Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Đề cương Ôn tập phần nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.45 KB, 59 trang )

Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Ôn tập phần nghị luận văn học
1. Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh (Phần hai: Tác phẩm)
Ngày 2.9.1945 là một sự kiện lớn, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử dân tộc,
trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi
xem lại những thước phim tư liệu chúng ta lại hồi hồi như đang đứng giữa Quảng
trường Ba Đình năm ấy và lại rưng rưng cảm giác xúc động vui sướng, tự hào khi
nghe giọng Bác trầm ấm” Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” khi đọc lời tuyên ngôn
độc lập - mội văn kiện lịch sử đặc biệt – một áng văn chính luận bất hủ.
Toàn văn bản tuyên ngôn độc lập không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một
ngàn chữ những vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ
rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo một bố cục chặt chẽ mạch lạc.
Phần đầu, bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền. Tác
giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản Tuyên ngôn Độc lập của
Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp là có dụng ý sâu sắc. Bản
Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ ra đời sau khi nước Mĩ đấu tranh giành độc lập thành
công. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời trong chiến thắng của
cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những thị dân và nông dân chống áp bức, bất
công. Lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lí, là kết quả
của những cuộc cách mạng có
Tính chất tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới, khiến cho
không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy sự hiểu biết và cân
nhắc kĩ càng của vị Chủ tịch khi trích dẫn những chân lí đó. Hơn thế Người còn vận
dụng sáng tạo:
"Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, người đã
đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và cũng đầy
thuyết phục. Điều đáng nói hơn nữa là ngay ở đoạn đầu này, cũng chính là lời trích
dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đã toả ra chiến đấu mạnh mẽ và tiềm
tàng của hành động trái ngược hẳn: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi
dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta". Rõ


ràng qua cách lập luận như thế, một sự thật được phơi bày cách hiển nhiên là bản chất
của thực dân Pháp ở Việt Nam trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Kết thúc phần
này là một câu khẳng định ngắn gọn dầy sức thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không
ai chối cãi được”.
Mở rộng hơn, phần thứ hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân
Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng
tước đoạt tự do chính trị, “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào”. Kế đó là “chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất
nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết...” Cả đoạn dày đặc những câu liệt
kê định tội rắn rỏi, tố cáo toàn diện tội ác cùa bọn cướp nước. Từng câu, từng chữ đã
nêu bật bản chất bọn xâm lược. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách ngu dân, tiêu
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
diệt văn hoá, chính là muốn diệt trừ tận gốc bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền
thống dân tộc bằng cách “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Chúng đàn áp thẳng
tay và dã man những người yêu nước, "tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu", cướp đoạt trắng trợn và bất công quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền
được sống. Đó là thực chất khai hoá, cái gọi là đem văn minh đến cho người bản xứ
mông muội. Chúng còn "bóc lột dân la đến xương tuỷ... cướp không ruộng đất, hầm
mỏ, nguyên liệu... đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta trở nên tin cùng...
chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn". Hành động của chúng thật
hết sức vô nhân đạo và chánh nghĩa. Hơn nữa, khi bị Nhật tước khí giới, chúng đã bỏ
chạy, đầu hàng, bán nước hai lần cho Nhật. Đó là thực chất bảo hộ của chúng, sự thật
lịch sử đã tố cáo bản chất dối trá, hèn nhát của bọn xâm lược.
Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả đã xé toang chiêu bài "khai hoá,
bảo hộ" giả dối bịp bợm mà bây lâu chúng dùng để che đậy những việc làm xấu xa
độc ác. Tác giả dùng liên tiếp những sắc thái từ cao độ: hắn, tuyệt đối không cho, dã
man, thẳng tay chém giết, tắm... trong những bể máu, bóc lột đến tận xương tuỷ....

ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, gợi tả, tỏ thái độ căm
giận sâu sắc trước những tội ác man rợ đó. Điệp từ chúng xuất hiện dày đặc, lồng
trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ
bọc hoa mĩ bọn thực dân vẫn tuôn ra bấy lâu, tạo những âm vang sóng dội, nhấn mạnh
và trở đi trở lại, như khắc sâu ghi nhớ, như kết án luận tội đồng thời tỏ ra sức mạnh
của chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Đối lập với những hành động phi nhân đó
của thực dân Pháp cuộc đấu tranh đầy nhân đạo chính nghĩa của nhân dân ta. Từ
những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết chính trị
phạm, tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, khoan hồng của quân
và dân ta: giúp nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, cứu nhiều người Pháp ra khỏi
nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Điệp ngữ Sự thật là... đã khẳng
định chiến thắng của ta: ta đã lấy lại đất nước từ trong tay Nhật, đất nước mà thực dân
Pháp đã cướp lấy rồi bán cho phát xít Nhật. Chúng ta chiến đấu chống phái xít, đứng
về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới
chính do sức mạnh tự chủ tự thân của dân tộc. Như vậy các nước tiến bộ trên thế giới
phải đồng tình ủng hộ quyền được hưởng tự do độc lập một cách chính đáng của dân
tộc ta. Câu tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc
tích, nghe như một lời reo vui. Câu này cũng có thể làm một ví dụ tiêu biểu cho văn
phong Hồ Chí Minh là ngắn gọn chuẩn xác mà đầy uy lực, giàu ý nghĩa. Tuyên bố với
thế giới về việc thành lập của một đất nước mới nhưng đã phải chịu nhiều đau thương,
tác giả đã rất đanh thép và triệt để khi dùng những cụm từ thoát li hẳn, xoá bỏ hết,
Xóa bỏ tất cả để nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi quan hệ lệ thuộc với Pháp, chặt
nốt những mắt xích cuối cùng ràng buộc Việt Nam, để đất nước này đứng lên trong tự
do hoàn toàn, xây dựng một chế độ mới.
Tự do vừa giành được thật vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi
bằng bao nhiêu hi sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Thế mà vẫn còn bao
nhiêu thù trong giặc ngoài lúc bây giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành
của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt

Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh
tất cả để giữ lấy độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp lại ba lần, như khắc
sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng
kèn xung trận hào hùng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, vừa
khích lệ nhân dân la vừa cảnh báo kè thù.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của
một nhà nước mới, đánh dấu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do cho một dân
tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước ở châu Á. Mặt
khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn
ở lí lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ. Ở câu văn
gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ,
động viên tinh thần nhân dân và tranh thủ sự đồng tình quốc tế.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa
được những chân lí cùa lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên
ngôn còn đồng thời mang tính tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi
mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.

2. Tây Tiến - Quang Dũng
Tây Tiến là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về con người và
thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng. Tất cả đều được thể hiện qua
một hồn thơ lãng mạn. nặng tình với quê hương, đất nước bằng bút pháp tài hoa, độc
đáo.
- Đoạn một: Thông qua cách sử dụng một loại địa danh, gợi cảm giác xa xôi, hoang
dã, cách dùng từ bạo khoẻ, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ…. Quang Dũng vừa
khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa diễn tả được nỗi vất vả, chất tinh

nghịch của người lính.
- Đoạn hai: Miêu tả con người và cảnh vật Tây Bắc. Con người e ấp, tình tứ; thiên
nhiên thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn đầu). Đây chính là vẻ
đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người lính xuất thân từ học
sinh, sinh viên.
- Đoạn ba: Tập trung khắc hoạ người lính bằng bút pháp lãng mạn. Họ có diện mạo
khác thường, oai phong dữ dội, có chất anh hùng của tráng sĩ thời xưa và có một tâm
hồn rất lãng mạn. ở đây, hình ảnh người Lính còn thể hiện rõ chất bi tráng của bải thơ.
- Bốn dòng cuối cùng của bài thơ có thể coi là lời thề quyết chiến đấu cùng vì lí
tưởng của người lính Tây Tiến.
BÀI LÀM
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong
tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử
thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến
còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân Tây
Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường
Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang
sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người
ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một
bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,

Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên
trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà
Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một
khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội
ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say
mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quỵ tộc”
ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào hay Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cũng chính vì thế
mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để
chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và
chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày
ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những
tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường
hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang
Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là
những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời
Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi
thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ
niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn
nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua
với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ây. Nhớ
chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có
hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng
nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của
mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi
rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng
biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình
dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu đoan thơ cứ thanh bằng thanh
trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh.
Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng,
tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa
danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ
thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay.
Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh
của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao
rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả
những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó
ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có
những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi
thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe
thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư

cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh
điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn
quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng
trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như
đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh
mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền
rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng
núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch
đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này
bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay.
Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự
khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường
Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ
Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại

trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây
Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng
mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành
trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của
thiên nhiến xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những
người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau.
Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử
thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải
gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng
chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên
cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây
Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến
một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải,
những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể
nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông
nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội
Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả
nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói
hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ
mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ
dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không
trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất
con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi,
càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.


/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống
trước cuộc sống chiến đấu cùa người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại
nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc
sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những
phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức
khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai
liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây
Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui
tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên
Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính
Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và
mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây
Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người
nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn
mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ
sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời
lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với
người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời,
vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn
nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình
ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên
đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây
Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử
thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ''àn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại
khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở
nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc”
nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy
phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên
Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang,
nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu
sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ
đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó
không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm
hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai Cái khí phách hào hùng của
người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên,
người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của
một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của
người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và
đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có
đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu

phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ.
Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô chữ thơm
được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng
ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái
đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để
giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp
nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm
đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểusao, cứ mỗi lần đọc
đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên
con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi
và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của
người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng
vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi
tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của
người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi
chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp:
chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận,
cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ
không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc
thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến
trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản
về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất
như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông

Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra
đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra đi là
không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ
không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hung đến mức ấy.
Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai

3. Việt Bắc - Tố Hữu (Phần hai: Tác phẩm)
Đề 1 : phân tích tám câu đầu
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ
Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Thơ ông đậm đà
tính dân tộc trong nội dung và hình thức thể hiện. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của
thơ Tố Hữu và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc
có nhiều đoạn thơ hay mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
“Mình về mình có nhớ ta

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
THÂN BÀI
Khái quát: – Việt Bắc là khu căn cứ địa kháng chiến được thành lập từ năm 1940, gồm
sáu tỉnh viết tắt là “Cao – Bắc – Lạng – Thái – Tuyên – Hà”. Nơi đây, cán bộ chiến sĩ
và nhân dân Việt Bắc đã có mười lăm năm gắn bó keo sơn, nghĩa tình (1940 – 1954).

