PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỐNG NHẤT
TRƯỜNG TIỂU HỌC LÊ VĂN TÁM
Mã Số: .......................................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy-học phân môn Chính tả cho học sinh
lớp 5B -Trường Tiểu học Lê Văn Tám
Huyện Thống Nhất –Tỉnh Đồng Nai”
Người thực hiện: VŨ THỊ KIỀU DUNG
Lĩnh vực nghiên cứu.
- Quản lý giáo dục
- Phương pháp dạy học bộ môn
- Phương pháp giáo dục
- Lĩnh vực khác
Có đính kèm:
Mô hình
Phần mềm
Phim ảnh
Hiện vật khác
NĂM HỌC: 2011-2012
1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Xuân Thiện, ngày 4 tháng 10 năm 2011
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Kính gửi : Hội đồng sáng kiến Trường Tiểu học Lê Văn Tám
- Họ và tên : Vũ Thị Kiều Dung
- Năm sinh : 1986
- Đơn vị
: Trường Tiểu học Lê Văn Tám
TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy-học phân môn Chính tả
cho học sinh lớp 5B –Trường Tiểu học Lê Văn Tám
Huyện Thống Nhất – Tỉnh Đồng Nai”
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
I/ Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy Chính tả :
Công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi có sự đổi mới về nội dung phương pháp
dạy học. Đòi hỏi người chủ nhân tương lai của đất nước vừa giỏi chuyên môn vừa
có nhân cách tốt. Như bất kì môn học nào khác, ở môn Tiếng Việt cũng có sự điều
chỉnh về nội dung, phương pháp dạy học để đáp ứng nhu cầu đó.
Mục tiêu môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Chính tả nói riêng là rèn
cho học sinh một số kĩ năng viết. Viết là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình
chuyển lời nói có âm thanh sang hình thức chữ viết. Theo một số từ điển thì: Chính
tả là viết đúng, là lối viết hợp chuẩn. Cụ thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về
cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách
phiên âm tên riêng nước ngoài. Phân môn Chính tả giúp học sinh hình thành năng
lực, thói quen viết đúng chính tả, đó là thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hóa,
Tiếng Việt chuẩn mực, đồng thời nó còn là cơ sở của những môn học khác. Phân
môn Chính tả được dạy liên tục trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học từ lớp 1đến
lớp 5 với các dạng bài chính tả như: tập chép, nghe đọc, nhớ viết…Tùy yêu cầu của
mỗi dạng bài khác nhau nhưng tất cả đều chú ý đến cách trình bày bài chính tả, viết
chữ đẹp và đúng chính tả.
Việc dạy chính tả ở Tiểu học nhằm giúp học sinh nắm được quy tắc và thói
quen viết chữ ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn. Từ đó làm chủ được tiếng nói và khả
năng sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp học tập và tư duy. Viết đúng
2
chính tả còn góp phần khẳng định trình độ văn hóa của người sử dụng Tiếng Việt.
Do vậy nghiên cứu biện pháp khắc phục lỗi chính tả là một việc làm hết sức cần
thiết, nhằm thực hiện mục tiêu môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học.
Những điều vừa nêu trên đã khẳng định sự cần thiết, tầm quan trọng của việc
giúp học sinh nắm vững quy tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả cho học
sinh trong trường Tiểu học nói chung, giúp hình thành năng lực và thói quen viết
đúng chính tả cho học sinh lớp 5 nói riêng.
II/ Xuất phát từ thực trạng dạy và học phân môn Chính tả ở trường Tiểu
học hiện nay :
Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc
viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở để viết đúng. Tuy nhiên với
tình hình thực tế tại địa phương, nơi có nhiều người dân ở những vùng miền khác
đến làm ăn, sinh sống, đặc biệt là số lượng những người dân tộc thiểu số chiếm tỉ
lệ cao nên hiện tượng không đồng nhất trong phát âm là rất phổ biến. Chính vì vậy
mà học sinh hiện nay mắc lỗi chính tả rất nhiều. Vậy phải làm thế nào để giúp học
sinh khắc phục lỗi chính tả? Phải làm sao để cho học sinh học tốt phân môn Chính
tả?
