Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Biểu tượng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.92 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ THÙY LINHBIỂUTƯỢNG TRONG
TRUYỆN KIỀUCỦA NGUYỄN DUC

huyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số:60 22 01 21LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học:PGS. TS Trần Nho Thìn
Hà Nội –2016


MỤC LỤC
PHẦN MỞĐẦU........................................................................................................4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀCHUNG................................................................11
1.1 Khái lược vềbiểutượng..............................................................................11
1.1.1 Khái niệm biểu
tượng..............................................................................................11
1.1.2 Một sốquan niệm vềbiểu
tượng.......................................................................13
1.1.3 Đặc trưng của biểu
tượng......................................................................................17
1.1.4 Biểu tượng trong văn học nghệthuật -một loại hình đặc biệt...........191
.2 Cuộc đời và thời đại Nguyễn Du...............Error! Bookmark not defined.
1.2.1 Cuộc đời.............................................................Error! Bookmark not defined.
1.2.2 Thời đại..............................................................Error! Bookmark not defined.
1.3 Khái quát vềTruyện Kiều..........................Error! Bookmark not defined.
1.3.1 Nguồn gốc Truyện Kiều.............................Error! Bookmark not defined.
1.3.2 Hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều..............Error! Bookmark not defined.
1.3.3 Đặc trưng thểloại.........................................Error! Bookmark not defined.


1.3.4 Đặc trưng bút pháp trung đại.................Error! Bookmark not defined.Tiểu kết
chương 1:.............................................Error! Bookmark not defined.
Chương 2: CÁC LOẠI BIỂU TƯỢNG TRONG TRUYỆN KIỀUCỦA
NGUYỄN DU..........................................................................Error! Bookmark not
defined.
2.1 Biểu tượng diễn tảthân phận của con người trong xã hội phong
kiến................................................................................Error! Bookmark not
defined.


2.1.1 Biểu tượng “bèo”, “cánh bèo”, “bèo bọt”, “bèo mây”.......................Error!
Bookmark not defined.
2.1.2 Biểu tượng dây cát, sắn bìm, cát đằng , đằng laError! Bookmark not defined.
2.1.3Biểu tượng con ong, cái kiến, thân lươnError!

Bookmark

not defined.

2.1.4 Biểu tượng “hoa”...........................................Error! Bookmark not defined.
2.2 Các biểu tượng diễn tảxã hội....................Error! Bookmark not defined.
2.2.1 Biểu tượng nắng mưa.................................Error! Bookmark not defined.
2.2.2Biểu tượng gió mưa.....................................Error! Bookmark not defined.
2.2.3 Biểu tượng sông nước...............................Error! Bookmark not defined.
2.2.4 Biểu tượng biển(bể)....................................Error! Bookmark not defined.
2.2.5 Biểu tượng sóng............................................Error! Bookmark not
defined.2.2.6Biểu tượngcát................................................Error! Bookmark not
defined.
2.2.7 Biểu tượng tuyết sương.............................Error! Bookmark not defined.
2.2.8 Biểutượng nghệthuật bụi, bụi hồng, bụi trần, hồng trần; phong

trầnError! Bookmark not defined.
2.2.9Biểu tượng miệng hùm nọc rắn.............Error! Bookmark not defined.
2.2.10 Biểu tượng địa ngục..................................Error! Bookmark not defined.Tiểu
kết chương 2:.............................................Error! Bookmark not defined.
Chương 3:NGHỆTHUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG NGHỆTHUẬT TRONG
TRUYỆNKIỀUCỦA NGUYỄN DU......................Error! Bookmark not defined.
3.1 Phân loại các nhóm chất liệu tạo biểu tượng trong Truyện Kiềucủa Nguyễn
Du............................................................Error! Bookmark not defined.
3.2 Tính hệthống của biểu tượng nghệthuật trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du............................................................Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Mối quan hệtrong quan sát thực tếvà nghĩa biểu tượng và Mối quan hệgiữa
các biểu tượngtrong Truyện Kiều của Nguyễn Du.....................Error! Bookmarknot
defined.


3.3 Sựvận động của hệthống biểu tượng nghệthuật trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du..............................................Error! Bookmark not defined.
3.4 Nghệthuật sửdụng ngôn ngữ...................Error! Bookmark not defined.
3.4.1 Biểu tượng nghệthuật được xây dựng bằng hệthống ngôn ngữđộc đáoError!
Bookmark not defined.
3.4.2Xây dựng các biểu tượng nghệthuật trên cơ sởẩn dụ..................Error!
Bookmark not defined.
Tiểu kết chương 3:.............................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN............................................................Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................................24
PHỤLỤC...............................................................Error! Bookmark not defined

4
PHẦN MỞĐẦU



1.Lýdo chọn đềtàiNghiên cứu biểu tượng ngày càng thu hút nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nghiên cứu biểu tượng
văn học chiếm một phần quan trọng. Khi nghiên cứu thơ ca người ta không thể bỏ
qua nghiên cứu về hệ thống biểu tượng trong tác phẩm. Bởi các biểu tượng nghệ
thuật ấy có vị trí to lớn trong việc giúp người nghiên cứu dễ dàng tiếp cận với tác
phẩm, dễ dàng nắm bắt thế giới nghệ thuật của nhà văn, và tất nhiên cũng sẽ dễ
dàng hiểu một cách hoàn chỉnh nhất về thông điệp mà tác giả muốn gửi đến. Từ
đó, người nghiên cứu còn hiểu thêm về phong cách của tác giả, về nét văn hóa đặc
trưng của đất nước, của dân tộc. Chính vì vậy, để nhìn nhận đúng đắn và có cơ sở
khoa học về giá trị của tác phẩm và vai trò của nhà văn trong nền văn học dân tộc
rất cần sự khảo sát, đánh giá, phân tích cấu trúc biểu tượng trong các tác phẩm thơ
ca. Và trong những năm gần đây, vấn đề biểu tượng nghệ thuật, cấu trúc biểu
tượng trong tác phẩm văn chương đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều học giả
trong và ngoài nước quan tâm. Với tư cách là một tín hiệu của thời gian, biểu
tượng nghệ thuật mang truyền thống văn hóa của dân tộc, nối kết nhân loại và gắn
liền với phong cách nhà văn. Trong văn học biểu tượng xuất hiện như một tất yếu
của tư duy sáng tạo, thủ pháp nghệ thuật và khơi gợi những ý nghĩa sâu xa. Tuy ở
Việt Nam công việc nghiên cứu biểu tượng trong thơ ca chỉ mớibắt đầu nhưng đã
hứa hẹn nhiều triển vọng.1.Trong nền thơ ca Việt Nam thế kỉ XVIII, Nguyễn Du là
nhà thơ tiêu biểu và có nhiều đóng góp đáng kể. Khó mà mô tả đầy đủ những đóng
góp của Nguyễn Du trên phương diện nghệ thuật đối với nền văn học dân tộc. Vì ở
mỗi góc nhìn lại có thể chỉ ra điểm này điểm khác. Nếu ta coi yếu tố nghệ thuật
gắn liền với quan niệm về thế giới, về con người thì có thể tập trung vào hai vấn đề
chính yếu: đó là
5yếu tố trữ tình, với những khám phá, biểu hiện nội tâm, cảm xúc mới mẻtrong thơ
chữHán, còn với Truyện Kiều, đó là mô hình tự sự của thơ Nôm nhấn mạnh chủ
nghĩa trữ tình, xu hướng khám phá phép biện chứng của tâm hồn. Trong Truyện
Kiều, chúng ta thấy có những hình ảnh xuất hiện nhiều lần, mang giá trị tượng

trưng và trở thành chìa khóa mã hóa thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Những hình
ảnh thực đó của đời sống con người đã đượchiện lên với tất cả các nét chân mộc và
“điêu huyền” của nó, phù hợp với cảm xúc, quan niệm thẩm mỹ, góp phần đem lại
nét riêng, độc đáo của phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Du.2.Nguyễn Du là một