- Sau hiệp định Giơnevơ, tháng 10.1954, Trung ương Đảng và cán bộ rời Việt Bắc.
Buổi chia tay lịch sử ấy đã trở thành niềm cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ
“Việt Bắc”. Trải dài khắp bài thơ là niềm thương nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng
chiến gian khổ nhưng nghĩa tình.
Nội dung cảm nhận
a. Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một
giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.
- Mở đầu là câu hỏi tu từ. Trong câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi, “Ta” là chỉ
người ở lại.
+ “Mười lăm năm ấy” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ
thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm
giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
- Hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha. Câu
thơ có hai hình ảnh “núi” và “nguồn” là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Hữu với câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là lời nhắc nhở, dặn dò kín đáo rất
đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc
kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên.
b. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương,
bịn rịn:
- “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa
VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. “Bồn chồn” là
từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước
chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa .
- Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa buổi phân ly”. “Áo chàm” là màu áo
nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt
Bắc. Đó là những con người nghèo khổ “hắt hiu lau xám” nhưng luôn “đậm đà lòng

son” thủy chung, mặn nồng.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “Biết nói gì
hôm nay…” không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn
ngào không thốt được nên lời. Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ
“Cầm tay nhau”. “Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. “Cầm tay” là
đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu
như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một
khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng.
. Nghệ thuật: Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu
phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán
dụ, câu hỏi tu từ). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt
là hai đại từ Ta – Mình)
III. KẾT BÀI
-

Đánh giá chung.

Bài làm:
Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp và cũng là đỉnh cao của thơ
Tố Hữu là bài thơ tiêu biểu cho phong cách này. Bằng cấu từ đầy màu sắc trữ tình dân
gian, 1 thứ ngôn ngữ ngọt ngào tha thiết, những hình ảnh rất giàu chất thơ Tố Hữu đã
từ cuộc chia tay giữa những người kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc mà tái hiện
lại một Việt Bắc trong kháng chiến đầy gian khổ hy sinh nhưng thấm đẫm nghĩa tình
quần chúng giữa cách mạng với nhân dân, lãnh tụ với dân tộc, miền ngược với miền
xuôi, quá khứ, hiện tại, tương lai như hoà quyện vào nhau. Điều đó dã được thể hiện
ngay trong 8 câu thơ mở đầu bài thơ.
Vì là 1 phong cách trữ tình chính trị nên thơ Tố Hữu luôn gắn liền với những vấn đề
thời sự, luôn kết tinh trong tác phẩm hơi thở của cuộc sống. Nhờ thế Việt Bắc đã ra
đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Đó là vào tháng 10/ 1954, sau khi kháng chiến
vĩ đại của dtộc ta kết thúc bằng một chiến thắng rạng rỡ khắp 5 châu 4 biển, làm chấn

động địa cầu, đất nước đã hoà bình, Bác Hồ và các cơ quan trung ương Đảng, cùng
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
với phần lớn các tổ chức kháng chiến, những người kháng chiến đã hồ hởi trở về tiếp
quản thủ đô. 1 cuộc chia tay lớn mang tính chất lịch sử đã diễn ra trên khắp vùng quê
nẻo đường. Nhân sự kiện ấy Tố Hữu muốn làm một cuộc tổng kết về quá trình chiến
thắng, VB- thủ đô của kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không thể hiện nó như bản
tổng kết quân sự hay những trang sử về kháng chiến hoặc một báo cáo chính trị thông
thường. Tố Hữu đã trữ tình hoá cuộc chia tay lớn này bằng việc thể hiện nó như một
cuộc chia tay của đôi lứa, của “mình với ta”, “ta với mình” trong ca dao dân ca của
mọi miền đất nước đặc biệt trong ca dao dân ca của đồng bằng Bắc Bộ.
Hoàn cảnh đã tạo nên cấu trúc trữ tình tác phẩm, cái âm hưởng dìu dặt, lưu luyến, bịn
rịn bao trùm bài thơ đó là cái âm hưởng của những câu thơ lục bát đều đặn nhịp nhàng
và những thanh bằng thanh trắc đắp đổi cho nhau như trong câu thơ lục bát truyền
thống. Cấu trúc trữ tình tạo nên cái tứ trữ tình, uốn vào nó thiên nhiên rất giàu giá trị
biểu cảm, trực tiếp bày tỏ cảm xúc với rất nhiều chữ “nhớ” lan toả khắp bài thơ rồi
những từ “tha thiết”, “bâng khuâng” với hình ảnh người yêu. Có thể nói hoàn cảnh ra
đời chính là sự khơi gợi cảm hứng, từ cảm hứng khơi gợi giọng điệu, từ giọng điệu
như một thanh nam châm hút vào tác phẩm những từ ngữ cùng một trường biểu cảm.
Việt Bắc là một những hoài niệm lớn của những ngày kháng chiến, những hoài niệm
được đặt trong không gian thấm đẫm chất trữ tình. Cho nên ngay từ những dòng thơ
mở đầu, Việt Bắc mở ra khung cảnh chia tay giữa núi rừng, trong đó 4 dòng thơ đầu là
tiếng nói Việt Bắc với người miền xuôi, và cũng 4 câu thơ như vậy viết về cảm xúc
của người miền xuôi như để đáp lại người Việt Bắc. Kết cấu đối đáp đã tạo nên những
suy nghĩ về tấm lòng người ở, người đi thuỷ chung son sắt.
Việt Bắc là tiếng nói trữ tình giữa khung cảnh chia tay của những người kháng chiến
với đồng bào vùng cao, nhưng lại được mở đầu bằng tiếng nói của người miền ngược,
Tố Hữu như muốn nói cái tình của đồng bào Việt Bắc với Bác Hồ, Trung ương Đảng,