Từ những trăn trở trên đã thúc đẩy tôi trong quá trình giảng dạy thực tế, tôi
đã tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy-học phân môn
Chính tả cho học sinh lớp 5B-Trường Tiểu học Lê Văn Tám-Huyện Thống Nhất”, một trong
những biện pháp tích cực giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác trong
chương trình. Bởi trên thực tế, nếu người nói “không chuẩn phát âm” không thể làm người nghe
hiểu mình muốn nói gì thì “viết không đúng” cũng không thể diễn đạt được ý tưởng của mình
cho người khác hiểu. Đặc biệt là trong chương trình phổ thông, môn Tiếng Việt lại là môn “chủ
lực và trung tâm” để có thể khai thác các môn học khác một cách tốt nhất.
B. NỘI DUNG:
I/ Một số lỗi tồn tại của học sinh:
Qua quá trình giảng dạy và theo dõi chất lượng bộ môn, tôi nhận thấy học
sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
1. Lỗi về dấu thanh:
Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh
không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã trong khi số lượng tiếng mang 2 thanh này thì nhiều và
rất phổ biến.
Ví dụ:
Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lẩn lộn,…
2. Lỗi phụ âm đầu:
Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ c/k: Céo co,…
+ g/gh: Con ghà , gê gớm,…
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc, nghành nghề,…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh,…
+ s/x: Cây xả , xa mạc,…
+l/n: na cà, gian lan,…
3
3. Lỗi âm cuối, vần:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối và các vần sau đây:
+ at/ac- ăt/ăc - ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc,…
+ an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu,...
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển,…
+ ui/uôi: nui lớn, nhỏ tủi, quả chúi,…
+ iu/iêu: buổi chìu, muối tiu, nồi niu,…
+ ong/ông: mông ước, lồng mẹ,…
II/ Nguyên nhân chủ yếu:
1. Lỗi về dấu thanh:
Học sinh là con em người dân miền Trung thường không phân biệt được thanh hỏi và
thanh ngã. Trong khi số lượng tiếng mang 2 thanh này khá nhiều. Do đó, đây là lỗi rất phổ
biến trong học sinh.
2. Lỗi khi viết âm đầu:
Học sinh là con em người dân miền Bắc thường nói lẫn lộn qua lại giữa l/n,
ch/tr, s/x. Sự lẫn lộn trong cách phát âm, nói chuyện hàng ngày ít nhiều đã ảnh hưởng đến vấn
đề viết đúng chính tả, tức là nói sai dẫn đến viết sai, nói như thế nào thì viết như vậy.
Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm
“cờ” ghi bằng 3 chữ cái c/k/q , âm “ngờ” ghi bằng ng/ngh, âm “gờ” ghi bằng g/gh…) dù có
những quy định riêng cho mỗi dạng khi ghép chữ, nhưng đối với học sinh tiểu học thì rất dễ
lẫn lộn.
3. Lỗi khi viết âm cuối, vần:
Học sinh là con em người dân miền Nam thường không phân biệt được các vần có âm
cuối at/ac - ăt/ăc - ât/âc; an/ang - ân/âng; ên/ênh.
Do đặc thù ở địa phương, tỉ lệ học sinh dân tộc cao (chiếm 23% tổng số học sinh toàn
trường) nên học sinh dân tộc thường nói và viết sai các vần ui/uôi, iu/iêu, ong/ông.
III/ Một số biện pháp khắc phục lỗi:
1. Tích cực luyện phát âm đúng:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ
tiếng, đúng chuẩn, đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các
thanh và vần dễ lẫn.
Việc rèn phát âm được thực hiện trong tiết Tập đọc ở phần Luyện đọc, lưu ý
sửa lỗi phát âm cho học sinh. Đối với môn Chính tả, trước khi cho học sinh viết bài giáo viên
cần cho học sinh đọc nhiều lần và luyện viết các tiếng, các từ khó và dễ lẫn có trong bài; và
sau khi viết bài xong, phần soát và sửa lỗi cũng không kém phần quan trọng. Giáo viên cần
hình thành cho các em thói quen biết tự soát lỗi và sửa lỗi khi sai cho mình và cho bạn. Sau
khi soát lỗi, học sinh phải sửa lỗi bằng cách viết lại mỗi lỗi sai một đến hai dòng vào dưới bài
chính tả. Đối với môn Luyện từ và câu, Tập làm văn cần lưu ý giúp các em dùng từ hợp lí
khi đặt câu hay viết văn.
2. Phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:
4
Giáo viên tập trung rèn luyện nhiều ở phân môn Tập đọc và Chính tả, s ong
song với việc phát âm, giáo viên có thể áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với
những tiếng dễ lẫn lộn, phát hiện những điểm khác nhau để học sinh lưu ý và ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “buông” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “buôn”, giáo viên yêu cầu
học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- buông = b + uông
- buôn = b + uôn
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “ buông” có âm cuối là “ng”, tiếng “buôn”
có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không viết sai.
3. Phân biệt bằng nghĩa từ:
Một biện pháp khác để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giúp học
sinh hiểu nghĩa chính xác của từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong
tiết Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn và trong tiết Chính tả.
Ví dụ: Phân biệt lan và lang : lan có thể là hoa lan
lang có thể là khoai lang
Giáo viên có thể treo tranh minh họa để vừa kích thích hứng thú học tập
của học sinh, vừa giúp học sinh dễ nhớ từ hơn.
Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để gợi lại
nghĩa của từ hoặc giúp học sinh giải nghĩa từ.
4. Ghi nhớ một số luật và mẹo chính tả:
Một số hiện tượng chính tả mang tính quy luật đối với hàng loạt từ có thể giúp cho học
sinh khắc phục lỗi chính tả một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen
với quy tắc chính tả: các âm đầu k, gh, ngh đứng trước các âm i, e, ê. Còn các âm c, g, ng
đứng trước các âm còn lại.
Từ những năm 1984, Nhà nước đã có quy định về các trường hợp viết I và
Y như sau:
- Nếu không có sự thay đổi về âm hay nghĩa (trừ trường hợp Y đi sau âm
đệm) thì đồng loạt thay Y bằng I. Ví dụ: hi sinh, lí luận, thẩm mĩ,…
- Nếu âm đứng một mình hay ở đầu tiếng thì viết bằng Y, trừ vài trường hợp đã theo
thói quen cũ. Ví dụ: y tế, yêu thương, yên ổn,…
Phân biệt L và N:
- Trong các từ láy vần:
+ Âm đầu trong tiếng thứ nhất hoặc âm đầu trong tiếng thứ hai thường là L. Ví dụ:
cheo leo, loảng xoảng,…
+ Trường hợp âm đầu của tiếng này là GI và KH hoặc một tiếng không có âm đầu
thì tiếng kia là N. Ví dụ: gian nan, khệ nệ, ảo não, ăn năn,…
- L xuất hiện hầu hết trong các tiếng chứa vần có âm đệm, còn N thì rất ít xuất hiện.
Ví dụ: loài, lũy, loa,…
- Không có trường hợp từ láy có hai tiếng, một tiếng có âm đầu L và tiếng
còn lại có âm đầu N. Chỉ có trường hợp từ láy âm L và từ láy âm N. Ví dụ: lỏng lẻo, lẳng
lặng, nõn nà, non nớt,…
5
Phân biệt S và X:
- Trong các từ láy vần, đa số ta dùng X. Ví dụ: búa xua, lì xì,…
- Chỉ có X viết với những tiếng có âm đệm.Ví dụ: xoa tay, tóc xoăn,…
- Ngoài ra, để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con
vật đều bắt đầu bằng s.
Ví dụ:
+ Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sậy, sấu, sến, sầu riêng, …
+ Sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử, sơn
dương, san hô,…
Luật trầm - bổng (quy luật về dấu hỏi, ngã trong các từ láy âm đầu): 2
yếu tố ở cùng một từ láy ở cùng hệ trầm (huyền/ngã/nặng) hoặc bổng
(ngang/sắc/hỏi). Để nhớ được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh
thuộc câu thơ:
Chị Huyền vác nặng – ngã đau
Anh Sắc – không - hỏi một câu được à.
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước
mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược
lại).
•
•
•
•
•
•
Ví dụ:
Huyền + ngã: Mỡ màng, lững lờ, vồn vã,…
Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã,…
Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo,…
Ngang + hỏi: Nhỏ nhoi, trẻ trung, vui vẻ,…
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ,…
Hỏi + hỏi: Thỏ thẻ, hổn hển, rủ rỉ,…
Giáo viên còn có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
- Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt
đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chuông,
chiêng ,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng,
chèo bẻo, chìa vôi,…
- Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
+ Đa số từ chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc có vần ênh: Gập ghềnh, khấp
khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh, bấp
bênh, công kênh,…
+ Hầu hết các từ tận cùng là ng hoặc nh là từ tượng thanh: oang oang, đùng đoàng,
loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, pằng pằng, eng éc,
beng beng, chập cheng, leng keng, lẻng kẻng, đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch,
rập rình, xập xình, huỳnh huỵch,…
5. Vận dụng củng cố bằng các bài tập chính tả:
6
Giáo viên nên cho học sinh thực hiện các dạng bài tập chính tả khác nhau
để giúp học sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng
từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy
tắc chính tả để các em ghi nhớ.