nhà thơ lớn và có nhiều đóng góp cho văn học dân tộc. Thơ của Nguyễn Du thu hút
được sự quan tâm, đánh giá, phê bình của đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu
văn học trong và ngoài nước. Vì thế, từ trước đến nay đãcó nhiều bài trên các sách,
báo, tạp chí, trang website điện tử... viết về sự nghiệp sáng tác thơ văn của Nguyễn
Du. Đa số các bài viết đều làm nổi bật nên những đặc sắc, thành công cả về nội
dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện, đồng thời cũng chỉ ra được vị trí mỗithể
loại thơ chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Du. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu về sự nghiệp thơ văn của ông đã có rất nhiều và mang tính chuyên sâu. Song
việc nghiên cứu Biểu tượng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì vẫn còn là một
đề tàimới, đáng được quan tâm. Chúng tôi, muốn giải mã các hình ảnh biểu tượng
để có được chìa khóa đi vào tác phẩm, khám phá được những mạch ngầm tư tưởng,
những cách tân nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Du. Từ đó, khẳng định đóng góp
quan trọng của ông đối với nền văn học nước nhà trong lĩnh vực thơ ca. 3.Nguyễn
Du là nhà thơ nhân đạo vĩ đại, là tác giả có tài năng nghệ thuật xuất sắc. Có nhiều
cách tiếp cận các giá trị này, trong đó có cách đọc từ góc nhìn ký hiệu học, nghiên
cứu biểu tượng. Mục đích của nghiên cứu biểu tượng là để nhận chân giá trịnhân
đạo và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tìm hiểu Biểu tượng trong Truyện Kiều của
Nguyễn Duvới việc khảo sát, thống kê, giải mã những hình
6ảnh biểu tượng xuất hiện trong Truyện Kiềusẽ giúp chúng ta có cái nhìn bao quát
và toàn diện hơn về giá trị tư tưởng nhân văn, nhất là về cái nhìn về thân phận con
người nói chung và người phụ nữ nói riêng. Hy vọng, đây sẽ là một hướng đi mới,
có triển vọng, đem lại kết quả nghiên cứu khả quan và có giá trị.2.Mục đích và
nhiệm vụnghiên cứu nghiên cứuQua việc thống kê, khảo sát, phân tích, giải mã
biểu tượng nghệ thuật trong Truyện Kiềucủa Nguyễn Du, luận văn hướng tới các

mục đích sau:-Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những biểu tượng
trong Truyện Kiềucủa NguyễnDu, thấy được vai trò của các biểu tượng trong việc
thể hiện nội dung tư tưởng nghệ thuật của Truyện Kiềutrong bối cảnh xã hội Việt
Nam trong thời kỳ phong kiến. -Trên cơ sở đó, góp phần lí giải và phân tích các
yếu tố tạo nên sự độc đáo, sức hấp dẫn và phần đóng góp có giá trị trong Truyện
Kiềucủa Nguyễn Du. Từ đó khẳng định được tài năng, vị trí của nhà thơ đối với
Văn học trung đại Việt Nam.-Với đề tài Biểu tượng trong Truyện Kiều của
Nguyễn Duchúng tôi hướng tới khảo sát, khái quát một số biểu tượng diễn tả thân
phận con người trong xã hội phong kiến và biểu tượng diễn tả xã hội phong kiến
được tác giả sử dụng trong Truyện Kiều.3.Lịch sửnghiên cứu vấn đềNhìn chung,
vấn đề lịch sử nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều đã được nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm. Càng ngày nó càng được sáng tỏ và ngày càng có
nhiều các khuynh hướng nghiên cứu khác nhau. Trong xu hướng nghiên cứu về


biểu tượng hiện nay, một số khóa luận và luận văn bắt đầunghiên cứu về biểu
tượng trong truyện ngắn và thơca của các tác giả như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Huy Thiệp, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ. Bàn về Biểu
tượng trong Truyện Kiềucủa Nguyễn Du được coi là một vấn đề mới
7và hầu như chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào đã làm. Có chăng
chỉ có một số các bài báo, bài nghiên cứu có bàn luậnvề vấn đề này như:Nhà
nghiên cứu GS. TS Trần Nho Thìn là người màcho đến nay có nhiều bài viết nhất
vềBiểu tượng trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Bài viết về Hoa trong Truyện
Kiềuđăng trênwebsite: vanhoanghean.com.vn, ông đã đưa ra những cách hình dung
và ý nghĩa biểu tượng của “hoa”như:biểu tượng cho quan hệ tình cảm nam nữmang
tính chất dục tính (Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng/ Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho
đang).Ông cũng cóđềcập đếnnhững biểu tượng diễn tả thân phận nhỏbé, mong
manh của con người như con ong,cái kiến, thân lươn, dây leo, cánh bèo,hạt
cát...hay biểu tượng về xã hội thù địch với con người, con người bị ném vào vòng
xoáy cuộc đời mà mọi sợi dây liên hệ của con người bị đứt tung (chân trời góc bể,

mặt nước cánh bèo, đất khách quê người...),biểu tượng về xã hội phong kiến như
miệng hùm,nọc rắn...trong cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế
kỷXIX.Những bài viết của ông đã có tính chất gợi mở để chúng tôi thực hiện luận
văn này.Bên cạnh đóphải kểđến cuốn Thi pháp truyện Kiềucủa Trần Đình Sử.
Trong cuốn sách này ông đã chỉ ra những biểu tượng, những mẫu gốc mà Nguyễn
Du dùng để diễn tả không gian lưu lạc và thân phận con người trong không gian
ấy. Ngoài ra, cũng bàn về “hoa” và các ý nghĩa biểu tượng của nó, Thạc sĩ Ngôn
ngữ học Phan Thị Huyền Trang trong bài viết Khả năng liên tưởng nghĩa từ “hoa”
trong Truyện Kiềuđược đăng tải trên website: ngonngu.net, năm 2008. Tác giả bài
viết đã thống kê thấy “hoa” trong Truyện Kiềuxuất hiện tới133 lần, với các ý nghĩa
biểu tượng như: “hoa” -hiện thân cho sự sống, “hoa” -thiên đường nơi mặt đất,
“hoa” -phút giây thoáng chốc, “hoa” -thực thể thụ động, “hoa” -bộ phận cơ thể con
người. Như vậy, đứng từ quan điểm củanhà ngôn ngữ tác giả đã có những phát
hiện đầy lan tỏa của từ “hoa” dưới góc độ ngôn ngữ -văn hóa.
8Trong luận văn Thạc sĩ Một số biểu tượng nghệ thuật trong Truyện Kiều dưới góc
nhìn văn hóa, tác giả Lê Thị Sâm có thống kê ra được một số biểu tượng dùng hình
tượng thiên nhiên như: trời, trăng, gió, nước,cây hoa; một số biểu tượng trong đời
sống như: đồng tiền, ngọn đèn, căn buồng, nước mắt. Đây được coi là đề tài khá
thú vị, tuy nhiên, do hạn chế về sự hiểu biết hay vì lí do gì đó mà tác giả của luận
vănchưa triển khai được hết giá trị của đề tài.Như vậy, khai thác về biểu tượng
trong Truyện Kiềuđã ít nhiều nhận được sự quan tâm và chia sẻ của các tác giả.