những người kháng chiến thật sâu sắc biết bao nhiêu, thuỷ chung đến chừng nào.
Tiếng nói của người tiễn đưa đã thấm đấm nhớ thương, ngay từ những từ ngữ xưng
hô: “Mình về mình có nhớ ta”. Chữ “mình” vốn để chỉ những người nói, nhưng VB
lại dành để chỉ những người về xuôi, gọi người đối thoại với mình là mình, hay đúng
hơn là phần thương nhớ của chính mình, hoặc sự phân thân của chính mình. Cho nên
mình và ta tuy hai mà một, cứ quấn quýt bên nhau, thậm chí nhớ thương dành cho
người về xuôi nhiều hơn, cho nên 4 dòng thơ mà “mình” trở đi trở lại bốn lần: “mình
về mình có nhớ ta”; “mình về mình có nhớ không”. Người viết đã biến cuộc chia tay
lớn thành cuộc chia tay “mình” và “ta” giống như đôi lứa yêu nhau, đầy bịn rịn lưu
luyến.
Lời chia tay lại có kết cấu của hai câu hỏi. Một câu hỏi bao trùm cả thời gian: có nhớ
“muời lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Một câu hỏi bao trùm cả không gian : có nhớ
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là những câu hỏi rất giàu giá trị tu từ,
nó như xoáy sâu vào kí ức của người miền xuôi, nó như dồn nén bao nhiêu kỉ niệm
của muời lăm năm sâu nặng nghĩa tình với những buồn vui, những gian khổ mà gắn
bó từ những ngày ngọn lửa hồng của cách mạng được chính chủ tịch Hồ Chí Minh
khơi lên từ Pắc Bó, cho tới những ngày độc lập rồi kháng chiến thành công. Đó cũng
là 15 năm với bao nhiêu thiết tha mặn nồng. Trong khi đó câu hỏi:
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
lại bao trùm cả không gian, không phải gợi nhớ kỉ niệm mà làm cho khoảng cách
không gian giữa miền xuôi và Việt Bắc như xích lại nhau trong một chữ nhớ “nhìn
cây nhớ núi”; “nhìn sông nhớ nguồn”. “Cây” và “sông” là biểu tượng của không gian
miền xuôi vời vợi, với vùng cao trong biểu tượng “núi” “nguồn”. Chữ “nhớ” đặt giữa
“cây” và “ núi”; “sông” và “ nguồn” như có sự kết nối không gian cách trở vời vợi ấy
trong tâm tưởng, như xoá nhoà sự chia li. Cũng giống như ở câu thơ mở đầu “mình”

và “ta” trong cuộc chia li này không hề có sự xa cách trong tình cảm, bởi một chữ
“nhớ” đã gắn liền họ với nhau.
Ngôn ngữ của đoạn thơ không chỉ đằm thắm trong những từ xưng hô đầy sáng tạo mà
còn ở những từ ngữ khơi gợi bao nhiêu nỗi nhớ. 4 chữ “mình” gắn liền cới 4 chữ
“nhớ” trong một đoạn thơ. Nỗi nhớ ấy chẳng phải nồng nàn tha thiết lắm sao! Nỗi nhớ
như một dòng chảy xuyên suốt 4 câu thơ, đồng thời tác giả trực tiếp sử dụng những từ
ngữ biểu hiện trạng thái cảm xúc như “thiết tha”, “mặn nồng”. Thậm chí có những từ
tưởng như chỉ là một hư từ, rỗng về nghĩa như chữ “ấy” nhưng nó thật có giá trị, nó
làm cho khái niệm thời gian 15 năm trở thành 15 năm kỉ niệm, gợi nhớ tới câu thơ của
Lưu Trọng Lư:
Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ ai quên
Cho nên “15 năm ấy” cũng là 15 năm sâu nặng tình yêu của đồng bào Việt Bắc.
Không chỉ có cách nói tràn đầy cảm hứng lãng mạn như trong những câu thơ viết về
tình yêu đôi lứa mà những hình ảnh, cách phô diễn còn có sự cộng hưởng của ca dao,
như trong câu: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đó là một câu thơ được viết
theo thể phú, thể tỉ, vốn rất quen thuộc trong ca dao :
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói nghĩa tình bấy nhiêu”
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu”.
Tố Hữu sử dụng thể phú để viết “nhìn A nhớ B, nhìn C nhớ D” như trong một công
thức ca dao.
Cái trữ tình không chỉ dào dạt ở lời thơ, cấu trúc câu hỏi hay nhưng từ ngữ giàu sức
biểu cảm mà còn là âm hưởng của câu thơ nói chung, dìu dặt, da diết như âm hưởng
của tiếng hát ru trong dân ca vùng đồng bằng bắc bộ, dễ thấm vào tâm hồn người đọc
lúc bấy giờ.
Nằm trong kết cấu của mạch đối đáp, sau tiếng hát đưa tiễn của người Việt Bắc đầy
nhớ thương, mặn nồng là lời đáp của người về xuôi:
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Nếu như người Việc Bắc gửi theo bước chân của người miền xuôi với bao nhiêu nỗi
nhớ thì trong lời đối đáp của người miền xuôi cũng đầy ắp những bâng khuâng tha
thiết. Không sử dụng đại từ xưng hô “mình”, “ta” mà người xưng hô sử dụng đại từ
“ai” để khẳng định trước hết là sự gắn bó với người ở lại. Ai có thể là đại từ để hỏi
nhưng ở đây đó chính là đại từ phiếm chỉ, rất gần cách nói của ca dao: “Nhớ ai bồi hổi
bồi hồi” hay như Tú Xương một nhà thơ trào phúng bậc nhất của Văn học Việt Nam
đầu thế kỉ XX cũng rất trữ tình, tha thiết trong chữ “ai” như vậy: “Nhớ ai ai nhớ bây
giờ nhớ ai”, “Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô”. Đó là những chữ “ai” đầy yêu thương.
Dẫu không phải không biết áo bông của ai, khăn đầu của ai nhưng người nói vẫn sử
dụng chữ “ai” mà không gọi tên cụ thể chính là tạo nên một khoảng trống của không
gian để yêu thương chứa đầy trong nó. Tố Hữu sử dụng và khai thác triệt để sự biến
hoá hết sức linh diệu trong giá trị biểu cảm của từ “ai”. Một chữ “ai” của người về
xuôi đủ làm xao xuyến lòng người đưa tiễn, đủ cho thấy người về xuôi yêu thương
Việt Bắc đến chừng nào và hiểu nỗi niềm tha thiết của người Việt Bắc đối với cách
mạng, đối với người miền xuôi. Một chữ “ai” làm xao động cả không gian đưa tiễn.
Còn người về xuôi trước những tiếng tha thiết của người đưa tiễn đã xúc động ra sao?
Tố Hữu đã diễn tả một cách hết sức chính xác tâm trạng của người về xuôi qua những
chữ “bâng khuâng”, “bồn chồn”. “Bâng khuâng” là tâm trạng chất chứa những nhớ
thương bao trùm cả không gian với bao nhiêu kỉ niệm, không dừng lại một kỉ niệm
nào. Còn “bồn chồn” cũng là từ chỉ tâm trạng nhớ thương, những đó là tâm trạng
không thể kìm nén bên trong mà biểu hiện qua bên ngoài như nét mặt bồn chồn mong
đợi. Ở đây cái tâm trạng ấy lại hiện ra trong bước đi của người về xuôi thành “bồn

