Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm trang bị cho học sinh trung học cơ sở tri thức văn học sử để khám phá vẻ đẹp văn học nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.74 KB, 21 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm_Vi Thị Huệ
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Mở đầu bài tiểu luận “ Tiếng nói văn nghệ”- 1948, Nguyễn Đình Thi đã
viết: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực
tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà cịn muốn nói một điều gì
mới mẻ”. Tác giả khẳng định các tác phẩm nghệ thuật đều lấy chất liệu từ hiện
thực khách quan của đời sống. Đó là những sự việc, những câu chuyện mà tác giả
từng nghe hoặc chứng kiến, nhưng khi đưa vào tác phẩm, tác giả đã có sự lựa
chọn, sắp xếp theo mục đích của mình chứ khơng phải là sự sao chép giản đơn,
“chụp ảnh” nguyên xi thực tại ấy. Nội dung của tác phẩm văn nghệ thường là các
vấn đề chủ yếu trong xã hội. Khi sáng tạo một tác phẩm, dù chất liệu chỉ là những
câu chuyện về những con người sống ở ngoài đời nhưng nghệ sĩ đã gửi vào đó một
cái nhìn, một lời nhắn nhủ của riêng mình. Đó là tư tưởng, tấm lịng của người
nghệ sĩ. Đó là cách giải quyết các vấn đề mà tác giả đề cập đến trong tác
phẩm. Qủa đúng như vậy, văn học nghệ thuật có chức năng phản ánh hiện thực
cuộc sống xã hội. Tác phẩm văn học chính là đứa con tinh thần của nhà văn. Tác
phẩm được viết ra thời đại nào thường mang dấu ấn lịch sử và những biến động xã
hội của thời đại đó. Vì vậy trong q trình dạy tác phẩm văn học chúng ta cần chú
trọng trang bị cho học sinh những tri thức về văn học sử để khám phá vẻ đẹp của
văn học nghệ thuật. Tuy nhiên trong q trình giảng dạy, tơi nhận thấy ở học sinh
THCS các em khá thờ ơ với hoàn cảnh lịch sử cũng như thời gian tác phẩm văn
học ra đời, bởi vậy mà khả năng cảm thụ tác phẩm văn học và kĩ năng nghị luận
văn học chưa có chiều sâu. Để nghiên cứu, tìm tịi cách dạy hữu hiệu, cách truyền
cảm hứng văn chương tới các em, giúp các em học tốt hơn, cảm thụ tốt hơn các tác
phẩm văn học tôi đã thực hiện đề tài sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Trang bị cho học
sinh trung học cơ sở tri thức văn học sử để khám phá vẻ đẹp văn học nghệ
thuật.
2. Mục đích nghiên cứu.
Văn học có một ưu thế đặc biệt là văn học tác động trước nhất vào tình
cảm, vào nhận thức của con người. Mà sự tác động này lâu dài nhất và bền chặt


nhất. Trong thực tế, người giáo viên ngữ văn phải nắm chắc tri thức văn học sử để
thơng qua đó giúp học sinh khám phá nét đẹp của văn học nghệ thuật nói chung và
hình tượng nghệ thuật nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài “Trang bị cho học sinh THCS tri thức về văn học sử để khám phá
vẻ đẹp của văn học nghệ thuật” được nghiên cứu, thực hiện bồi dưỡng cho học
sinh ở cấp THCS, đặc biệt là học sinh 9 trường THCS Minh Sơn là lớp tôi trực


tiếp giảng dạy (Dành cho học sinh đại trà và cả ôn thi học sinh giỏi bộ môn Ngữ
văn).
4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn và đưa vào
thực hiện tại trường THCS xã Minh Sơn. Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện có
kiểm tra và điều chỉnh kịp thời.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu khảo sát, nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút kinh
nghiệm thực tiễn giảng dạy hàng năm để tìm ra giải pháp chung.
Đề tài được thực hiện bằng cách đem lý thuyết áp dụng vào thực tế. Vì vậy
các phương pháp được áp dụng chủ yếu:
+ Phương pháp thuyết trình giảng giải;
+ Vấn đáp, gợi mở, tìm tịi;
+ Hướng dẫn thực hành,
+ Luyện nói và luyện viết.

II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý thuyết
Mặc dù tri thức văn học sử có vai trị rất quan trọng trong hoạt động đọc hiểu các tác phẩm văn học; tuy nhiên, việc vận tri thức văn học sử vào dạy đọc hiểu bộ phận văn học này ở trường THCS cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Trong nội bộ môn Ngữ văn, văn học sử là một trong những nội dung HS ít
hứng thú nhất. Bởi đây là những tri thức mang tính khái quát cao, cung cấp dung

lượng thông tin lớn gắn với nhiều thành phần kiến thức liên ngành và liên mơn.
Chính vì vậy, thường khơ khan và khó tiếp thu hơn so với các bộ phận tri thức
khác.
2. Cơ sở thực tiễn: (Thực trạng vấn đề dạy – học ngữ văn ở trường
THCS xã Minh Sơn)
2.1. Kết quả khảo sát
* Tình hình dạy các tiết văn học


- Khi giảng các tác phẩm văn học, một số giáo viên thường không chú tâm
vào các bài khái quát, các phần mục tìm hiểu tác giả, tác phẩm, hoặc nhắc đến một
cách qua loa, sơ sài, không liên hệ với phần văn bản và cũng không phục vụ cho
việc đọc - hiểu văn bản. Bản thân người dạy cũng chưa thấy hết được mối quan hệ
gắn bó chặt chẽ, tác động lẫn nhau giữa tri thức văn học sử với tri thức đọc - hiểu
tác phẩm văn học. Chưa xác định đúng vai trò của tri thức văn học sử trong dạy
đọc - hiểu tác phẩm văn học nên một số giáo viên thường có xu hướng tách rời
văn bản ra khỏi sợi dây liên hệ với yếu tố bên ngoài tác phẩm như: tác giả, hoàn
cảnh sáng tác, bối cảnh xã hội...; chỉ chú trọng đi sâu tìm hiểu nội dung, hình thức
bên trong văn bản.
- Bên cạnh đó, sức ép của thời gian so với dung lượng kiến thức quá lớn mà
giáo viên phải thực hiện trong giờ đọc - hiểu cũng là một trở ngại không nhỏ đối
với việc vận dụng tri thức văn học sử. Không những thế, so với các môn học khác
trong nhà trường, đồ dùng dạy học của môn Ngữ văn rất ít ỏi và không phong phú:
Thường chỉ một vài bức tranh minh họa tác phẩm, tranh chân dung một số tác giả
lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,...
- Mặt khác, tài liệu tham khảo môn Ngữ văn trong nhà trường rất hạn hẹp,
hầu hết chỉ trang bị cho người dạy SGK và sách giáo viên, thiếu các tài liệu nghiên
cứu, hướng dẫn về phương pháp cần thiết. Do vậy đã hạn chế tầm nhận thức và
phương pháp dạy học của giáo viên trong giảng dạy.