Tuy nhiên, để nghiên cứu chi tiết và cụ thể biểu tượng trong Truyện Kiềumang tính
chất hệ thống và toàn diện thì chưa có một công trình nghiên cứu nào. Nhận thấy
tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi cũng muốn góp phần mang đến một hướng
nghiên cứu về biểu tượng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.4.Phương pháp
nghiên cứuĐểlàm sáng tỏmục tiêu của luận văn, chúng tôi sửdụng kết hợp một
sốphương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:4.1 Phương pháp thống kê, phân
loạiĐây là phương pháp đầu tiên và quan trong mà chúng tôi đềcập tới, được

sửdụng xuyên suốt trong luận văn. Sửdụng phương pháp này chúng tôi đãthống kê
sốlần xuất hiện của biểu tượng trong tác phẩm.4.2 Phương pháp nghiên cứu tác
giảvăn họcVới việc tìm hiểu vềcuộc đời và thời đại Nguyễn Du, nguồn gốc và
hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều, đặc trưng của bút pháp trung đại sẽcho thấy ảnh
hưởng của những yếu tốđó đến việc ra đời kiệt tác Truyện Kiều, cụthểlàdẫn đến
việc sửdụng biểu tượng trong Truyện Kiều.4.3 Phương pháp hệthốngSửdụng
phương pháp này tức là đặt biểu tượng trong Truyện Kiềutrong mối quan hệso
sánh với các biểu tượng trong văn học dân gian và văn học bác học.
94.4 Phương pháp ký hiệu họcĐây là phương pháp cơ bản, cũng là phương pháp
chính yếu quan trọng nhất của luận văn này. Thông qua các ký hiệu ngôn ngữ, tức
là thông qua hình thức đểphát hiện, giải mã nội dung mà tác giảmuốn biểu
đạt.5.Đóng góp của luận vănGiải quyết vấn đề Biểu tượng trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, luận văn có một số đóng góp như sau:-Xác định vị trí của biểu tượng
ngôn từ nghệ thuật trong hệ thống biểu tượng văn hóa, biểu tượng nghệ thuật trong
Truyện Kiều.-Xác định được các phạm trù nghĩa biểu trưng đặc thù của các hệ biểu
tượng trong Truyện Kiều đồng thời thấy được sự luân chuyển, thay đổi nghĩa của
các biểu tượng do sự tác động của từng hoàn cảnh cụ thể. Chúng tôi, đưa ra lí giải
biểu tượng khôngphải là một yếu tố bất biến, một hằng thể, chứa đựng một hoặc
một số ý nghĩa đã quá quen thuộc mà như là một yếu tố khả biến trong quan hệ
giữa những hướng nghĩa biểu trưng mang tính khái quát và sự triển khai các biến
thể ý nghĩa của các biểu tượng.-Về mặt lí luận, hướng nghiên cứu của luận văn tập
trung nghiên cứu về Biểu tượng trong Truyện Kiều của Nguyễn Dunhưng có thể
vận dụng hướng nghiên cứu này để tìm hiểu các hệ biểu tượng nghệ thuật và biểu
tượng thơ ca nói chung.Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị thực tiễn trong
việc giảng dạy, tìm hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Dutrên phương diện tích hợp
(nội dung, nghệ thuật, văn hóa, ngôn ngữ, văn học).6.Cấu trúc luận vănNgoài phần
Mởđầu,
Kết luận, luận văn bao gồm trang và được chia thành 3 chương chính:
Chương 1: Khái lược về biểu tượng và cuộc đời sự nghiệp Nguyễn Du



Chương 2: Các loạibiểu tượng trong Truyện Kiềucủa Nguyễn Du
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng biểutượng nghệ thuật trong Truyện Kiềucủa
Nguyễn Du

Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀCHUNG1.1 Khái lược về biểu tượng1.1.1 Khái
niệmbiểu tượngKhoa học nghiên cứu về biểu tượng đang ngày càng thu hút được
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu ở các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Theo
Đinh Hồng Hải trong bài viết về Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng từ ký
hiệu học đến nhân học biểu tượng (phần 1): “Khoa học xã hội nói chung và khoa
học nghiên cứu biểu tượng nói riêng đã được du nhập vào Việt Nam từ hơn 100
năm qua theo hướng tiếp cận hàn lâm của phương Tây. Cho đến nay các nhà


nghiên cứu khoa học xã hội trên bình diện văn bản học(như văn học, sử học, triết
học, ngôn ngữ học...) đã đạt được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu biểu
tượng như(ký hiệu học, nhân học biểu tượng...)dường như vẫn đang là mảnh đất
còn bỏ trống với số lượng các côngtrình nghiên cứu đếm trên đầu ngón tay”[37,1].
Để hiểu rõ hơn về khái niệm biểu tượng chúng tôi xin mượn lời của thạc sĩ Đoàn
thị Hồng Sương :“Biểu tượng là một phần quan trọng không thể thiếu trong đời
sống tinh thần nhân loại. Ngày nay, nghiên cứu biểu tượng đã và đang trở thành
lĩnh vực được nhiều nhà khoa học ở nhiều ngành khác nhau đặc biệt quan tâm. Thế
giới biểu tượng nói chung góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát
triển của một cộng đồng, một dân tộc. Biểu tượng mang lại những đặc sắc về văn
hóa cho mỗi quốc gia. Mỗi một nền văn hóa trên thế giới này đều là sự tổng hòa
của các hệ thống biểu tượng. Jean Chevalier, tác giả của Từ điển Biểu tượng văn
hóa thế giớitừng nhận xét rằng: “Nói chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng
thì vẫn còn chưa đủ, phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta”. Như
thế, vai trò
12của biểu tượng đã được đánh giá khá chính xác với những gì chúng đóng góp

trong đời sống của con người. Việc đi sâu vào thế giới biểu tượng và mối quan hệ
của biểutượng với đời sống con người là một trong những phương thức giúp con
người nhận ra giá trị của chính mình trong vũ trụ. Thế giới biểu tượng vẫn còn là
một thế giới đầy kì ảo, mê hoặc và luôn có sức hấp dẫn đặc biệt. Tiếp cận và lý giải
nó là mong muốn củanhân loại trên con đường đi đến tươnglai”[98, 12]Vậy Biểu
tượng là gì? “Biểu tượng, theo tiếng Hán, biểu là bày ra, trình bày; tượng là hình
ảnh, hình dạng. Biểu tượng là một hình ảnh cụ thể được bày ra, được thể hiện để
nhằm biểu thị một ý nghĩa trừu tượng. Thuật ngữ chỉ biểu tượng trong tiếng Anh là
symbol có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là symbollon (có nghĩa là kí hiệu, dấu hiệu
để nhận ra nhau là một).Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành
khoa học sử dụng với những nội hàm khác nhau. Từ xa xưa, biểu tượng đã được
dùng để chỉ một vật được cắt, tách ra làm đôi (thường là mảnh sứ, gỗ hoặc kim
loại). Mỗi mảnh này được giữ bởi hai người (chủ -tớ, người cho vay -người
vay,tình nhân, chồng -vợ, ...). Sau này, khi hai mảnh vỡ ấy có cơ hội ráp lại với
nhau thì họ sẽ nhận ra mối quan hệ cũ. Như vậy biểu tượng chia ra và kết lại với
nhau chứa đựng hai ý tưởng phân li và tái hợp. Điều này cũng đồng nghĩa rằng mọi
biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ[98,12].Như vậy mọi biểu tượng luôn
hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp, chính điều này tạo nên tính biến ảo trong
ý nghĩa củabiểu tượng, khiến cho tư duy của ta luôn phải vận động truy tìm, liên
tưởng để thấy được ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong lòng nó. Sau này, khi khoa học về
biểu tượng được hình thành và phát triển hơn thì có rất nhiều quan điểm khác nhau


được đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng, mối quan hệ và vai trò của
biểu tượng trong đời sống của con người. Sau đây, xin dẫn một vài ý kiến, nhận
định của các nhà nghiên cứu:Theo Từ điển Laroussecho rằng: “Biểu tượng là một
dấu hiệu hình ảnh, bằng
13con vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình
ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó”. Còn trong Dịch thuyết cương
lĩnhcủa Chu Hy, nhà triết học đời Tống thì giải thích về khái niệm biểu tượng như

sau: “Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia”, tức là dùng cái “có thể hiểu biết” để
nói lên điều “khó có thể hiểu biết”, hay dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng
cái tĩnh để nói cái động,dùng cái hữuhình để nói cái vô hình.Theo phân tâm học
Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra,
niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống nhất nội dung
rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng ...
Tóm lại, các ý kiến trên ít nhiều đều có sự khác nhau, song về cơ bản, tất cả đều
chỉ ra rằng, biểu tượng nằm ở lớp bên trong, đằng sau, bên ngoài đối tượng mà ta
nói đến. Hay là cách thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa nọ, hay là dùng một
hình ảnh cụ thể để biểu đạt một ý niệm trừu tượng. Như vậy biểu tượng phải có
một ý nghĩa rộng lớn hơn, ý nghĩa tượng trưng, bên ngoài chính bản thân nó. Nói
cụ thể hơn biểu tượng là sự thống nhất của hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu
đạt. Cái biểu đạt có thể là một sự vật, một hiện tượng, một hình ảnh,... cụ thể trong
hiện thực khách quan hoặc trong tưởng tượng của con người. Cái biểu đạt nhằm
mục đích thể hiện cái được biểu đạt, tức là thể hiện những suy nghĩ, tâm tư,tình
cảm của con người về cuộc sống, xã hội, thế giới (có thể đang xảy ra hoặc đã xảy
ra nhưng còn ăn sâu trong đời sống tâm hồn conngười).1.1.2 Một số quan niệm về
biểu tượng1.1.2.1 Biểu tượng dưới góc độ triết họcTheo Từ điển triết học: “Biểu
tượnglà hình ảnh trực quan -cảm tính, khái quát về các sự vật và hiện tượng của
hiện thực, được giữ lại và tái tạo lại trong ý
14thức và không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật và các hiện tượng
đến giác quan” [113,98].Nhà triết học người Đức Friedch Hegel, khi bàn về biểu
tượng đã cho rằng: “Biểu tượng là sự vật bên ngoài, một dẫn liệu trực tiếp nói
thẳng với trực giác chúng ta. Tuy vậy, sự vật này không phải được lựa chọn và
chấp nhận như nó tồn tại trong thực tế, vì bản thân nó. Trái lại, nó được chấp nhận
với một ý nghĩa rộng lớn hơn và khái quát hơn nhiều. Do đó, phải phân biệt trong
biểu tượng hai yếu tố: “ý nghĩa và biểu hiện. Ý nghĩa là sự gắn liền với một biểu
tượng hay một số sự vật cho dù nội dung của biểu hiện này hay sự vật này là cái gì.
Còn sự biểu hiện là một tồn tại cảm quan hay một hình ảnh nào đó” [43,46].Như



vậy, nhìn từ góc độ triết học, biểu tượng thuộc về giai đoạn tiền ý thức, nó xuất
phát từ hiện thực khách quan và được tái tạo lại trong đầu óc con người. Với cách
hiểu như vậy, tất cả các sự vật tồn tại trong thế giới khách quan sẽ trở thành biểu
tượng khi được con người tiếp nhận theo ý thức chủ quan của mình. Vì thế, mỗi
người sẽ có thế giới biểu tượng của riêng mình. Thế giới biểu tượng ấy có phong
phú hay không còn phụ thuộc vào môi trường sống, năng lực hoạt động cá nhân
trong việc chiếm lĩnh, thâm nhập vào thế giới xung quanh. 1.1.2.2 Biểu tượng từ
góc độ tâm lí họcTheo Từ điển Tiếng Việt: “Biểu tượng là một hiện tượng tâm sinh
lí do một số sự việc ở ngoại giới tácđộng vào giác quan khiến ý thức nhận biết
được sự vật, kích thước hoặc nhìn thấy hình ảnh của nó trở lại trong trí tuệ hay ý
thức” [90,67]. Như vậy, nhìn từ góc độ tâm lí, biểu tượng chỉ có thể xuất hiện khi
có những sự vật, sự việc ở ngoại giới tác độngvào giác quan của con người và nó là
hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan: “Biểu tượng là hình
thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn lưu giữ lại
trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quanta đã chấm dứt” [90,64] .
Với đặc điểm như vậy, biểu tượng luôn gắn liền với trí tưởng tượng của con người:
15“Biểu tượng của tưởng tượng là một hình ảnh mới, được xây dựng từ những
biểu tượng của trí nhớ, nó là biểu tượng của biểu tượng” [43,12]; và nó cóthể
chuyển hóa thành biểu tượng trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là ở thể loại thơ
ca.1.1.2.3 Biểu tượng từ góc độ văn hóaMỗi một nền văn hóa được cấu thành bởi
nhiều yếu tố khác nhau và một trong những yếu tố đó chính là biểu tượng. Trong
cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nhiều tác giả cho rằng: “Mọi nền văn
hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng trong đó xếp hàng
đầu là ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn
giáo... ”. Với cách hiểu nhưvậy, biểu tượng chính là một trong những cơ sở để xác
định đặc trưng của một nền văn hóa cũng như mối quan hệ của các nền văn hóa với
nhau.Ngoài những đặc điểm trên đây, ta thấy mỗi nền văn hóa khác nhau thì hệ
thống biểu tượng cũng khác nhau, do đó biểutượng dưới góc nhìn văn hóa còn
mang tính ổn định tương đối. Như ta đã biết, cấp độ đầu tiên của biểu tượng là

“mẫu gốc”. Khi đi vào đời sống văn hóa, mỗi mẫu gốc có thể sản sinh ra những
biểu tượng văn hóa khác nhau như trong thần thoại, truyền thuyết, lễ nghi, phong
tục tập quán. Vì vậy, biểu tượng dưới góc nhìn văn hóa luôn mang đậm hơi thở của
dân tộc, của thời đại.1.1.2.4 Biểu tượng từ góc độ ngôn ngữTheo các nhà ngôn
ngữhọc thì “Biểu tượng là một kí hiệu tùy thuộc vào đối tượng mà nó biểu hiện
do một luật lệthông thường là một sựliên tưởng chung”(Theo S. X. Pocxo,
Dẫn theo Trần Ngọc Thêm -Cơ sởvăn hóa Việt Nam). F. Saussure cho rằng:
“Biểu tượng không hoàn toàn võ đoán, nó không phải cái trống rỗng”, đồng thời


ôngcũng thừa nhận biểu tượng thuộc vào năng lực cá nhân nhưng luôn luôn chứa
đựng một nội dung nhất định được khái quát và chưng cất từthực tiễn. Do vậy,
nhìn từgóc độngôn ngữhọc, biểu tượng là một sựvật có hình ảnh mang tính chất
thông điệp được dùng đểgợi ra một cái ởbên ngoài, theo một quan
16hệước lệ, quan hệliên tưởng, tưởng tượng và tính ước lệgiữa cái biểu đạt và cái
được biểu đạt trong biểu tượng là cơ sởđểtạo nên tính đa nghĩa cho biểu
tượng.1.1.2.5 Biểu tượng từ góc độ văn họcNhìn từ góc độ văn học, có rất nhiều
cáchhiểu về biểu tượng, tựu chung lại có những cách hiểu như sau:Văn học là nghệ
thuật ngôn từ mà đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ phản ánh hiện thực đời sống,
thể hiện tư tưởng tình cảm của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Muốn
làm được như vậy, nhà văn phải mã hóa ngôn từ, tạo ra một hình thức “lạ hóa”
nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo và xuất
hiện những hình ảnh, hình tượng nghệ thuật có giá trị. Những hình ảnh, hình tượng
nghệ thuật này ra đời có sức sống sẽvượt lên ý nghĩa biểu đạt và làm thành biểu
tượng nghệ thuật đa nghĩa trong văn học. Quan niệm này đề cập đến vấn đề biểu
tượng gắn với những hình ảnh, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Tuy
nhiên, ở đây chúng ta cần chú ý đến tính đa nghĩa củabiểu tượng trong văn học vì
đối lập với tư duy suy lý đơn nghĩa là một đặc trưng của tư duy nghệ thuật, nó còn
phản ánh những mối quan hệ phong phú và sinh động của văn học hiện thực.Các
nhà nghiên cứu lí luận văn học cho rằng: “Biểu tượng là phương tiệntạo hình và