chồn bước đi”. Nghĩa là những người kháng chiến về tiếp quản thủ đô cũng như bao
nhiêu thành phố, thị xã khác thì việc về đã đành phải về nhưng lòng lại không muốn
chia xa. Cho nên mỗi bước đi đều bồn chồn không muốn rời chân. Tâm trạng bâng
khuâng bồn chồn ấy còn được thể hiện một cách hết sức tinh tế qua nhịp điệu 2 câu
thơ tiếp theo:
Áo chàm /đưa buổi/ phân li
Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay
Câu thơ lục bát vốn có nhịp chẵn như nhịp thơ đều đặn của ca dao Việt Nam, nhưng
với 2 câu thơ này tác giả đã tạo nên những đột biến trong nhịp điệu như một đảo
phách trong âm nhạc, đột ngột chuyển sang những nhịp lẻ, như ta đã phân tích. Đó
chính là nhịp bồn chồn của bước đi. Đoàn Thị Điểm trong “Chinh phụ ngâm khúc” đã
tả cái bồn chồn ấy bằng một câu thơ rất giàu hình ảnh:
Bước đi/ một bước/ dây dây/ lại dừng
Tố Hữu không tả mà dùng nhạc tính của câu thơ với nhịp lẻ liên tiếp nhau để diễn tả
trạng thái bồn chồn ấy. Ta như thấy người đi và người ở dùng dằng bên nhau không
nỡđứt, như thế đôi bàn tay của người ở kẻ đi bịn rịn, không muốn rời xa.
Về phương diện nghệ thuật còn phải thấy t/giả đã sử dụng những hình ảnh hoán dụ ẩn
chứa nhiều tầng ý nghĩa. Dùng “áo chàm” để nói người VB, cũng để nói cả Việt Bắc
đang tiễn đưa người kháng chiến về xuôi. Ta chợt nhớ câu thơ của Lưu Quang Vũ viết
về bàn tay của những người yêu nhau:

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Khi chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta
Việt Bắc chỉ với tám dòng thơ mở đầu, người đọc cảm nhận một cách khá đầy đủ âm

hưởng chung của cả bài thơ, âm hưởng khúc hát đối đáp, khúc hát ru nhẹ nhàng sâu
lắng. Cùng với ngôn ngữ đậm màu sắc trữ tình của ca dao chúng ta có thể cảm nhận
một cách sâu sắc đặc trưng trữ tình chính trị của thơ Tố Hữu.

Đề 2 : phân tích đoạn thơ :
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa
hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là
bài Việt Bắc.Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết
của một người cán bộ vế xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể
hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bàn khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cây ngọt bùi”
Việt Bắc là căn cứ cách Mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên
nhiên và đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15
năm trời. Bài thơ VIệT BắC được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc
các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trởi về Hà Nội.
Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là
lời khẳng định tình cảm thủy chug của người cán bộ về xuôi với Việt Bắc, với cuộc
kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về
những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc.
Một nỗi nhớ da diết, không nguôi được tác gỉa hình dung thật lạ
“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Một chữ “gì” hàm chứa biết bao điều, phải chăng đó chính là nỗi nhớ thiên nhiên, với
nhân dân cùng quãng thời gian kháng chiến đầy ấp kỷ niệm. Nhớ “như nhớ người
yêu”, hình ảnh so sánh thật đầy ý nghĩa, nỗi nhớ sao thật dai dẳng triền miên, luôn
thường trực trong tâm trí. Một khung cảnh hiện ra đã hoàn toàn khẳng định đối tượng
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
được nhớ đến - Việt Bắc:”Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” rồi sau đó là
những hình ảnh miêu tả không gian thơ mộng đậm chất núi rừng Việt Bắc
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc được liệt kê đến từng chi tiết. Rõ ràng tác giả vẫn nhớ
rất rõ những kỷ niệm cùng khung cảnh Việt Bắc. “Người thương”, hai chữ thôi nhưng
chứa đựng biết bao ân tình. Đây chính là những con người VIệT BắC đã cưu mang,
che chở cho cán bộ trong suốt một quãng thời gian dài gian khó. “Bếp lửa” – hình ảnh
của một gia đình ấm cúng thường thấy, Phải chăng tác giả đã xem nơi đây như là gia
đình thứ hai của mình.Vần chân “sương” và “người thương” làm cho giọng điệu câu
văn trở nên da diết, diễn tả một nỗi nhớ bịnh rịnh, lưu luyến, không muốn rời xa. Vẫn
tiếp tục là nỗi nhớ, nhưng dường như ngày càng sâu đậm hơn với những tên gọi địa
danh gắn liền với quá khứ cách mạng mà tác giả từng trãi qua:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Dù là một nơi nhỏ trong chốn núi rừng Việt Bắc bao la, nhưng dường như trong ký ức
của tác giả nó cũng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.Một sự khẳng định
chắc chắn…không bao giờ có thể quên:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Tình người sáng lên giữa hoàn cảnh ngặt nghèo, cam go bao giờ cũng để lại những ấn