* Tình hình học các tiết văn học
- Do sách giáo khoa hiện nay biên soạn theo quan điểm “tam thể nhất hợp”
không theo từng giai đoạn văn học. Vì vậy khi dạy văn giáo viên thường băm nát
tác phẩm để tìm ra cho được cái tích hợp ở trong đó mà qn đi giá trị tư tưởng
của tác phẩm. Cho nên khi làm bài học sinh rất lúng túng và thường mắc phải
những lỗi sau:
+ Thường theo văn mẫu rồi ghi lại một cách nguyên xi hoặc cắt xén mà ta
hay gọi là chiết ghép.
+ Phân tích nhưng thờ ơ với hồn cảnh ra đời của tác phẩm.
+ Lôi tác phẩm về hiện tại để phân tích, dễ dẫn đến hiện đại hố tác phẩm,
hiện đại hoá nhân vật.
2.2. Kết quả kiểm tra đánh giá:
Trước khi thực hiện đề tài trên, tôi đã tiến hành kiểm tra tình hình, thực
trạng của học sinh qua quá trình đọc, hiểu văn bản và bằng bài kiểm tra, khảo sát
chất lượng đầu năm, cụ thể kết quả như sau:
Tổng số học Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu


sinh: 48 em

4= 8,3%

13 = 27,1%


25 = 52,1%

6 = 12,5%

- Đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9 gồm 4 em
Từ cơ sở thực tiễn trên, tôi nhận thấy để góp phần nâng cao chất lượng bộ
mơn Ngữ văn đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức văn học sử cơ
bản nhằm giúp học sinh yêu thích và cảm thụ đúng nội dung, ý nghĩa tác phẩm
văn học nghệ thuật. Vì vậy, trong các giờ dạy Ngữ văn cần giúp học sinh nắm bắt
kiến thức văn học sử. Dạy để học sinh nắm được hoàn cảnh xã hội mà tác phẩm đó
ra đời. Thấy được tác phẩm văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội
đương thời. Thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm mà tác giả gửi gắm vào trong
đó.
3. Nội dung đề tài, Sáng kiến nghiên cứu thực hiện
3.1. Những vấn đề cần giải quyết: giáo viên cần giúp học sinh hiểu:
- Chức năng phản ánh hiện thực cuộc sống xã hội của văn học nghệ thuật
( qua các giai đoạn phát triển của văn học): Như trên đã nói mỗi tác phẩm văn
học chính là đứa con tinh thần của nhà văn. Tác phẩm được viết ra thời đại nào
thường mang dấu ấn lịch sử và những biến động xã hội của thời đại đó. Vì vậy
trong q trình dạy tác phẩm văn học giáo viên cần chú trọng trang bị cho học sinh
những tri thức về văn học sử để giúp các em khám phá vẻ đẹp của văn học nghệ
thuật, hiểu tác phẩm văn học nghệ thuật thực sự là sợi dây đồng cảm kì diệu giữa
nghệ sĩ với bạn đọc thông qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim, nó
giúp cho đời sống tinh thần của con người phong phú hơn, đẹp đẽ hơn.
- Ưu thế đặc biệt của văn học là tác động trước nhất vào tình cảm, vào nhận
thức của con người: người giáo viên ngữ văn phải nắm chắc tri thức văn học sử để
thơng qua đó giúp học sinh khám phá nét đẹp của văn học nghệ thuật nói chung và
hình tượng nghệ thuật nói riêng cũng như khả năng kì diệu của nó tác động đến
với người đọc, người nghe. Bởi con đường của văn nghệ đến với người đọc là con
đường từ trái tim đến với trái tim. Tác phẩm văn học chứa đựng tình cảm yêu ghét,

vui buồn của con người trong đời sống thường ngày. Tư tưởng của nó khơng khơ
khan, trừu tượng mà trữ tình, lắng sâu, thấm thía những cảm xúc, những nỗi niềm.
- Cách áp dụng kiến thức văn học sử vào cảm thụ văn học ( nhất là khi làm
bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học ở lớp 7 và nghị luận văn học ở lớp 9) của
học sinh: Qua phần tựluận trong các bài kiểm tra 45 phút, kiểm tra học kì, đặc
biệt qua các bài viết tập làm văn thì có thể khẳng định rằng phần lớn HS chưa
biết cách áp dụng văn học sử vào cảm thụ tác phẩm văn học, hầu như các em
chưa làm nổi bật được giá trị tư tưởng của tác phẩm mà tác giả gửi gắm vào
trong đó mà chỉ cảm nhận với ý kiến chủ quan của chính mình. Vì vậy bài cảm thụ
chưa có sức thuyết phục, chưa cuốn hút, thiếu hấp dẫn, thiếu cảm xúc…nhiều


khi chỉ lànhững văn bản sao chép máy móc, thậm chí chép mà khơng hiểu
vấn đề.
3.2. Các vấn đề nghiên cứu
Để giúp học sinh THCS hiểu rõ hơn đồng thời khám phá vẻ đẹp của các tác
phẩm văn học nghệ thuật thông qua việc hiểu và nắm bắt kiến thức văn học sử
(Chủ yếu là văn học viết Việt Nam), trong đề tài tơi trình bày các nội dung sau:
a) Các giai đoạn phát triển của văn học viết Việt Nam để áp dụng vào tìm
hiểu các tác phẩm văn học trong từng giai đoạn.
b) Kĩ năng tìm hiểu các kiến thức văn học sử và vận dụng kiến thức văn học
sử vào cảm thụ văn học
4. Các giải pháp thực hiện
4.1. Nắm được các giai đoạn phát triển văn học viết Việt Nam:
a- Giai đoạn từ thế kỷ X-> thế kỷ XV:
Học sinh phải nắm được các đặc điểm về lịch sử và xã hội sau đây: Đây là
thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp
phong kiến, dân tộc ta đồn kết trên dưới một lịng đập tan các cuộc xâm lược của
các thế lực phong kiến phương Bắc viết nên những trang sử vàng chói lọi. Những
trận đánh đã đi vào lịch sử dân tộc như: Bạch Đằng, Hàm Tử, Chi Lăng, Xương

