng mạn, tài hoa.
+ Mỗi nhà thơ đều mang một cảm xúc riêng khi đứng trước khung cảnh sông nước.
+ Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng của mỗi nhà thơ và hoàn cảnh thời đại để lại
dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh thơ của mỗi nhà thơ.
Kết bài :
Đánh giá chung
– Hai đoạn thơ thể hiện cho vẻ đẹp tâm hồn của hai nhà thơ ở hai thời cuộc, hai cảnh
ngộ khác nhau
-Hai đoạn thơ kết tinh tài năng nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và Quang Dũng
Đề 3 : Phân tích đoạn 1 Tây Tiến , từ đó nhận xét về bút pháp lãng mạn của Quang
Dũng
Bài làm :
QD là một nghệ sĩ đa tài, ông có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh, cả soạn nhạc. với
thơ, ông là nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hầu, thơ ông luôn có hình ảnh
“Cái tôi” hào hoa, thanh lịch,giàu chất lãng mạn nhưng rất mực hồn nhiên và chân
thực.Ra đời từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cùng đề tài về người lính
với Nhớ của Nguyên Hồng, Đồng Chí của Chính Hữu, TT của QD lại cuốn hút một
cách khác thường.Tác phẩm mang đậm hào khí lãng mạn của một thời, gắn với một
giai đoạn lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Với bút pháp lãng mạn, QD đã
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 22
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
khắc hoạ thành công hình tượng người lính TT trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ,
tráng lệ :
“Sông Mã xa rồi TT ơi!
……………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Tây Tiến là đơn vị được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào để bảo vệ biên giới Việt_Lào và miền Tây Bắc Bộ VN, nhằm đánh tiêu hao lực
lượng quân đội Pháp ở thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh,sinh
viên hà nội, trong đó có Quang Dũng, với sức trẻ họ đã vượt qua những khó khăn
gian khổ một cách lạc quan nhất. sau khi QD chuyển đơn vị, tại Phù Lưu Chanh, tác
giả đã viết nên “nhớ TT” sau đổi lại thành “TT” để phù hợp với ý nghĩa rộng hơn,
thâu tóm cả một thời TT, gợi kỉ niệm của một đoạn đời bi tráng của người lính.
Trước hết, cần hiểu cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái
tôi tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ,
phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng
ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng tượng
liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương,
phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Cảm
hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu được thể hiện
trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp con người
mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của
dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác, nó nâng
đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh gian khổ
để hướng đến ngày chiến thắng.
Cả bài thơ là nỗi nhớ tha thiết của tác giả về đoàn quân TT, người đọc cảm nhận
được cảnh thiên nhiên hùng vĩ mĩ lệ của núi rừng TB và hình ảnh người lính gan dạ
dũng cảm mà tâm hồn trong sáng hào hoa.Tuy nhiên, bút pháp lãng mạn của QD
được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ thơ đầu:
“Sông Mã xa rồi TT ơi!
……………………….
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ của QD về thiên nhiên và núi rừng TB hùng vĩ nhưng thơ
mộng lãng mạn, cùng con đường hành quân gian khổ. Bắt đầu cho nỗi nhớ là tiếng
gọi tha thiết “ TT ơi !”, âm hưởng của vần ơi tạo nên cảm xúc lớn. Nhà thơ nhớ sông
Mã hiền hòa cùng núi rừng vì đó là nơi những người chiến sĩ từng gắn bó, là địa bàn
đóng quân, là nơi sống, nơi chiến đấu, nơi có nhiều kỉ niệm một thời TT. Nỗi nhớ lại
thêm khắc sâu qua điệp từ “nhớ”, tác giả nhớ về TT với nỗi nhớ “chơi vơi” _đó là
những nhớ thương đầy ắp, mênh mông, cảm chứ không nhìn được, nó như muốn tràn
ra khỏi không gian để xoáy vào lòng người. nỗi nhớ ấy trong ca dao ta cũng từng bắt
gặp:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 23
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
Nỗi nhớ không định hình trong” nhớ chơi vơi” còn gợi sự chông chênh, mở ra cảm
xúc về đèo cao, vực sâu, dốc thẳng, là cả một chuỗi vô vàn những khó khăn nguy
hiểm đang chờ dợi phía trước:
“ SK sương lấp đoàn quân mỏi
ML hoa về trong đêm hơi”
Con người luôn trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những cái tên rất lạ
SK, ML, … qua màn sương muối dầy đặc, người lính hiện ra với dáng vẻ mệt mỏi,
đó là những khó khăn mà họ_những học sinh sinh viên HN_phải đối mặt, khắc
nghiệt của thiên nhiên và tính chất công việc đã gần như vắt kiệt sức họ. nhưng cái
“mỏi” của đoàn quân cũng dần dần biến mất trước cảnh ML thơ mộng, lãng mạn, ảo
diệu với “ hoa về trong đêm hơi”.