tượng đậm đà. Việt Bắc đã chia sẻ với những người kháng chiến từ bát cơm, củ sắn rất
cụ thể của đời sống vật chất đến những ngọt bùi, đắng cay không tả xiết của đời sống
tinh thần. Chúng ta luôn bên nhau, lúc nào cũng mình đây, ta đó quấn quýt. Các chi
tiết được nêu trong đoạn thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tất cả
chúng đều hướng người đọc tới chỗ nhận thức được giá trị to lớn của tinh thần "chung
lung đấu cật", "đồng cam cộng khổ" mà Việt Bắc cùng những người kháng chiến từng
nêu cao. Hình ảnh chăn sui đắp cùng rất gợi không khí, vốn đã được nói tới không ít
lần trong thơ kháng chiến chống Pháp, giờ lại xuất hiện ở đây với những thông tin
nghệ thuật mang tính khái quát. Chăn sui dĩ nhiên chưa thể chống lại được cái rét thấu
xương nơi núi rừng, nhưng trên thực tế, nó đã sưởi ấm được hồn người, đã gắn kết
được tình người, cũng như củ sắn dù chưa đủ no lòng nhưng vẫn có thể làm dịu đi
những cơn đói rất thật bằng hương vị tinh thần ngọt bùi của nó.
- Nhắc tới những khó khăn mà mình đã trải, người ra đi càng thương sự vất vả của
đồng bào Việt Bắc. Có cái gì thật ám ảnh, thật day dứt trong hình ảnh tấm lưng trần
của người mẹ vùng cao:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Thơ ca lãng mạn trước Cách mạng thường thích nói tới những tấm lưng ong, lưng , eo
thon thả, gợi cảm của thiếu nữ (Bồng bềnh mun chảy óng lưng thon - Vũ Hoàng
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Chương). Còn ở đây là tấm lưng sạm đen, cháy nắng của một người lao động. Chỉ với
chi tiết ấy thôi - một chi tiết hết sức hiện thực - tác giả đã gợi lên được rất chính xác
cảnh sống cay cực phải vật lộn thường xuyên với miếng cơm, manh áo của những
người dân miền núi Việt Bắc.
- Vẫn tiếp tục nói về một thời gian khổ nhưng các câu thơ sau lại nghiêng về nhấn
mạnh tinh thần lạc quan của những người kháng chiến:
Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đòi vẫn ca vang núi đèo.
Các câu thơ trên đã đưa ra được những chi tiết khá điển hình về đời sống chiến khu:
có cơ quan, có lớp học, có tiếng đọc bài, có tiếng hát "khai hội", có ánh đuốc bập
bùng cháy giữa đồng khuya... Tinh thần "trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi"
quả đã thấm sâu vào nhận thức của mỗi người, chi phối cách tổ chức cuộc sống cũng
như trạng thái tinh thần phấn chấn của họ. Nhưng điều đáng nói hơn là ta đọc thấy sau
các câu thơ ấy một tâm trạng nôn nao khó tả. Hai từ nhớ sao được dùng lặp đi lặp lại
trong đoạn thơ cho thấy người đi đang thực sự sống trong nỗi nhớ chứ không phải chỉ
làm cái việc kể chuyện khách quan đơn thuần. Ta có cảm tưởng người đi đang muốn
kêu lên những nỗi niềm dồn chứa trong lòng.
- Đợt sóng thứ nhất của cảm xúc dần lắng xuống theo âm ba của những thứ tiếng có
tính đặc trưng của núi rừng Việt Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Ai đã từng sống ở miền núi hẳn đều thừa nhận rằng tiếng mõ trâu lúc chiều về và
tiếng chày giã gạo thậm thình bên suối trong đêm khuya vắng là những tiếng động có
một cái gì đó thật khó tả, khó quên. Chúng vừa thân thuộc lại vừa hoang dại, vừa gần
gũi bên tai lại vừa như vọng về từ một cõi nào xa lơ xa lắc. Câu thơ cuối đoạn có âm
hưởng thật hay với sự luân phiên đều đặn của những thanh bổng, thanh trầm. Đọc nó
lên, ta tưởng nghe được bên tai một dạ khúc tha thiết.