Giang…
Vì vậy văn học giai đoạn này tập trung đề cao chủ nghĩa yêu nước đó
là:
- Khẳng định chủ quyền của đất nước qua bài “Sông núi nước Nam” của Lí
Thường Kiệt:
Sơng núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Hay:
Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
(Bình Ngơ đại cáo-Nguyễn Trãi)
- Tự hào về truyền thống đấu tranh chống xâm lược cha ông :


Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Bình Ngơ đại cáo-Nguyễn Trãi)
-Tố cáo tội ác của giặc:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế
Gây binh kết ốn trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi

(Bình Ngơ đại cáo-Nguyễn Trãi)
- Căm thù giặc, sẵn sàng xả thân vì đất nước: như “Hịch tướng sĩ” -Trần
Quốc Tuấn.
b. Giai đoạn từ thế kỷ XVI -> thế kỷ XVII:
Học sinh phải nắm hoàn cảnh lịch sử và xã hội: Đây là giai đoạn xã hội
phong kiến suy tàn, các thế lực phong kiến gây bè kéo cánh chém giết lẫn nhau tạo
nên các cuộc chiến tranh phi nghĩa như: Chiến tranh Trịnh -Mạc, chiến tranh Trịnh
- Nguyễn kéo dài hàng trăm năm trời khiến cho xương chất thành núi máu chảy
thành sông.
Về văn học giai đoạn này chủ yếu đề cao tư tưởng “Nhân giả vô địch”, tố
cáo chiến tranh bênh vực cho người dân vô tội. Điển hình cho các tác giả và tác
phẩm giai đoạn này gồm có: Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Hữu cảm”, hay Nguyễn Dữ
với “ Chuyện người con gái Nam Xương”…v.v…
c. Giai đoạn thế kỷ XVIII -> đến năm 1858:
Chế độ phong kiến đã đi vào con đường mục ruỗng thối nát. Vua quan lo ăn
chơi xa hoa trụy lạc đời sống nhân dân cực khổ trăm bề. Bên cạnh đó lễ giáo
phong kiến hà khắc đã tước đoạt quyền sống của người phụ nữ, biến họ trở thành
những món hàng, những thứ đồ chơi không hơn không kém. Đồng tiền đã ngự trị
lên nhân phẩm và lương tâm con người, khiến cả xã hội phải chạy theo tiền sống
ngược với lương tâm. Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung đề cao chủ nghĩa
nhân đạo gồm có bốn vấn đề sau:
- Lên án các thế lực chà đạp lên quyền sống con người, điển hình là nhân vật
Thuý Kiều. Một người con gái tài sắc vẹn toàn thế nhưng bị cái xã hội bất công ấy


xô đẩy đưa đến cho nàng một cuộc đời đầy giông bão. Vào giai đoạn này thế lực
đồng tiền đã len lỏi khắp mọi ngõ ngách cuộc sống. Biến những người như Mã
Giám Sinh thành những kẻ lưu manh với những hành động táng tận lương tâm.
Biến những người cầm cân nảy mực của xã hội thành những kẻ “Đầu trâu mặt
ngựa”..v.v…Đúng như nhà thơ Nguyễn Du đã viết :

Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Hay:
Trong tay đã sẵn đồng tiền
Dẫu rằng biến trắng đổi đen khó gì.
- Ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất con người: Nổi bật đó là vẻ đẹp của chị em
Thuý Kiều. Có lẽ trong nền văn học nước nhà cặp mỹ nhân Thuý Kiều, Thuý Vân
đã được miêu tả đạt đến mức hoàn mỹ. Nguyễn Du đã giành những ngơn từ hay
nhất để xây dựng nhân vật của mình. Phải nói rằng cả hai chị em Th Kiều hình
như tất cả sắc nước hương trời đều hội tụ vào đây. Hãy nghe ông trân trọng giới
thiệu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành…
Không chỉ có ca ngợi vẻ đẹp mà Nguyễn Du cịn ca ngợi phẩm chất tốt đẹp
con người đó là tình thương cha mẹ, sự thuỷ chung với người yêu:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Một giá trị nhân đạo đáng chú ý của văn học giai đoạn này, đó là sự thơng
cảm, thương cảm cho số phận con người. Ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hay



“Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu ta đều thấy rất rõ. Hãy lắng nghe nước
mắt của Tố Như đang chảy trên từng trang viết :
Rường cao rút ngược giây oan
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người
Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan này còn một kêu trời nhưng xa.
Một giá trị nhân đạo nữa mà văn học giai đoạn này đề cập đó là nói lên niềm
mơ ước một cuộc sống tốt đẹp và công bằng. Nhân vật đại diện cho cơng lý đó là
Từ Hải, Lục Vân Tiên những con người dám “Chọc trời khuấy nước” đạp bằng sự
bất cơng để tìm cơng lý.
d. Giai đoạn 1858 -> 1930:
- Hoàn cảnh lịch sử: Thực dân pháp xâm lược nước ta triều đình nhà
Nguyễn đầu hàng. Hưởng ứng chiếu cần vương của Tôn Thất Thuyết phong trào
chống pháp nổ ra khắp nơi, nhưng kết quả đều thất bại. Pháp lần lượt bình định
nước ta và tiến hành khai thác thuộc địa. Pháp mở một số trường học, văn hoá
phương Tây được du nhập vào nước ta.
- Văn học giai đoạn này chủ yếu tập trung tố cáo tội ác của giặc Pháp, kêu
gọi nhân dân đấu tranh, ca ngợi những tấm gương hy sinh vì đất nước. Tác giả tiêu
biểu là Nguyễn Đình Chiểu với các bài “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
Nhân vật trong tác phẩm là những người nơng dân bình dị, vì u nước căm thù
giặc mà đứng lên chống pháp:
- Sau khi bình định xong nước ta, để bình định bản xứ Pháp đã mở trường
đào tạo một số trí thức tây học. Dưới tác động của tầng lớp trí thức này, ở nước ta
đã xuất hiện một phong trào “ tây hoá”, vì thế là nho học đã nhường chỗ cho tây
học. Nhà thơ Nguyễn Bính đã nói về sự thay đổi nhanh chóng này:
Hơm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Nào đâu cái yếm vải sồi