biểu đạt” có tính đa nghĩa trong tác phẩm văn học. Trong lĩnh vực thơ ca, biểu
tượng chính là một trong những phương tiện biểu đạt có hiệu quả. M. Bakhin đã
coi biểu tượng chính là đặc trưng khu biệt quan trọng nhất của các tác phẩm trữ
tình với tiểu thuyết: “Chính sự vận động của biểu tượng thi ca sẽ giả định phải có
một ngôn ngữ thống nhất, tương hợp trực tiếp với đối tượng của mình”
[81,54].Như vậy, trong văn học dù được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau
nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến vai trò, giá trị khái quát và
tượng trưng của biểu tượng, đồng thời nêu bật tính đa nghĩa của biểu tượng trong
tác phẩm văn học.
171.1.3Đặc trưng của biểu tượngỞ trên, chúng ta đã tìm hiểu nhiều cách hiểu nhiều
khía cạnh khác nhau về biểutượng. Trong giới hạn luận văn, chúng tôi tiếp thu
cách hiểu của TS. Nguyễn Thị Ngân Hoa: “Theo nghĩa rộng nhất, khái niệm biểu
tượng dùng để chỉ một thực thể gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện thực
khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và mặt ý
nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng không bịrút
gọn những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được biểu trưng) [48,15]. Căn


cứ vào khái niệm này, chúng ta có thể xác định được một sốđặc trưng cơ bản về
biểu tượng như sau:Thứ nhất, là mối quan hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu
trưng củabiểu tượng “mang tính lí do, tính tất yếu”. Chẳng hạn “dòng sông”là một
biểu tượng thuộc hệ biểu tượng nước trong văn hóa nhân loại bởi những đặc điểm
bản thể mang tính vật chất của thực thể này như nguồn nước, dòng chảy liên tục...
Và các ý nghĩa mà con người có thể liên tưởng từ thực thể thiên nhiên này như
dòng chảy của thời gian, dòng chảy của cuộc đời, nguồn sống, nguồn chết, sức
mạnh thanhtẩy, khảnăng tái sinh... có một mối quan hệ nội tại, tất yếu. Như vậy, ở
biểu tượng, giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt luôn tồn tại mối quan hệ với bản
chất. Chính mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu
tượng là điểm chú yếu để phân biệt biểu tượng với các tín hiệu quy ước thuần túy
đúng như J. Chevailler đã chỉ ra rằng: “Biểu tượng cơ bản khácvới dấu hiệu là một

quy ước tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa một năng lực
năng động tổ chức”[62, 420].Thứ hai là, khác với các dấu hiệu, kí hiệu thông
thường luôn mang tính đơn trị thì biểu tượng lại luôn mang tính đa trị bởi trong
mối quan hệ giữa hai mặt của biểu tượng, cái được biểu trưng “không bị rút gọn
trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này” [62,413]. Nếu như các kí hiệu,
dấu hiệu thông thường, tỉ lệ
18giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là 1:1 (một cái biểu đạt, một cái được biểu
đạt) thì dung lượng giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng trong biểu tượng
không phải là tỉ lệ 1:1, “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái được
biểu đạt, hoặc giản đơn hơn......cái được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu
đạt”[62,414], hay nói cách khác, trong biểu tượng có sự “không thích hợp giữa tồn
tại và hình thức...sự ứ tràn của nội dungra ngoài hình thức biểu đạt của nó”
[62,417].Thứ ba là, theo TS. Nguyễn Thị Ngân Hoa, biểu tượng còn có một đặc
trưng nữa là tính sản sinh: “Biểu tượng khác cơ bản với các dấu hiệu, kí hiệu khác
(kể cả ngôn ngữ tự nhiên) ở chỗ, ngoài chức năng thay thế,chức năng biểu hiện,
chức năng giao tiếp, chức năng quan trọng nhất của biểu tượng là chức năng thẩm
mỹ: sản sinh ra các hình tượng nghệ thuật” [48, 17]. Con đường sản sinh của biểu
tượng ngôn ngữ bắt đầu từ “mẫu gốc” hay còn gọi là “nguyên mẫu”, “nguyên hình
huyền thoại”, “nguyên sơ tượng” hay “siêu mẫu”. Trong thực tế cuộc sống “bản
tổng kết đã được công thức hóa của khối kinh nghiệm to lớn của các thế hệ tổ tiên”
có thể đi vào đời sống văn hóa và đời sống nghệ thuật. Khi đi vào đời sống văn
hóa, mỗi mẫugốc có thể sản sinh ra nhiều biểu tượng văn hóa khác nhau mà “dấu
vết của nó có thể được tìm thấy trong các thần thoại, truyền thuyết, nghi lễ, phong
tục” [48,20]. Còn khi đi vào nghệ thuật, từ một mẫu gốc, một biểu tượng gốc sẽ
sản sinh ra các biến thể loại hình. Văn học là nghệ thuật ngôn từ nên cũng không


nằm ngoài quy luật đó. Chẳng hạn như biểu tượng “nước” nhưng khi đi vào trong
các tác phẩm thơ nó sẽ sản sinh ra các biến thể loại hình như: dòng sông, biển,
suối, mưa, sương, sóng, thác...Trong các loại hình nghệ thuật ngôn từ, biểu tượng

bắt buộc phải rời xa đời sống, nguyên khởi của nó để khoác lấy cái vỏ âm thanh
ngôn ngữ. Để giải mã một biểu tượng nghệ thuật, hoặc cảm thụ một tác phẩm giàu
tính biểu tượng, chúng ta cần hiểu rõ: tư duy biểu tượng luôn đối nghịch với tư duy
khoa học, không vận hành “theo lối rút gọn từ cái bội đến cái đơn mà bằng lối
bùng nổ từ cái đơn đến cái bội” [48, 19]. Vì vậy, con đường giải mã biểu tượng

trong tác phẩm văn học sẽ phải đi từ cái cụ thể như ngôn từ, các thủ pháp nghệ
thuật... để tìm ra những cái hàm ẩn đằng sau những biểu tượng ngôn từ.Như vậy, từ
những đặc trưng cơ bản của biểu tượng ta thấy giải mã biểu tượng chính là con
đường để tiếp cận những giá trị đích thực của một tác phẩm văn học.1.1.4Biểu
tượng trong văn họcnghệ thuật -một loại hình đặc biệt1.1.4.1 Tính thống nhất giữa
các biểu tượng và hình tượngVăn học là hình thức nghệ thuật bằng ngôn từ, nó
phản ánh hiện thực cuộc sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người thông qua
các hình tượng nghệ thuật. Bên cạnh đó, sức sống của tác phẩm văn học, tính đa
nghĩa của một tác phẩm văn học một phần là nhờ các biểu tượng nghệ thuật. Vậy
hình tượng và biểu tượng khác nhau và có mối quan hệ với nhau ra sao?Hình
tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù của nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống
một cách sáng tạo, bằng những hình thức sinh động, cảm tính, cụ thể như bản thân
đời sống, thông qua đó nhằm lí giải, khái quát về đời sống, gắn liền với một ý