Dù bản thân có đi xa, dù có ở nơi chốn nào thì vẫn sẽ luôn nhớ về “mình”. Ngôn từ
xưng hô thật giản dị mà thân thương. “Mình” cùng “ta” nào có thể quên được những
“đắng cay ngọt bùi” đã trải qua. Hình ảnh ẩn dụ “đắng cay” chính là những khó nhọc,
gian nan mà nhân dân cùng cán bộ đã phải trải qua trong suốt thời kỳ kháng chiến,
còn niềm vui chiến thắng không gì khác chính là “ngọt bùi”. Từng nỗi nhớ như tràn
ngập trong tâm hồn Tố Hữu biểu hiện cho một tình cảm sâu nặng tựa như nỗi tương tư
đến “người thương”. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại càng khắc sâu hơn sự nhớ

nhung ngghìn trùng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ
“nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo
vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm
ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật
sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của
mình.
Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của
nhà thơ, hay cũng chính là của những người VNtrong kháng chiến. Với những câu thơ
dạt dào cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho
thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tìh cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu
nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành thành phần tiêu biểu cho
văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Bằng những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chugn thủy sắt son giữa
người cán bộ với nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc cùng cuộc kháng chiến được khắc
họa rõ nét. Thật hiển nhiên, Tố Hữu xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca cách
mạng Việt Nam.

Đề 3 : Bức tranh tứ bình
Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với
những tác phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông viết về chính trị nhưng không khô
khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình
truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và
dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như lời
tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt

người đọc chắc hẳn sẽ không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt
Bắc”.
Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố
Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian
khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con
người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là
người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát
nhuần nhuyễn như vậy.
Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của
núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được
chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.
Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này.
Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố
Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi.
Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi
rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức
tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của
nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn,

không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”.
Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh
rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của
Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của
mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp
người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối
quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một bức trang mùa đông rạng
rớ, đầy hi vọng.
Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên
cảnh:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi
núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên
thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa
xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những con đường màu
sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác
“chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế
khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu
sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào
bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.
Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh.
Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng
ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng
rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc.
Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở
mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có

thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên
và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã
khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.
Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường
như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải
là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi
chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân
tình và thủy chung.
Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả
sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như
tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ
bình này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi
đây.

4. Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt
đường khát vọng)
Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm
1971, in lần đầu năm 1974, nội dung phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng
tạm bị chiếm ở miền Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu
chống đế quốc Mĩ xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của
nhà thơ về đất nước, dân tộc. Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của
trường ca là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam

hiện đại. Tác giả bày tỏ suy nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất
nước trên nhiều bình diện địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục,… với tư tưởng bao trùm:
Đất Nước của Nhân dân.

Đoạn trích chia làm hai phần:
Phần một: Từ đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đời: cảm nhận của tác giả về đất
nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa lí, lịch sử, văn hóa, phong
tục,…
Phần hai: Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân dân.
Giữa hai phần gần như không có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác giả
cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một trọng
tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc.
Ở phần 1, Đất Nước được tác giả cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc
sống hằng ngày, sau đó mở rộng ra với Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh
mông trong những truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ
hướng vào sự hiện diện của Đất Nước trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách
nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Ở phần sau, Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước của Nhân
dân, chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ
những thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất
Nước gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt
tên. Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã
làm nên Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của
tác giả dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao
thần thoại.

Khác với các nhà thơ trước, khi viết về đất nước thường dùng những hình ảnh kì vĩ,
mĩ lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách thể hiện rất tự nhiên
và bình dị:
Khi ta lớn tên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cảm xúc và suy tưởng của mình về
Đất Nước dưới hình thức trò chuyện tâm tình, tạo ra một cảm giác gần gũi, thân thiết.
Nhà thơ lấy chất liệu từ văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ, từ đời sống quen thuộc
hằng ngày. Bởi vậy nên không gian nghệ thuật được mở rộng ra nhiều chiều và hình
tượng thơ trở nên trữ tình, bay bổng.
Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày
xưa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời : Miếng trầu bây giờ bà ăn, Tóc
mẹ thì bới sau đầu. Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất
Nước hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn
hằng ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sương. Câu thơ : Cái kèo cái cột thành tên
diễn tả thời gian hơn là không gian. Phải bao năm tháng những vật dụng hằng ngày
trong nhà mới có tên để gọi. Đấy cũng là quá trình sinh thành của Đất Nước từ không
đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều đó làm cho khái niệm Đất Nước trở
nên gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn



Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch
sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các
triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các
truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc),… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng
những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ
chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.
Những câu thơ chính luận – trữ tình tiếp theo vẫn trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì ?
Đó là sự cảm nhận về Đất Nước trong sự thống nhất, hài hòa giữa các phương diện
địa lí và lịch sử, không gian và thời gian nhưng không dừng lại ở mức khái niệm mà
nâng cao lên một tầng ý nghĩa sâu xa hơn. Hình tượng Đất Nước thiêng liêng được
cảm nhận thông qua cách nhìn nhận, suy nghĩ của tuổi trẻ nên vừa cụ thể, vừa mới mẻ
và hết sức táo bạo:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Hình ảnh con đường đến trường, bến sống em tắm, nơi lứa đôi yêu nhau hò hẹn… gợi
ra không gian cụ thể, thân quen, nhưng cũng không kém phần đẹp đẽ, thơ mộng. Đất
Nước gắn bó anh và em, gắn bó mỗi con người với cuộc đời. Đất Nước là không gian
sinh tồn của cả cộng đồng người Việt qua bao nhiêu thế hệ. Rộng lớn hơn nữa, Đất
Nước là không gian mênh mông của núi sống, rừng biển:
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi "
Các câu thơ trên lấy ý từ những bài ca dao miền Bắc và những câu hò Bình Trị Thiên
để mở ra một không gian lãng mạn, bay bổng của một tình yêu say đắm, thủy chung.
Trong mắt của những người trẻ tuổi, Đất Nước là một không gian thơ mộng với bao kỉ