Cái dây lưng đụi nhuộm hồi sang xuân
- Vì vậy khi dạy bài thơ “Ông Đồ” ta phải hiểu được tâm trạng của tác giả.
Đó là tâm trạng nuối tiếc cho một thời vàng son của nho học và tâm trạng chua xót
trước sự lạc lõng của chữ nho trong xã hội đang ồ ạt bị tây hoá.Tâm trạng đó cũng
được Tú Xương phản áng qua mỗi trang viết của ơng :
Nào có ra gì cái chữ nho


Ơng nghè ơng cống cũng nằm co
- Phải nói rằng ở giai đoạn này mọi vấn đề thi cử đều đươc định giá bằng
tiền. Vì vậy các tri thức nho học họ chán chường trước cái xã hội ấy. Chúng ta sẽ
hiểu hơn qua bài thơ của Nguyễn Khuyến:
Thằng bán tơ kia giở mối ra
Làm cho bận đến cụ viên già
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a !
e. Giai đoạn 1930-> 1945:
Đây là giai đoạn Đảng cộng sản ra đời lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Tạo
nên các cao trào cách mạng như Xô viết Nghệ tĩnh 1930-1931, phong trào mặt trận
bình dân 1936-1939. Vì vậy văn học giai đoạn này bị phân hố thành ba dòng văn
hoc:
+ Dòng văn học lãng mạn: Đây là dịng văn học có vai trị cải tổ nền văn
học nước ta. Nó phá bỏ phương pháp sáng tác cũng như đề tài sáng tác cũ tạo nên
một bước nhảy vọt cho thơ văn Việt Nam. Nó để lại nhiều tác phẩm sông mãi với
thời gian. Đây là thời kỳ xuất hiện nhiều cây bút tài hoa như: Thạch Lam, Thế Lữ,
Nguyễn Bính, Xn Diệu …v.v…
+ Dịng văn học hiện thực: Vào giai đoạn này do chính sách bóc lột hà khắc
của chế độ thực dân nửa phong kiến, làm cho đời sống nhân dân cùng cực. Họ đã
bị bần cùng hoá như lão Hạc hay bị lưu manh hố như Chí Phèo. Vì vậy đã có
nhiều tác giả dám đứng lên dùng ngịi bút của mình tố cáo giai cấp thống trị như:

“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Cơng Hoan, “Chí
Phèo” của Nam Cao…v.v…
+ Dòng văn học cách mạng: chủ yếu là do các chiên sĩ cộng sản viết ra
nhằm mục đích chỉ cho quần chúng thấy được nguyên nhân của sự nghèo khổ,
thấy được kẻ thù của dân tộc, kêu gọi nhân dân vùng lên đâú tranh:
Hỡi anh chị em Nam Việt
Nông nỗi này ai biết chăng ai ?
Đã non tám chục năm trời
Làm thân trâu ngựa cho lồi chó dê
( Bài ca cách mạng)
Hoặc nói về ý chí buất khuất của người chiến sĩ:
Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày,


Là gươm kề tận cổ súng kề tai,
Là thân sống chỉ coi còn một nửa.
(Trăng trối-Tố Hữu)
Thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng:
Rồng quấn vịng quanh chân với tay
Trơng như quan võ quấn tua vai
Tua vai quan võ bằng kim tuyến
Tua của ta là một sợi gai
(Dây trói- Hồ Chí Minh)
g-Giai đoạn 1946-> 1954:
- Về lịch sử, cách mạng tháng Tám thành công mở ra một trang sử mới cho
dân tộc ta. Nhưng chính quyền non trẻ đứng trước nhiều thử thách lớn. Ngân khố
nhà nước trống rỗng, đất nước vừa trải qua nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, 95%
dân số mù chữ, thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta.
Nghe theo lời kêu gọi của Bác cả dân tộc lên đường đi kháng chiến:

Ai có súng dùng súng
Ai có gươm dùng gươm
Và đồn qn vệ quốc lên đường
(Tố Hữu)
Trong kháng chiến người lính là “Điểm tựa” của lịch sử:
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn bằng người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa
(Tố Hữu)
Vinh dự là vậy, thế nhưng trong cuộc kháng ấy người lính phải trải mn
ngàn gian khổ khó khăn. Từ những miền quê nghèo họ đi kháng chiến mang theo
những gì ở nhà họ có :
Chiếc xắc mây anh mang
Em nách mo cơm nếp
Lúa níu anh trật dép
Anh cúi sửa vội vàng
(Thăm lúa-Trần Hữu Thung)


Chúng ta hãy đọc bài « Nhớ » của Hồng Nguyên để hiểu được thực tại cuộc
sống người lính bấy giờ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen, quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi lùng giặc đánh.
(Nhớ- Hồng Nguyên)

Không chỉ thiếu thốn về vật chất mà họ còn bị những cơn sốt rét rừng hành
hạ, đói khơng có ăn, rét khơng có mặc, ốm đau khơng có thuốc:
Anh với tơi biết từng cơn ớn lạng
Sốt run người vừng trán ướt mồ hơi
anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Nụ cười buốt giá
Chân khơng giầy
( Đồng chí- Chính Hữu)
Khó khăn gian khổ là thế, nhưng với tinh thần yêu nước họ đã vượt lên tất
cả để làm nên một Điện Biên lịch sử chấn động địa cầu, kết thúc chín năm trường
kỳ chống thực dân Pháp.
Văn học giai đoạn này đi sâu đi sát cuộc kháng chiến thánh thần của dân tộc
để phản ánh và ca ngợi. Vậy nên người lính đi vào thơ ca bình dị chân thật như
cuộc sống nơng dân vốn có của họ. Bên cạnh hình ảnh người lính, thì người nông
dân cũng được phản ánh khá rõ nét. Họ là những người « chân toe mắt toét gọi lựu
đạn là nịu đạn, hát tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh ». Nhưng trong họ
lại có một tinh thần yêu nước mãnh liệt và đó là cơ sở tạo nên sức mạnh cho cả
dân tộc. Tiêu biểu như nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
h. Giai đoạn 1955->1975:
Với chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp nghị Giơ- ne -vơ được ký kết, miền
Bắc được hoàn tồn giải phóng tiến lên xây dựng CNXH. Miền Nam tạm thời bị
chia cắt. Dân tộc ta lại phải hàn gắn vết thương chiến tranh. Xây dựng Miền Bắc


thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường Miền Nam. Để hồn thành trọng
trách lớn lao đó, cả Miền Bắc dấy lên phong trào « tiền tuyến gọi, hậu phương trả
lời » với khẩu hiệu « Thóc khơng thiếu một cân, quân không thiếu một người ».
Thế là những người mẹ , người chị lại tiễn chồng con ra trận:
Rất đẹp thay những tấm lòng đại nghĩa