Với bút pháp lãng mạn kết hợp yếu tố tả thực, nhà thơ QD đã ghi lại chặng đường
hành quân gian khổ của người lính TT :
“ dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Người đọc hình dung được con đường hành quân gập ghềnh, quanh co như kéo dài
vô tận thông qua các từ láy tượng hình “ khúc khuỷu” “thăm thẳm”.sự chông chênh
nguy hiểm của núi rừng TB gợi con đường ra trận của tráng sĩ năm xưa trong Chinh
phụ ngâm :
“ Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi thấp đà lại cao”
(Đặng Trần Côn-Đoàn Thị Điểm)
Điệp từ “dốc” kết hợp thanh trắc, đó như hơi thở, như những tiếng bước chân nặng
nhọc của người lính đang ngược dốc. để tăng tính biểu cảm, nhà thơ còn cường điệu
độ cao của con đường hành quân” heo hút cồn mây súng ngửi trời”. trong cái khó
khăn nguy hiểm , nhà thơ chiến sĩ có những liên tưởng táo bạo đầy chất lính, pha
chút hóm hỉnh nghịch ngợm, núi cao tuong chừng như trên mây, mũi súng như chạm
vào trời. đó là tư thế của người lính đầy khí thế sánh ngang với trời xanh
“ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luôn mưa xa khơi”
Các cặp hình ảnh tương phản “ lên cao_xuống” kết hợp phép lặp cú pháp và điệp ngữ
ngàn thước càng làm cho cảnh thiên nhiên hiểm trở. Những khó khăn gian khổ là thế
nhưng lại nhẹ đi, êm ả hơn với câu toàn gần bằng tiếp sau: “ nhà ai PL mưa xa khơi”.
XDiệu trước đây cũng từng viết hai câu thơ toàn vần bằng mà ông rất tâm đắc:
“ Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Giữa những câu vần trắc xen lẫn câu vần bằng , âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng
điệp hơn . Cùng với cách dùng từ bay bỏng của QD bài thơ trở nên lãng mạn và hào
hùng. Khung cảnh thiên nhiên hiện lên ở TT thật hoang sơ, kì vĩ. Trên cái nền thiên
nhiên dữ dội hình ảnh đoàn quân tt thật nhỏ bé nhưng chính sự đối lập tương phản đó
càng làm tăng khí phách hào hùng kẻ thù cũng như những gian khỗ không gì khuất
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 24
Đềề cương gửi tặng học sinh- Cô thu Trang
phục nổi . Trên đường hành quân có những người lính đã nằm lại mãnh đất xa lạ để
không bao giờ tỉnh dậy .Nhưng tác giả đã không ngần ngại khi nói về cái chết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Người lính hiện ra với từ xưng hô gần gũi, thân mật “ anh bạn”-họ là anh em , bạn
bè, đồng đội. Những khó khăn gian khổ đã thật sự vắt kiệt sức người lính . Quang
Dũng miêu tả sự hi sinh của người lính theo cảm hứng lãng mạn, dùng cách nói
giảm nói tránh đầy tính nghệ thuật: “gục lên súng mũ”, “ bỏ quên đời”,”không bước
nữa”. Cái chết của người lính có gợi thương như là cái chết bi hùng , không bi lụy
.Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa” , “bỏ quên đời” gợi tư thế hiên
ngang của người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn
giản như một giấc ngủ mà thôi . Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ” đầy xót xa nhưng
cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt
gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” : “ Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh
phun theo lửa đạn cầu vồng” . Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng
chân dung người lính Tây Tiến .
Dường như QD không muốn người đọc chìm sâu trong cảm xúc xót thương , nên
ngay sau đó là hình ảnh hào hùng của thiên nhiên :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người “
Hai câu thơ mở ra cảnh hoang sơ đến rợn người ở TB, nơi những hiểm nguy đang
rình rập ,đe dọa tính mạng,nhưng người lính không lùi bước, vẫn ngang tàng và coi
thường thử thách.”cọp trêu người”-có một cái gì só rất nghịch, rất lính .sau những
thử thách của thiên nhiên , là cành thanh bình yên ấm với những kỉ niệm ấm áp tình
người,tình quân dân:
“Nhớ ôi TT cơm lên khói
Mai Châu mùa em thêm nếp xôi”
Nếu những gian khỗ đáng nhớ thì những ngọt ngào giữa gian khỗ còn đáng nhớ hơn .
QD nhớ những bữa cơm nóng , ấm áp tình đồng đội. câu thơ gơi cảm xúc nồng nàn
với kĩ niệm đơn sơ,nhỏ bé trong cuộc sống người lính , từng sinh hoạt hằng ngày dều
hóa thân một thứ kỉ niêm thân thương.”nhớ ôi” là cảm sâu lắng , là những hồi tưởng
chân thật dến da diết. hương thơm ấy không chỉ là hương nếp xôi mà còn là hương vị
của tình người,”em-cô gái Mai Châu”.
Bút pháp lãng mạn của QD trong TT được biểu hiện cụ thể trong lối viết không
hướng về cái bi,có gợi thương, gơi sự đồng cảm nhưng không xoáy sâu vào cảm xúc
bi thương . Xuyên suốt khổ thơ đầu nhà thơ luôn hướng tới những hình ảnh kỳ vĩ
“đèo cao”, “vực sâu” “ dốc thăm thẳm” hay “súng ngửi trời”,…cùng những hình ảnh
thơ mộng “hoa”,”sương”, hình ảnh chân thật gầu gũi đầy tình người “cơm lên khói”,”
nếp xôi” ,ngoài ra ông còn kết hợp với thể thơ thất ngôn trường thiên giàu nhạc điệu
hào hùng,mạnh mẽ .QD sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ: từ láy, nhân hóa,
điệp từ,điệp cấu trúc ngữ pháp và nhiều hình ảnh giàu sức gợi. Tất cả tạo nên một
tổng thể hài hòa , chặt chẽ, tạo nên một TT đầy cảm xúc.
GV: Thu Trang- Trường THPT Tạ Uyên- Yên Mô -Ninh Bình.
Page 25