niệm dịu ngọt của tình yêu.
Đất Nước còn được tác giả cảm nhận theo nhiều chiều : không gian và thời gian, địa lí
và lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông,
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Đất Nước tồn tại trong sâu thẳm của kí ức, từ thời nảy sinh huyền thoại về mối duyên
kì ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:
Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.
Đất Nước dã trải qua bốn nghìn năm lịch sử. Dân tộc ta dã xây dựng nên nhiều truyền
thống và nét đẹp văn hóa Việt Nam. Hai tiếng đồng bào gợi tình cảm máu thịt và tinh
thần đoàn kết nhất trí. Đất Nước mấy nghìn năm lịch sử được chuyển giao qua nhiều
thế hệ:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhó ngày giỗ Tổ
Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ…
tất cả đều nói lên chiều sâu, bề dày lịch sử của đất nước Việt Nam.

Đất Nước còn được tác giả cảm nhận trong sự thống nhất giữa các phương diện văn
hóa, truyền thống, phong tục, trong cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống
của mỗi cá nhân và cả cộng đồng, ở chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của
thời gian lịch sử.
Đến cuối phần một, cảm hứng thơ dẫn dắt tác giả đến sự chiêm nghiệm, suy ngẫm sâu
sắc về Đất Nước: Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất Nước.
Như vậy, Đất Nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà Đất Nước hiện diện
cụ thể trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là
riêng của cá nhân mà còn là của Đất Nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng
những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của Nhân dân. Vì thế mỗi
công dân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển Đất Nước và truyền lại cho các thế hệ
tiếp theo:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Phải biết hóa thân cho dâng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Sang phần thứ hai, từ những cảm nhận toàn diện về Đất Nước, mạch suy nghĩ của nhà
thơ vươn tới một tư tưởng lớn : Đất nước của Nhân dân và Nhân dân làm nên Đất
Nước. Tư tưởng này quy tụ quan điểm về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, đồng
thời góp phần hoàn thiện quan niệm về Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu
nhân văn đồng thời là một phát hiện mới mẻ, thú vị:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước
Những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng vương
Những con rồng nằm im góp dòng sống xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Những cảnh quan thiên nhiên kì thú mang những tên gọi nôm na bình dị gắn liền với
cuộc sống đời thường của nhân dân. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi được tiếp
nhận, cảm thụ qua tâm hồn nhân dân, qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nếu không có những người vợ mỏi mòn đợi trông chồng qua các cuộc chiến tranh thì
cũng không có tên gọi núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng
Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận về vẻ đẹp hùng vĩ của vùng núi
đồi trập trùng xung quanh đền Hùng, giống như chín mươi chín con voi quây quần
chầu về đất Tổ.
Khi nêu lên những địa danh từ Bắc vào Nam, tác giả có ý khẳng định Đất Nước là
một khối thống nhất có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời; con người Việt Nam
sống thủy chung, tình nghĩa. Nhà thơ đã quy nạp hàng loạt hiện tượng cụ thể để đưa
đến một ý nghĩa khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các
anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:
/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời
họ:
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tỉnh thần
và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc,
cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài.
Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh
của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể
hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú,
đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của
nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của
Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách
định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước
Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa
ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc
biệt là đời sống tâm hồn của Nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn
mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở
thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài; để từ đó khẳng
định: con người Việt Nam say đắm trong tình yêu:


/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


Dương Thị Thu Trang, trường THPT Tạ Uyên
Yêu em từ thuở trong nôi; quý trọng tình nghĩa: Quý công cầm vàng những ngày lặn
lội; nhưng cũng thật quyết liệt trong chiến đấu: …trồng tre đợi ngày thành gậy – Đi
trả thù mà không sợ dài lâu,…
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân
gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen
thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo
nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng : vừa có sự bình dị, gần gũi,
hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua
cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã
thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo
của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với
cảm xúc. Chất chính luận nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả là nhằm thức tỉnh tinh
thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để họ dứt khoát trong sự lựa chọn
đứng về phía nhân dân và cách mạng. Chất trữ tình không chỉ được biểu hiện ở những
câu thơ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả mà còn thấm vào trong cái nhìn,
trong thái độ trân trọng, yêu quý đối với mỗi hình ảnh, chi tiết về Đất Nước gắn liền
với Nhân dân được miêu tả và đề cập đến trong đoạn trích.
Chính nhờ suy tưởng mà nhà thơ đã phát hiện được nhiều ý nghĩa mới mẻ và sâu sắc
từ những điều quen thuộc: những truyện cổ tích, câu ca dao, những địa danh, thắng
cảnh của đất nước đều chứa đựng tâm sự, quan niệm, lối sống, cuộc đời và máu thịt
của nhân dân. Nhưng những suy nghĩ, phát hiện ấy không phải được nói lên bằng
những mệnh đề khô khan, mà qua hình tượng thơ và những cảm xúc trữ tình. Trong
đoạn thơ, sự triển khai cảm hứng của tác giả tuy phóng túng, đa dạng nhưng vẫn quy

về điểm cốt lõi : Đất Nước của Nhân dân. Bài thơ khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần
tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta

5. Sóng - Xuân Quỳnh
Đề 1 : Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng thành từ kháng chiến
chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất thành công về
đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài này của nữ sĩ là bài thơ
“Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ nữ thi sĩ viết:

/>Website tiếp sức mùa thi môn Ngữ văn


×