IV. Kết quả:
Xuất phát từ thực tiễn của lớp, tôi đã thực hiện các biện pháp trên, qua một
thời gian tôi thấy lớp tôi có chuyển biến rõ rệt, các em học sinh đọc và viết chính
tả tốt hơn. Trong giờ học các em tiếp thu bài tốt hơn, không khí học tập sôi nổi
hơn. Các em rất hứng thú say mê trong học tập. Qua đó các em dần có thói quen
đọc và viết ngày một chuẩn hơn.
Sau đây là kết quả kiểm tra đánh giá, phân loại ở 2 thời điểm đầu năm và
cuối HKI năm học 2010-2011:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
13(52%)
Trung
bình
3(12%)
5B (Đầu năm)
25
5(20%)
5B (Cuối HKI)
25
11(44%)
Yếu
4(16%)
10(40%)
4(16%)
0
* Nhận xét:
Kết quả thực nghiệm ở bảng trên cho thấy dạy theo phương pháp đổi mới
đã có hiệu quả nhất định đối với việc rèn kĩ năng đọc và viết đúng chính tả cho
học sinh. Bởi số lượng học sinh đạt điểm giỏi đã tăng lên và số học sinh đạt điểm
yếu đã giảm đi ở cuối HKI so với thời điểm đầu năm. Một số học sinh yếu kém vào
đầu năm học thường sai từ 10 lỗi trở lên trong 1 bài, đến nay số lỗi đã giảm xuống còn 2 - 5
lỗi/mỗi bài.
Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận
thấy học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức
khiêm tốn và việc “giúp học sinh học tốt môn Chính tả” là một quá trình lâu dài, song với
những kết quả bước đầu như trên, nếu tiếp tục rèn luyện các em sẽ có kỹ năng viết đúng khi viết
chính tả.
C. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Từ những kết quả đã đạt được theo tôi để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 5
nói riêng, từ đó nâng cao kĩ năng chính tả cho học sinh toàn cấp nói chung giáo viên cần chú ý
những điểm sau :
- Phát hiện lỗi chính tả, đưa ra các biện pháp khắc phục kịp thời là rất cần thiết.
- Giáo viên cần tích cực luyện phát âm đúng cho học sinh vì có phát âm
đúng thì học sinh mới dễ dàng rèn cho học sinh viết đúng.
- Giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả và sử
dụng một số hình ảnh minh họa vừa để trang trí lớp học vừa để giúp học sinh
nắm bài dễ hơn.
- Giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình
độ, chuyên môn nghiệp vụ. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh học tập
một cách có hiệu quả.
7
D. KIẾN NGHỊ:
- Các cấp quản lí chun mơn tạo mọi điều kiện, khuyến khích giáo viên chủ động
trong việc khai thác nội dung, sáng tạo và xây dựng các kiểu bài tập phù hợp để giúp học
sinh khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
- Cung cấp các tài liệu về Nghiên cứu Tiếng Việt, từ điển Tiếng Việt.
- Tổ chức các chun đề về giảng dạy phân mơn Chính tả.
- Cung cấp kịp thời các phương tiện dạy học phục vụ cho mơn học.
* Trên đây là một số kinh nghiệm mà tơi đã nghiên cứu và vận dụng trong q trình
giảng dạy thực tế của lớp mình. Tuy kết quả bước đầu chưa cao lắm, nhưng với sự nhiệt tình và
nỗ lực hết mình, tơi cũng đã tích lũy được một số bài học thực tiễn. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của Hội đồng sáng kiến để việc giảng dạy phân mơn Chính tả trong nhà trường
ngày càng được nâng cao về chất lượng, giúp học sinh học tập đạt kết quả tốt hơn.