nghĩa tư tưởng, cảm xúc nhất định, xuất phát từ lí tưởng thẩmmỹ của người nghệ
sĩ. Mỗi hình tượng nghệ thuật là một tế bào làm nên tác phẩm nghệ thuật, trong đó
chứa đựng nội dung cuộc sống, những thông tin về đời sống, những quan niệm,
cảm xúc của tác giả. Còn biểu tượng, theo TS. Nguyễn Thị Ngân Hoa: “Theo nghĩa
rộng nhất, khái niệm biểu tượng dùng để chỉ một thực thể gồm hai mặt: mặt tồn tại
cảm tính trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái
biểu trưng) và mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính
đó nhưng không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự vật tồn tại này (cái
được biểu trưng)” [48, 15].Để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa hình tượng và biểu

tượng chúng tôi xin đưa ra ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Văn Hậu trong bài viết
vềTính hình tượng và tính
20biểu tượng trong tác phẩm văn hóa-nghệ thuật: “Biểu tượng và hình tượng là hai
mặt biểu hiện tồn tại trong cùng một tác phẩm thuộc phạm trù nghệ thuật. Chúng
có mối tương quan và gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành nên một
tác phẩm nghệ thuật. Dưới góc độ nghệ thuật thì biểu tượng được xem là một dạng
chuyển nghĩa trong ngôn từ nghệ thuật và là một phạm trù thẩm mỹ. Nó được xác
lập bởi hai yếutố cơ bản: một bên là hình tượng nghệ thuật (kí hiệu biểu thị), một
bên thuộc về nghĩa bóng (kí hiệu ẩn dụ). Biểu tượng là hình tượng được hiểu ở
bình diện kí hiệu và phải là một kí hiệu hàm nghĩa (đa nghĩa). Như vậy, mọi biểu
tượng trước hết phải là hình tượng (kí hiệu biểu thị), và mọi hình tượng đều có thể
trởthành biểu tượng (kí hiệu hàm nghĩa).Phạm trù biểu tượng nhằm chỉ cái phần
mà hình tượng vượt khỏi chính bản thân nó (kí hiệu hiển ngôn) và luôn hàm chứa
những ý nghĩa mang giá trị trừu tượng (kí hiệu mật ngôn)” [42, 3].Trong bài viết
này tác giả đã dẫn giải những ý kiến của các nhà nghiên cứu khác để làm rõ nhận
định của mình. Như C. G. Jung cho rằng: “Biểu tượng không phải là một phúng
dụ, cũng chẳng phải là một kí hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích
hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh”. Henry
Corbin cũng nhận định như sau: “Biểu tượng báo hiệu một bình diện ý thức khác
nhau với cái hiển nhiên lí tính; nó là “mật mã” của một bí ẩn, là cách duy nhất để
nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác, nó không bao giờ có thể cắt
nghĩa được một lần là xong mà cứ phải “giải mã” lại mãi, cũng giống như một bản
nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi mỗi lần biểu diễn đều phải
phát hiện ra cái mới”. Theo TS. Nguyễn Thị Ngân Hoa: “Biểu tượng văn hóa, biểu
tượng nghệ thuật, biểu tượng nghệ thuật thơ ca trong những tác phẩm nhất định,
phải được tổ chức lại thành các hình tượng với chất liệu đặc trưng cho từng ngành
nghệ thuật” [48, 17]. Và cuối cùng, qua tất cả những phân tích và dẫn giải trên,TS.


Nguyễn Văn Hậu đã đưa ra những kết luận về mối liên hệ giữa tính hình tượng và

tính biểu tượng của một tác phẩm nghệ thuật như sau: “Tóm lại, sự
21thống nhất giữa hai bình diện của một tác phẩm nghệ thuật -hình tượng nghệ
thuật và hàm nghĩa của nó -có thể hoặc là đương nhiên, sẽ dẫn đếnsự hình thành
biểu tượng (hoặc là ẩn kín, hoặc là bộc lộ). Ở mức giới hạn của quá trình sáng tạo
nghệ thuật, mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật như: ẩn dụ, phóng dụ, tỉ dụ, ngụ
ngôn, các chi tiết nghệ thuật, hình tượng nhân vật, ngôn từ... đều trở thành biểu
tượng. Song, quá trình biểu tượng hóa có được thực hiện hay không là còn tùy
thuộc vào các điều kiện sau như: độ đậm đặc mang tính khái quát cao trong tác
phẩm nghệ thuật; ý đồ của tác giả có muốn hướng tới sự biểu tượng hóa trong tác
phẩm hay không; văn cảnh tác phẩm, khí nghĩa hàm của các hình tượng tự bộc lộ,
không theo ý định của tác giả mà điều này còn bị quy định bởi logic tâm lí của
tuyến nhân vật và sự phát triển về mặt tình huống trong tác phẩm; văn cảnh văn
học -nghệ thuật được quy định bởi thời đại và văn hóa, tức là lịch sử và tính nghệ
thuật trong tác phẩm.Có thể nói, biểu tượng là hình ảnh tượng trưng mang tính chất
thông điệp được sử dụng trong tác phẩm nghệ thuật nhằm chỉ ra một ý nghĩa nào
đó, theo một quan hệ ước lệ giữa sự vật trong thôngđiệp và sự vật ngoài nó. Biểu
tượng có hai mặt: “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt”.Hai mặt này được kết hợp
theo sự liên tưởng và theo một quan hệ ước lệ nào đó. Biểu tượng bao giờ cũng có:
tính chất biểu hiện một cái gì bằng sự vật có hình ảnh; đại diện cho một cái gì đó,
nhằm gợi lên một cái gì theo liên tưởng; tính ước lệ; mã (kí hiệu) và biểu hiện
những giá trị mang tính nhân văn.Về mặt chức năng, biểu tượng còn mang tính
thay thế (vật môi giới). Biểu tượng không những thay thế cho các đối tượng hiện
thực, mà còn thay thế tất cả quá trình, cả hình tượng, ý niệm của con người. Chức
năng thay thế là một trong những đặc điểm của biểu tượng. Bên cạnh đó, nó còn có
những thuộc tính và chức năng khác như: chức năng giáo dục, liên kết, dự báo,
giao tiếp,thông tin...Quá trình thay thế trong lĩnh vực nghệ thuật thường diễn ra
một cách ước lệ và ẩn dụ,
22để nói lên một giá trị, một tư tưởng nào đó của con người. Cũng như hình tượng
nghệ thuật, biểu tượng cũng mang tính khái quát cao về các hiện tượng của
đờisống. Điều đó đã dẫn đến sự gần gũi với hình tượng nghệ thuật”[42,3].Dựa trên

tất cả những phân tích rất sâu sắc của TS. Nguyễn Văn Hậu ta đưa ra kết luận:
“Biểu tượng và hình tượng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá
trình hình thành một tác phẩm nghệ thuật. mọi biểu tượng trước hết phải là hình
tượng (kí hiệu biểu thị), và mọi hình tượng đều có thể trở thành biểu tượng (kí hiệu
hàm nghĩa).Biểu tượng là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu và phải là một