Vầng trăng nào sánh được vẻ kiên trinh
Xưa tiễn chồng đi cứu nước rười rưỡi tóc xanh
Nay lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc
(Lưu Trọng Lư)
Để có thực lực chi viện cho Miền Nam Đảng đã phát động phong trào « Mỗi
người làm việc bằng hai ». Tất cả mỗi người dân Miền Bắc đều lao động không
quản ngày đêm với tinh thần « tất cả cho Tổ Quốc, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược »
Để thực hiện được nhiệm vụ thống nhất đất nước trung ương Đảng đã quyết
định mở con đường mịn Hồ Chí Minh. Đây là con đường huyết mạch chi viện cho
miền Nam. Thấy được tầm quan trọng của con đường này, đế quốc Mỹ đã dội
xuống đây hàng triệu tấn bom đạn hòng cắt đứt sự chi viện của miền Bắc. Để bảo
vệ con đường, hàng vạn nữ thanh niên xung phong lại đi vào tuyến lửa. Con
đường Trường Sơn đã trở thành nơi đối đầu giữa sức mạnh vật chất của đế quốc
Mỹ và sức mạnh tinh thần của dân tộc chúng ta:
Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phới dậy tương lai
* Văn học giai đoạn này được chia làm hai mảng:
- Mảng thứ nhất viết về đề tài Miền Bắc: Các văn nghệ sĩ đã đi sát với thực
tế cuộc sống ca ngợi tinh thần lao động khẩn trương không quản ngày đêm như bài
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, ca ngợi hình ảnh “Con người mới xã hội chủ
nghĩa”, đó là những con người biết đặt lợi ích tập thể, lợi ích đất nước lên trên lợi
ích cá nhân mà hành động. Họ sống với tinh thần “Mình vì mọi người” mà tiêu
biểu là truyên ngắn “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long mà nhân vật anh
thanh niên là hình mẫu con người mới XHCN.
- Mảng thứ hai viết về đề tài Miền Nam: Văn học đã phản ánh nỗi đau của
chiến tranh, tinh thần quật cường của nhân dân Miền Nam như “Hòn Đất” của
Anh Đức, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng. Đặc biệt là những tác phẩm viết về những con người huyền thoại nơi
tuyến đường trường Sơn. Đó là những anh lính lái xe “ Bài thơ về tiểu đội xe

khơng kính” của Phạm Tiến Duật, những cơ thanh niên xung phong “ Những ngôi
sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, họ là những con người có tuổi đời mười chín đơi


mươi đang hi sinh tuổi thanh xuân cho đất nước mà vẫn lạc quan yêu đời bất chấp
mọi gian nguy:
Không có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
( Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính - Phạm tiến Duật)
i. Giai đoạn từ sau tháng 4-1975
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã giành được thắng lợi trọn vẹn, đất
nước thống nhất, bước vào thời kì xây dựng và phát triển theo định hướng XHCN,
phấn đấu mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Văn học từ sau năm 1975 đã tiếp cận hiện thực đời sống trong tính tồn vẹn và đa
chiều, tập trung khám phá con người ở nhiều mặt và nhiều mối quan hệ. Cuộc
sống và con người hiện ra trong những cái hàng ngày bên cạnh những biến cố lịch
sử, trong cái chung cùng cái riêng, với những chiến công anh hùng cũng như
những đau thương, mất mát, với những niềm vui xen lẫn nỗi buồn, trong ánh sáng
rạng ngời và cả những bóng tối cịn rơi rớt... Như tác phẩm “ Bến quê” của
Nguyễn Minh Châu; kịch “ Bắc Sơn” Nguyễn Huy Tưởng; “ Tôi và chúng ta” Lưu Quang Vũ…
Các thể loại văn bản đều có sự biến đổi, có nhiều tìm tịi, mạnh dạn đổi mới
trong phương thức thể hiện, trong ngôn ngữ văn học. Nhiều tài năng mới xuất hiện
trong thế hệ nhà văn trẻ đến với văn học từ sau 1975.
4.2. Kĩ năng tìm hiểu các kiến thức văn học sử và vận dụng kiến thức
văn học sử vào cảm thụ văn học:
* Tại sao phải dạy văn học sử?
- Như trên đã nói, do sách giáo khoa hiện nay biên soạn theo quan điểm
“tam thể nhất hợp” không theo từng giai đoạn văn học. Vì vậy khi dạy văn giáo

viên thường băm nát tác phẩm để tìm ra được cái tích hợp ở trong đó mà quên đi
giá trị tư tưởng của tác phẩm. Vì vậy phải dạy văn học sử. Dạy để học sinh nắm
được những nét chính về tác giả, hồn cảnh xã hội mà tác phẩm đó ra đời. Thấy
được tác phẩm văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội đương thời.
Thấy được giá trị tư tưởng của tác phẩm mà tác giả gửi gắm vào trong đó.
* Kỹ năng tìm hiểu kiến thức văn học sử và vận dụng kiến thức văn học sử
vào cảm thụ văn học:
Ở mỗi tiết học Ngữ văn, phân môn văn học, khi hướng dẫn học sinh tiếp
cận với văn bản nghệ thuật, điều đầu tiên giáo viên cần hướng dẫn và tạo cho các
em kỹ năng tìm hiểu và nắm rõ về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm ấy để


trên cơ sở đó các em hiểu và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật một cách đúng và trúng
đồng thời cảm thụ được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học.
Ví dụ 1: Khi tìm hiểu những tác phẩm như “ Nam quốc sơn hà” ( Lý Thường
Kiệt), “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), Cáo bình ngơ (Nguyễn Trãi). Giáo viên
cần cho các em hiểu: Nhân vật trung tâm trong văn học giai đoạn này là người anh
hùng phong kiến, là những con người thuộc giai cấp thống trị có xu hướng đề cao
và khẳng định những người thuộc tầng lớp trên. Yếu tố cá nhân của người nghệ sĩ
bị chìm khuất đi để biểu hiện yếu tố chung cho cộng đồng, cho giai cấp. Cái tôi
của nhà văn đã nhường chỗ cho cái ta xuất hiện. Tình yêu lứa đôi, những chuyện
riêng tư sầu muộn của đời người ít được đề cập tới, quyền lợi của giai cấp phong
kiến lúc này thống nhất với quyền lợi dân tộc. Vì thế việc đấu tranh bảo vệ quyền
lợi cho mình là bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Nền văn học này được gọi là “văn
học hướng thượng”
Ví dụ 2: Khi giảng những tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, ta
phải giúp học sinh hiểu rằng: Do chế độ phong kiến đã suy tàn, nên văn học giai
đoạn này là “văn học hướng hạ”-“ nhảy qua cầu khuynh hướng nhân đạo bước lên
bờ chủ nghĩa nhân đạo”, để từ đó các em hiểu nét đẹp của tác phẩm chính là chủ
nghĩa nhân đạo. Chủ nghĩa nhân đạo là tình thương yêu con người được phổ biến