Người thực hiện
Vũ Thị Kiều Dung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tiếng Việt 1
Lê A, Lê Phương Nga, Đặng Kim Nga, Lê Hữu Tỉnh, Đỗ Xuân Thảo
Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội-năm 2006
2. Giáo trình Tiếng Việt 2
Lê Phương Nga, Nguyễn Trí
Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội-năm 2006
3. Giáo trình Tiếng Việt 3
Lê A
Nhà xuất bản Đại học sư phạm Hà Nội-năm 2006
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV Tiểu học
Nhà xuất bản Giáo dục-năm 2005
5. Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 (Tập 1 & 2)
8
Nguyễn Minh Thuyết
Nhà xuất bản Giáo dục-năm 2004
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 5 (Tập 1 & 2)
Nguyễn Minh Thuyết
Nhà xuất bản Giáo dục-năm 2004
7. Sổ tay Chính tả Tiếng Việt
Nhà xuất bản từ điển bách khoa.
8. Tạp chí Thế giới trong ta.
Mục lục
Trang
A/ Lí do chọn đề tài…………………………………………………..……...1
I.
II.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc dạy chính tả….…..….. 1
Xuất phát từ thực trạng dạy và học phân mơn Chính tả ………….…..…..2
B/ Nội dung:…………………………………………….……….….. 2
I.
Một số tồn tại trong thực tế……………………………………………..………2
II. Ngun nhân chủ yếu…………………………………………………….………3
III. Một số biện pháp khắc phục lỗi………………………...……………………...3
IV. Kết quả……………………………………………………………………………..6
C/ Bài học kinh nghiệm:. ……………………………………..….…7
9
D/ Kiến nghị:…………………………………………..……….……7
PHỤ LỤC
Phần
Phần ghi
ghi chép
chép của
của học
học
sinh
sinh
Trườ
TrườnnggTiể
Tiểuuhọ
họccLê
LêVă
VănnTá
Tám
m
Huyệ
HuyệnnThố
ThốnnggNhấ
Nhấtt
Tỉnh
TỉnhĐồ
ĐồnnggNai
Nai
10
Một
Một số
số hình
hình ảnh
ảnh
trang
trang trí
trí lớp
lớp học
học
có
có lồng
lồng ghép
ghép quy
quy
tắc
tắc chính
chính ta.û
ta.û
11
k,
gh,
ng
h
i
e
ê
12
Nếu Y
đứng một
mình
Nếu Y
đứng ở
đầu tiếng
Nếu Y
đi sau
âm đệm
/u/
Sử dụng Y
Đa số
dùng
âm L
N láy với
tiếng
không
có âm
đầu
N chỉ láy
với
GI và
KH
Phân biệt
L/N
(Đối với các
từ láy)
13
Ví dụ:
La/na:
Ngoài ra:
- L xuất hiện hầu hết trong các tiếng chứa vần có âm đệm, còn N thì rất ít
La:xuất
la ấm
ĩ, la
la đà,
hét, là làng, la lối, thanh la, bao la, la liệt,…
hiện.
Ví bàn,
dụ: loài,
lũy,laloa,…
Không
trường
hợp từna,…
láy có hai tiếng, một tiếng có âm đầu L và tiếng còn lại có
Na: na ná,- nết
na,có
quả
na, nôm
âm đầu N. Chỉ có trường hợp từ láy âm L và từ láy âm N. Ví dụ: lỏng lẻo, lẳng lặng, nõn nà,
Lửa/nửa:
non nớt…
Lửa: lửa cháy, lửa đạn, dầu lửa, núi lửa, kiến lửa,…
Nửa: nửa buổi, nửa đêm, một nửa, nửa vời,…
Lở/nở:
Lở: lở đất, lở loét, lở mồm long móng, xói lở,…
Nở: nức nở, sinh nở, hoa nở, niểm nở,…
Bạn có biết
cách phân
biệt S/X
không?
- Trong các từ láy vần, đa
số ta dùng X.
- Chỉ có X viết với những
tiếng có âm đệm /o/, /u/.
14
Ví dụ:
Sa/xa:
Sa: sa bàn, sa lầy, sa thải, sa đọa, sương sa, phù sa, sa lưới,…
Xa: xa xôi, sâu xa, xấu xa, xa thẳm, nói xa nói gần, xa xứ, xa lạ,…
Se/xe:
Se: se lạnh, se sẽ, se lòng, …
Xe: xe tải, xe tăng, vé xe, xe kéo, xe máy,…
Sấu/xấu:
Sấu: cá sấu, quả sấu,…
Xấu: xấu bụng, thói xấu, xấu hổ, xấu xí, thời tiết xấu,…
Siêu/xiêu:
Siêu: siêu âm, siêu sao, siêu nhên , siêu sao, siêu phàm,…
Xiêu: xiêu vẹo, xiêu lòng, hồn xiêu phách lạc, xiêu dạt,…
15