kí hiệu hàm nghĩa (đa nghĩa)” [42,3]1.1.4.2 Những yếu tố khác biệt giữa hình
tượng và biểu tượngỞtrên ta đã xem xét tính hình tượng và tính biểu tượng trên
phương diện có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thì sau đây ta sẽ đi xem xét tính
hình tượng và biểu ở những yếu tố khác biệt.TS.Nguyễn Văn Hậu trong bài viết
như ta đã đề cập ở phần trên cũng đã có những phân tích rất sâu sắc và rõ nét về sự
khác biệt giữa hình tượng và biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật : “Xét bên
ngoài hình tượng và biểu tượng ít có sự khác biệt. Biểu tượng tuy có sự tác động
tương tác với hình tượng nhưng không đồng nhất hoàn toàn với hình tượng và
không phải mọi hình tượng đều trở thành biểu tượng. Có thể nói hình tượng là một
kí hiệu thông thường, còn biểu tượng lại là một loại siêu kí hiệu. Nhìn chung,hình
tượng và “nghĩa hàm” (đa nghĩa) là hai cực không tách rời nhau của một biểu
tượng. Bởi lẽ, tách khỏi hình tượng thì ý nghĩa sẽ mất tính biểu hiện, mà tách khỏi
ý nghĩa thì hình tượng sẽ bị phân rã trở thành hình tượng thông thường, không còn
là biểu tượng”[42,5].Do vậy, một hình tượng nghệ thuật chỉ dừng lại ở tính đơn
nghĩa, chưa có sự hàm nghĩa để trở thành một biểu tượng, thì đó chỉ là một hình
tượng đơn thuần nghèo nàn về nội dung, kém về tính thẩm mỹ. Nó có thể gây xúc
động trong lòng người cảm thụ và sẽ mai một, không tồn tại lâu dài mãi với thời
gian. Chẳng hạn, hình tượng Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của
Nam Cao nếu thiếu
23“bát cháo hành” thì tác phẩm sẽ thiếu đi mất tính biểu tượng (giá trị nhân văn),
mà chỉ còn lại tính biểu tượng (giá trị nghệ thuật). Hai nhân vật nói trên là hai hình
tượng điển hình của tác phẩm, mang tính chất đơn nghĩa.Biểu tượng khác với hình
tượng, bởi hình tượng chỉ mang tính đơn nghĩa, nó chỉ đại diện cho một đối tượng

cụ thể, duy nhất, không thể nào khác được. Tính đa nghĩa sẽ có hại cho hoạt động
chức năng của hình tượng nghệ thuật (ký hiệu biểu thị). Ngược lại với hình tượng,
biểu tượng luôn mang tính đa nghĩa và nó bao hàm rộng hơn cái ý nghĩa mà người
ta gán cho nó. Điều đó không thể có được ở dạng thức kí hiệu biểu thị. Bởi lẽ, ở
mỗi biểu tượng có một sức vang vọng cốt yếu và tự sinh. Cái dư âm đó thúc giục ta
liên tưởng tiếp theo để ta tìm ra chuỗi ý nghĩa mới. Biểu tượng thực sự có tính cách
tân. Nó không dừng lại ở chỗ tạo nên những dư âm vangvọng đơn thuần, có sức
liên tưởng mà còn thúc đẩy sự biến đổi về chiều sâu của ý nghĩa. Thực chất của
biểu tượng sẽ mất đi hoàn toàn nếu như khép lại sự bất tận về tính đa nghĩa của nó
bằng sự giải thích theo lối đơn nghĩa. Tức là bằng sự giải thích cuối cùng cho một
đối tượng”[42,5 ]. Như vậy ở đây một đặc điểm để phân biệt giữa biểu tượng và
hình tượng làhình tượng chỉ mang tính đơn nghĩa, nó đại diện cho một đối tượng
cụ thể, còn biểu tượng luôn mang tính đa nghĩa và nó bao hàm rộng hơn cái ý
nghĩa người ta gán cho nó.Khi xác định sự khác biệt về mối liên hệ giữa hình


tượng nghệ thuật và biểu tượng trong tác phẩm, cần nhấn mạnh bản chất hai mặt
của biểu tượng. Một mặt nó vẫn giữ mối liên hệ với việc thể hiện tính hiện thực
(tính hình tượng); mặt khácnó mang tính tượng trưng (tính biểu tượng) biểu đạt về
một giá trị, mang tính trừu tượng, phi hiện thực, khó cảm nhận được. Hai quá trình
này luôn mâu thuẫn và thống nhất với nhau. Tính hai mặt của biểu tượng nói lên
vai trò của tượng trưng trong nghệ thuật. Biểu tượng có thể đưa người đọc, người
xem vào lĩnh vực phi lí đồng thời lại là phương tiện để khái quát về một giá trị,
một ý nghĩa nào đó của

24hiện thực. Điều đó nói lên biểu tượng khi thì tách xa, khi lại xích gần với hình
tượng nghệ thuật và nhiều khi nó lại có những nét, những thuộc tính của hình
tượng nghệ thuật. Và nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, hình tượng nghệ thuật sẽ trở
thành biểu tượng.Như vậy, một tác phẩm muốn có được vang vọng, sống mãi với
thời gian thì luôn có được sự trùng khớp gữa hìnhtượng nghệ thuật với biểu tượng.

và nếu hình tượng nghệ thuật mang lại giá trị thẩm mĩ thì biểu tượng mang lại giá
trị nhân văn cho tác phẩm.1.1.4.3 Biểu tượng nghệ thuật trong thơBiểu tượng trong
thơ là một loại biểu tượng nghệthuật. Nó là dạng biểu tượng được xây dựng bằng
ngôn từ, bao gồm cảngôn ngữnói và ngôn ngữviết, được chấp nhận và qui ước bởi
một cộng đồng. Chính vì vậy mà nó vừa mang những đặc điểm chung của biểu
tượng nói chung vừa mang những nét riêng, đặc thù của ngôn từvà thơ ca qui định.
Biểu tượng xuất hiện trong vănDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1.Ac –nôn,
Phong cách học tiếng Anh hiện đại-Phong cách học giải mã, tài liệu dịch thư viện
ĐHSP HN.2.A. Radugin (người dịch Vũ Đình Phòng) (2002), Từ điển bách
khoaVăn hóa học -Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, HN.3.Aristote (1999),
Nghệ thuật thi ca, NXB Văn học, HN.4.Đào Duy Anh (1984), Khảo luận về Kim
Vân Kiều, Quan hải tùng thư, Huế, Tái bản dưới tên Khảo luận về Kim Vân Kiều,


In lại trong Nguyễn Du -về tác gia và tác phẩm (1998), NXB Giáo dục, HN.5.Đào
Duy Anh (1984), Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, HN.6.Đào Duy
Anh (2009) (tái bản, Phan Ngọc hiệu đính), Từ điển Truyện Kiều, NXB Giáo dục,
HN.
257.Nguyễn Ngọc Bích (2008), Tìm hiểu tín hiệu thẩm mỹ “hoa” trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du trên ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng hoc, Luận văn
Thạc sĩ, ĐHSP HN, HN.8.Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn
hóa thông tin, HN.9.Lê Nguyên Cẩn (2007), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc độ văn
hóa, NXB Giáo dục, HN.10.Nguyễn Tài Cẩn (2004), Ngữ pháp Tiếng Việt, NXB
Giáo dục, HN.11.Nguyễn Thị PhươngChâm (2001), Biểu tượng hoa đào, Tạp chí
văn hóa dân gian, (số 5).12.Nguyễn Thị Phương Châm (2003), “Một vài nhận thức
về biểu tượng thực vật trong ca dao người Việt, Tạp chí văn học nghệ thuật(số
4).13.Nguyễn Văn Chiến (2002), Nước một biểu tượng của văn hóa đặc thù trong
tâm thức người Việt và từ nước trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, (số 15).14.W. Dilthey
(2002), Sức mạnh của tưởng tượng thi ca. Những khởi nguyên của thi pháp học,
Tạp chí Văn học nước ngoài(số 2).15.Nguyễn Đình Diệm dịch (1971), Kim Vân

Kiều truyện, Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn. 16.Xuân
Diệu (2012), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, HN.17.Nguyễn Du
(1984), Truyện Kiều, soạn giả Vũ Ngọc Khánh, NXB Văn hóa thông tin,
HN.18. Đức Dục
(1966), Về cái chết của Từ Hải, Tạp chí Văn học, (số 1).20.Đỗ Đức Dục (1984),
Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du, Tạp chí Văn học, (số 2).21.Đỗ Đức Dục
(1987), Từ Truyện Kiều đến thơ ca chữ Hán của Nguyễn Du, Tạp chí Văn học, (số
6).
2622.Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, NXB Văn
học, HN.23.Phạm Đức Dương (2002), Thế giới biểu tượng tiếp cận từ góc độ văn
hóa học, Tạp san Khoa học Xã hội, HN.24.Nguyễn Thị Duyên (2016), Truyện
Kiều của Nguyễn Du nhìn từ góc độ biểu tượng25.Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002),
Vài nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao, Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, (số
4)26.Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền
thống người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, ĐHSPTP HCM.27.Cao Huy Đỉnh
(1965), Triết lí phật học trong Truyện Kiều, Tạp chí văn học, (số 12).28.F.
Angghen (1963), Phép biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, HN.29.S. Freud, G.
Jung, G. Bachelard, G. Tucci, V. Dundes (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật, NXB Văn hóa thông tin, HN.30.Trần Văn Giàu (1962), Thảo luận với ông