ở phạm vi toàn xã hội, trở thành khuynh hướng tư tưởng được đông đảo các tầng
lớp xã hội tham gia. Cho nên, hình ảnh người phụ nữ trong thơ “bà chúa thơ nôm”
mới thật đẹp cả về hình thức lẫn tâm hồn, ln khao khát được yêu thương, được
trân trọng, mong ước vươn tới hạnh phúc qua bài thơ “ Bánh trôi nước”.
Hoặc khi học tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngoài những thông tin
được cung cấp trong sách giáo khoa, học sinh cần tìm hiểu để biết được những
thơng tin cần thiết về tác giả và tác phẩm như:
- Bản thân: Nguyễn Du sinh 3.1.1765 (Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng)
Mất 16.9.1820. Tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê Tiên Điền, Nghi Xuân,
Trấn Nghệ An. 10 tuổi mồ côi mẹ, là một trong năm người nổi tiếng đương thời.
- Gia đình: Đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống khoa bảng.
Có thế lực bậc nhất lúc bấy giờ. Cha là Nguyễn Nghiễm - nhà văn - nhà nghiên
cứu sử học- nhà thơ và từng làm tể tướng. Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dịng dõi
bình dân, người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít hơn chồng 32 tuổi. Thuở niên
thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ.
- Thời đại: Cuối Lê đầu Nguyễn - thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn, giai
cấp thống trị thối nát, đời sống xã hội đen tối, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa (Khởi
nghĩa Tây Sơn)
- Cuộc đời: Từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại,
định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả.
Sống lưu lạc ở miền Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng. Năm 1802 làm quan cho
triều Nguyễn, ông rất tài giỏi nên được cử đi xứ sang Trung Quốc hai lần.


- Sự nghiệp thơ văn: Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc:
+ Thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp
ngâm.
+ Thơ chữ Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều),Văn chiêu
hồn,Văn tế sống hai cô gái trường lưu.
- Tư tưởng tình cảm: Đối với những kẻ thuộc tầng lớp trên, tướng lĩnh hay

quan lại cao cấp Nguyễn Du vạch trần tội ác của chúng. Đối với những con người
bất hạnh... ông dành hết tình thương đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Tóm lại:
- Sợi chỉ đỏ xun suốt tồn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ chữ Hán đến
truyện Kiều, văn chiêu hồn đều sáng ngời Chủ nghĩa nhân đạo. Mặc dù sinh ra
trong gia đình quý tộc, Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống, yêu thương
quần chúng, lắng nghe tâm hồn, nguyện vọng của quần chúng nên ông ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời. Với tài năng nghệ thuật tuyệt vời ông đã
làm cho vấn đề trọng đại càng trở nên bức thiết hơn, da diết hơn, nóng bỏng hơn.
Thơ Nguyễn Du dù chữ Hán hay Nơm đều đạt tới trình độ điêu luyện. Riêng
truyện Kiều là một công hiến to lớn của ông đối với sự phát triển của văn học dân
tộc. Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc- người đặt nền móng cho ngơn ngữ văn học
dân tộc- một danh nhân văn hóa thế giới. Thơ Nguyễn Du là niềm tự hào dân tộc –
Niềm tự hào của văn học Việt Nam. Tố Hữu ca ngợi:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”
Hiểu những vấn đề đó nên khi đi tìm hiểu hoặc làm bài văn nghị luận về
nhân vật người phụ nữ trong truyện Kiều, học sinh mới cảm nhận được: Nàng
Kiều tài hoa bạc mệnh. Nàng là hiện thân của cái đẹp nhưng đồng thời cũng là nạn
nhân của chế độ phong kiến đã thối rữa. Khi mà cả xã hội đã bị đồng tiền tác oai,
tác quái “ Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”, khiến nàng phải hi sinh thân mình
cứu cha và em khỏi bị đánh đập, để rồi trải qua biết bao đau khổ: bi kịch tình yêu,
mối tình đầu tan vỡ, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần ( Hai lần tự tử, hai lần đi tu,
hai lần phải vào lầu xanh, hai lần làm con ở) quyền sống và quyền hạnh phúc bị
cướp đoạt nhiều lần…). Từ đó các em biết căm thù phường buôn thịt bán người -lũ
sở khanh đểu giả và cảm thương xót xa cho cuộc đời Kiều, cho những người phụ
nữ xưa. Căm giận xã hội phong kiến bất công tàn bạo đã trà đạp lên nhân phẩm
cuộc đời họ...
Ví dụ 3: Khi học các tác phẩm thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán

(giai đoạn 1930-1945), học sinh cần hiểu được bối cảnh lịch sử xã hội đương thời


như: Nỗi khổ của người dân lao động, mối quan hệ giữa nông dân với địa chủ,
cường hào, quan lại...Từ đó khám phá ra nét đẹp của chị Dậu, người đàn bà ba con
khỏe mạnh, thương yêu chồng con hết mực, sẵn sàng vì chồng, vì con mà phản
kháng lại quyền lực...Để rồi các em có thể cảm thơng sâu sắc, nức nở cùng chị khi
phải đứt ruột bán đi đứa con gái đầu để lấy tiền nộp sưu cho chồng, hả hê, khâm
phục khi chị ra tay đánh hạ tên người nhà lý trưởng...Hoặc khi học tác phẩm
“Sống chết mặc bay” ( Phạm Duy Tốn), các em có thể tự cảm nhận được thái độ
thờ ơ, vô trách nhiệm đến mức tàn nhẫn của quan phụ mẫu- kẻ đại diện cho cả một
chế độ đương thời...Để rồi căm phẫn chúng bao nhiêu thì lại càng thương xót cho
dân chúng khổ cực, lầm than bấy nhiêu.
Ví dụ 4: Trơi theo dòng thời gian, khi theo chân những chàng trai ra trận
thời chống Pháp, chống Mĩ qua bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về
tiểu đội xe khơng kính” ( Phạm Tiến Duật). Để hiểu rõ về bài thơ cũng như hình
tượng người lính, tình đồng chí tuyệt vời của họ, thì phải hiểu rõ về tác giả, cũng
như hồn cảnh ra đời của bài thơ:
Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến
dịch Việt Bắc (thu đơng 1947). Trong chiến dịch này, Chính Hữu là chính trị
viên đại đội, ơng có nhiều nhiệm vụ, nhất là việc chăm sóc anh em thương
binh và chơn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị
ốm nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại để chăm
sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy rất tận tâm giúp ơng vượt qua
những khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lịng của
người bạn, ơng đã viết bài thơ“Đồng chí” như một lời cảm ơn chân thành
nhất gửi tới người đồng đội, người bạn nơng dân của mình. Bài thơ là lời
ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ đội Cụ
Hồ -những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Khi tìm hiểu và cảm nhận về “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm
Tiến Duật), để học sinh hình dung rõ nét và ln nhớ mãi hình ảnh những “Tiểu
đội xe khơng kính” cùng những con người dũng cảm, hăm hở ra trận bằng cả trái
tim với những cái “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” và “Nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha”. Hình tượng độc đáo ấy mà có lẽ đến muôn đời sau lịch sử không thể lặp lại:
những chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Từ đó các
em có quyền tự hào về những trang lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc
với lớp lớp những con người quả cảm, ngoan cường và giàu đức hi sinh. Thì học
sinh phải tìm hiểu để biết rằng: Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra
ngày càng ác liệt. Nhằm tạo một tuyến hành lang chiến lược về hậu cần cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ của ta chắc thắng; ngày 19/5/1959, Bác Hồ đã quyết định
và trực tiếp giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường vận tải chiến lược để chi viện
sức người sức của cho cách mạng miền Nam và giúp nước bạn Lào, Campuchia.
Trên dãy Trường Sơn hùng vĩ của đất nước hình chữ S, tuyến đường vận tải lấy


tên là Đường Trường Sơn, là tên của giải Trường Sơn đã ra đời, và sau này được
đổi tên là đường Hồ Chí Minh mang tên vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc – Đây là
con đường chiến lược đặc biệt nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn. Và đến
ngày 25/10/1965, đoàn xe cơ giới đầu tiên với hàng trăm chiếc mang tên “Ngọn
đèn xanh Bác Hồ” đưa hàng sâu vào chiến trường, mở đầu cho giai đoạn vận tải cơ
giới lớn liên tục trên đường Hồ Chí Minh. Đúng như cố Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã viết: “quyết định xây dựng tuyến chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh
và việc thực hiện thắng lợi quyết định này là một thành công kiệt xuất trong lãnh
đạo chiến tranh của Đảng CSVN, là biểu hiện ý chí sắt đá quyết tâm giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước của toàn dân, toàn quân ta, biểu hiện tinh thần
đồn kết quốc tế đặc biệt: Việt Nam-Lào-Campuchia…”.
Ví dụ 5: Khi cảm thụ bài thơ “Sang thu” (Hữu Thỉnh), các em cần hiểu bài
thơ qua lời tự bạch của ông như: “ Cuối bài thơ tôi đề là “Thu 1977”. Đây là chìa
khóa của bài thơ mà rất nhiều người giảng về bài thơ này không hiểu hoặc không

chú ý”- nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả của bài thơ
“Sang thu” trong SGK lớp 9 tâm sự. Nếu như họ lưu ý đến chữ “Thu 1977” thì sẽ
hiểu được rằng đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của người lính vừa
bước ra khỏi chiến tranh và sự bình yên quý giá biết chừng nào...”; Đồng thời tìm
hiểu xuất xứ của bài thơ: đó là thời khắc ơng đặt bút viết bài thơ. Năm 1977, ông
tham gia trại viết văn quân đội ở một làng ngoại ô Hà Nội (nay là Khương Hạ,
Thanh Xuân, Hà Nội). Đất nước ta lúc này vừa trải qua chiến tranh, cuộc sống
thanh bình đã trở lại. Trong cái mơ hồ phảng phất gió thu và lá thu đang ngả màu,
nhà thơ đã trèo lên cây ổi chín vàng trong cả một vườn ổi bạt ngàn ở nơi này.
Khơng có gì đặc hơn, sánh hơn cái màu, cái mùi ổi chín vàng nhuốm trong cái
nắng vàng của mùa Thu.. Không gian cao vút, sâu thăm, yên tĩnh. Bài thơ bật lên
từ đó, ngay khi nhà thơ cịn ngồi trên cây ổi, những vần thơ được “được làm trong
đầu” chứ chưa đụng chạm gì đến giấy bút.
Hay như chính quan điểm của nhà thơ Hữu Thỉnh: “ Giảng văn thơ khơng
nên chỉ phân tích trên văn bản, câu chữ mà hãy tìm hiểu sâu hơn cái tác giả muốn
gửi gắm. Nó có thể nằm ngay trên tựa đề bài thơ, câu đề từ, lời ghi chú, ngày
tháng hay một lời đề tặng”.
5. Kết quả thực hiện
- Hiểu rõ vai trò củả tri thức văn học sử là một trong những tri thức không
thể thiếu được trong mỗi giờ văn học, và đây cũng là những kĩ năng cần rèn cho
HS lớp 9 để các em có khả năng cảm thụ tốt hơn các tác phẩm văn học, từ đó vận
dụng để nghị luận văn học đạt hiệu quả. Trong q trình dạy - học các tiết văn học,
tơi đã luôn chú ý tới những vấn đề này và đã đạt được kết quả cụ thể là:
+ Học sinh lớp 9A-9C tôi trực tiếp giảng dạy và đội tuyển thi học sinh giỏi
môn Ngữ văn lớp 9 trong năm học 2015-2016, so với đầu năm khi mới tiếp nhận
đến nay các em đã có kĩ năng đọc, tìm hiểu khá tốt tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh


lịch sử và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học. Có kĩ năng phát hiện, phân tích
hình tượng nghệ thuật, dấu hiệu nghệ thuật, nội dung, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm

vào tác phẩm, biết vận dụng kiến thức thâu tóm được để làm khá tốt bài văn nghị
luận về đoạn thơ, bài thơ, nghị luận về tác phẩm truyện, đoạn trích.
- So sánh kết quả: Trước khi thực hiện đề tài với kết quả sau khi áp dụng đề
tài: Bài TLV số 5: Nghị luận về đoạn thơ bài thơ, nghị luận về tác phẩm truyện,
đoạn trích và bài kiểm tra văn học, kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện như sau:

Thời
gian

Số
HS

Kết quả
G

%

Kh

%

TB %

Y

%

K % TB %

Trước

khi Thưc
24
hiện đề
tài

2

8,3

5

20,8

13

54,2 4

16,7

0

0

20

83,3

Sau khi
áp dụng
đề tài

24

3

12,5 8

33,4

11

45,8 2

8,3

0

0

22

91,7

-8,4

-8,4

0

0


+2

+8,4

(+),(-)

+1 + 4,2 +3

+12,6 -2

-2

Đội tuyển học sinh giỏi:
- 4/4 em đạt giải khuyến khích cấp trường
- 2/2 đạt giải khuyến khích cấp huyện và 1 em được chọn vào đội tuyển dự
thi HSG môn Ngữ văn cấp tỉnh
So với kết quả khảo sát trước, kết quả hiện nay đã tăng lên rõ rệt. Khơng
những thế vì đã biết cách tìm hiểu và vận dụng nên HS cũng có hứng thú hơn khi
học giờ Ngữ văn và qua giờ Ngữ văn các em hiểu thêm về lịch sử, hoàn cảnh xã
hội, biết cách so sánh xưa và nay…cũng từ đó mà rèn luyện bản thân mình.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về ĐT, SKCTKT
* Nội dung, ý nghĩa


- Nói tóm lại qua đề tài này giúp bản thân tơi nói riêng và mỗi giáo viên
dạy bộ mơn ngữ văn THCS thấy được rằng tầm quan trọng của việc cung cấp tri
thức văn học sử để khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học nghệ thuật góp phần
cho việc nghị luận văn học đạt hiệu quả không chỉ cho HS lớp 9 mà con cho cả HS
bậc THCS. Khơng những thế kỹ năng này cịn giúp các em cảm thụ văn học tốt

hơn khi lên các bậc học cao hơn. Sự kế thừa và nâng cao này thể hiện rõ nhất ở
việc nhấn mạnh tính tổng hợp của tri thức văn học sử, của kĩ năng tìm hiểu và tăng
cường hoạt động thực hành của học sinh.
- Với nội dung của đề tài, muốn thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên phải rèn cho
học sinh kĩ năng tìm hiểu tri thức văn học sử ngay từ khi các em mới vào lớp 6 để
các em có thói quen vận dụng thực hành thường xuyên và được rèn luyện qua
nhiều năm mới mong có thành cơng tốt. Kinh nghiệm mà tơi đã trình bày là rút ra
từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều năm giảng dạy, nhiều khóa học sinh đã
học tập, thi cử đạt kết quả khá cao trong các kì thi, từ kiểm định chất lượng, đến
thi chuyển cấp. Và hiện nay tôi vẫn đang áp dụng khi ôn thi cho HS vào lớp 10
THPT. Hi vọng nó cũng có thể giúp ích cho các em học sinh hiện nay và gợi ý
thêm một số cách học văn khi các em lên bậc học cao hơn.
* Hiệu quả
Báo cáo đề tài, sáng kiến cải tiến kĩ thuật này là do bản thân tìm tịi, tham
khảo và học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy và trên thực tế
cũng đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên chắc chắn không có nhiều
mới lạ, cũng khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp tham
khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của chúng ta có hiệu quả tốt hơn.
2. Các đề xuất khuyến nghị
* Đối với học sinh:
Để học tốt môn Ngữ văn và làm tốt bài văn Nghị luận văn học, đòi hỏi các
em phải đọc tham khảo nhiều tài liệu, sách báo để bổ sung thêm kiến thức phổ
thông và kiến thức xã hội
Biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế bìa làm, biết đúc rút kinh nghiệm
qua các lần kiểm tra, nhận xét, đánh giá của cô giáo và các bạn.
* Đối với giáo viên:
- Người giáo viên cần phải có lịng u nghề, hết lịng vì học sinh.
- Chuẩn bị bài chu đáo hệ thống câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, sát với mục tiêu
của bài và phải phát huy được tính tích cực của học sinh.
- Nghiên cứu, tham khảo tài liệu, sách báo để bổ sung kiến thức cho bản

thân và học sinh.
- Tham khảo các bài dạy ở trang web của giáo dục và trên mạng internet để
góp thêm tư liệu cho bài giảng của mình thêm sinh động hơn.


- Thăm lớp dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao tay
nghề.
- Cần quan tâm chú trọng đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh
yếu kém vì kĩ năng đọc, hiểu của các em cịn nhiều hạn chế
- Truyền thụ đúng, đủ, chính xác, những kiến thức văn học sử cho học sinh.
* Đối với công tác chuyên môn:
- Tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp; sinh hoạt chuyên môn theo hướng
đổi mới: sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học, trao đổi thảo luận
trong tổ khối chuyên môn về những bài giảng hay, khó...Trao đổi về đổi mới
phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá, về những cách làm hay hướng dẫn
HS tự học tích cực đạt hiệu quả...
- Được tập huấn chuyên môn về công tác ôn luyện học sinh giỏi, ôn thi
chuyển cấp cho HS lớp 9 thường xuyên hơn...
Để hoàn thiện và áp dụng đề tài này vào thực tế công tác giảng dạy, bản
thân tôi đã dựa trên cơ sở thực tiễn của học sinh hiện nay, mục đích giúp các em
có sự nhìn nhận đúng đắn hơn về vai trò của văn học sử trong khám phá vẻ đẹp
của văn học nghệ thuật, và phần nào giúp các đồng nghiệp dạy bộ môn Ngữ văn
THCS có thêm tư liệu để giảng dạy. Tuy rất cố gắng nhưng khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong các đồng nghiệp góp ý bổ sung để đề tài này được hoàn
thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ VỀ ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN



................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
....................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
........................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
....................................

XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO PHÒNG GD ĐT VỀ ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
....................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
........................
................................................................................................................................
....................



×