Nguyễn Văn Trung về vấn đề Truyện Kiều hay là phê bình bài “phê bình văn học,
Nghiên cứu văn học, (số 11). 31.Nhiều tác giả (1960), Chân dung Nguyễn Du,
Nam sơn xuất bản, Sài Gòn.32.Nhiều tác giả (1995), Những bậc thầy văn chương
thế giới. Tư tưởng và quan niệm, NXB Văn học, HN.33.Nhiều tác giả (1998),
Nguyễn Du -về tác giả và tác phẩm, NXBGiáo dục, HN.34.Nhiều tác giả (2000),
Truyện Kiều và những lời bình, NXBGiáo dục, HN.35.Nguyễn Thị Bích Hà
(2003), Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa dân gian -Tập bản thảo
chuyên đề giảng dạy tại trường ĐHSP Hà Nội.36.Mai Văn Hai (2000), Biểu tượng
và văn hóa tư duy biểu tượng trong tư duy

27xã hội học, Tạp chí Xã hội học, (số 2).37.Đinh Hồng Hải,Cấu trúc luận trong
nghiên cứu biểu tượng từ ký hiệu học đến nhân học biểu tượng (phần 1)38.Đinh
Hồng Hải (2007), Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học biểu tượng ở
Việt Nam, Viện nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.39.Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục, HN.40.Hoàng VănHành (1966), Từ nhiều nghĩa trong
Truyện Kiều,một biểu hiện phong phú về vốn từ vựng của Nguyễn Du, Tạp chí
Văn học, (số 1).41.Thích Nhất Hạnh (2007), Thả một bè lau, Truyện Kiều dưới cái
nhìn thiền quán, NXB Văn hóa Sài Gòn, SG.42.Nguyễn Văn Hậu (2001), Tính
hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa nghệ thuật43.Ph. Heghen
(1999), Mỹ học, Tập 1 -2. NXB Văn học, HN.44.Lê Anh Hiền (1995), Cách xưng
gọi -sự phản ánh một phần tâm thế các nhân vật trong Truyện Kiều, Tạp chí văn
học, (số 4).45.Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, NXB
Văn học, HN.46.Lê Như Hoa (2001) (chủ biên), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam,
NXB Văn hóa thông tin, HN.47.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2001), Biểu tượng chiếc
áo trong đời sống tinh thần người Việt qua thơ ca, Tạp chí Ngôn ngữ, (số
8).48.Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, HN. 49.Nguyễn
Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.
2850.Nguyễn Văn Hoàn (1960), Bước đầu kiểm điểm kết quả thảo luận về Truyện
Kiều, Nghiên cứu văn học, (số 11).51.Nguyễn Văn Hoàn (1962), Sơ thảo cuộc
trao đổi về vấn đề tranh luận Truyện Kiều năm 1924, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (số 6).52.Nguyễn Văn Hoàn (1964), Chung quanh cuộc tranh luận Truyện
Kiều về Phạm Quỳnh -Ngô Đức Kế và Truyện Kiềuở miền Nam, Tạp chí Nghiên
cứu văn học, (số 7).53.Nguyễn Văn Hoàn (1967), Những hoạt động kỉ niệm 200
năm ngày sinh của Nguyễn Du ở nước ta, NXB Khoa học xã hội, HN. 54.Nguyễn
Văn Hậu (2001), Tính hìnhtượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa nghệ


thuật55.Trần Phương Hồ (1996), Điển tích trong Truyện Kiều, NXB Đồng

Nai.56.Trần Đình Hượu (1990), Thực tại, cái thực và chủ nghĩa hiện thực trong
văn học trung đại, in trong Tuyển tập Trần Đình Hượu, NXB Giáo dục,
HN.57.Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
NXB Giáo dục, HN.58.Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng Phương
Đông, NXB Đại học Quốc gia, HN.59.Vũ Thị Thu Hương (tuyển chọn và biên
soạn) (2000), Ca dạo Việt Nam -những lời bình, NXB Văn hóa thông tin,
HN.60.Đặng Thị Thu Hiền (2016), Chiếu vật thiên nhiên trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du –Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận(Luận văn Thạc
sĩ).61. />ult.aspx62.Jean Chevalier và Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa
thế giới, NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, HN.63.Vũ Ngọc Khánh,
Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ (2002), Từ điển văn hóa dân
29gian, NXB Văn hóa –thông tin, HN.64.Nguyễn Bách Khoa (1946),Nguyễn Du
và Truyện Kiều, Hàn Thuyên xuất bản, in lần hai.65.Nguyễn Bách Khoa (2005),
Văn chương Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.66.Nguyễn Xuân Kính (2003), Con
người, môi trường và văn hóa, NXB Khoa học xã hội, HN.67.Nguyễn Xuân Kính
(2004), Thi pháp ca dao, NXB Đại học Quốc gia, HN.68.Lê Đình Kỵ (1967), Tính
khách quan của sự thể hiện nhân vật trong Truyện Kiều, Tạp chí Văn học, (số
14).69.Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
NXB Khoa học xã hội, HN.70.Lê Đình Kỵ (1998), Nguyễn Du đạo và đời, NXB
Giáo dục, HN.71.Lê Đình Kỵ (1998), Truyện Kiều, xã hội phong kiến và
thân phận con người”, sách Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục,
HN.72.Lê Đình Kỵ (1999), Truyện Kiềuvà dấu ấn thi pháp trung đại, Phê bình và
nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, HN.73.Nguyễn Lai (2010), Thực thể trời tâm
linh trong thế giới nhân quả Truyện Kiều qua bút pháp Nguyễn Du.74.Nguyễn
Xuân Lam (2009), Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ XXI, NXB
Giáo dục, HN.75.Đặng Thanh Lê (1965), Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải, Tạp chí
Văn học, (số 11).76.Lao Tử, Thịnh Lê (2001), Từ điển Nho, Phật, Đạo, NXB Văn
học, HN.77.Đặng Thanh Lê (1978), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, NXB
Khoa học xã hội, HN.78.Đặng Thanh Lê (1997), Giảng văn Truyện Kiều,
NXBGiáo dục, HN.79.IU. M. Lotman (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB

Đại học Quốc
30gia, HN.80.Nguyễn Thị Thanh Lưu (2009), Biểu tượng nước trong thơ ca dân
gian và thơ ca hiện đại các dân tộc ít người, Phòng Văn học dân tộc ít người, Viện
Văn học.81.M. Bakhin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn


Nguyễn Du, HN.82.Nguyễn Đăng Na (1999), Đoạn trường tân thanh, một mã khóa
đi vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, Tạp chí văn học, (số 5).83.Nguyễn
Đăng Na (2006), Bàn về Độc tiểu thanh kícủa Nguyễn Du, Tạp chí văn học, (số
6).84.Hà Quang Năng (2001), Đặc trưng của phép ẩn dụ trong ca dao Việt Nam,
Tạp chí ngôn ngữ, (số 15).85.Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), Hoa trong ca dao,
Tạp chí Văn hóa dân gian, (số 2).86.Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), Vị trí của thiên
nhiên trong ca dao trữ tình, Tạp chí Văn hóa dân gian, (số 4).87.Phan Ngọc (1985),
Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội,
HN.88.Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa, văn học bằng ngôn ngữ học, NXB
Thanh niên, HN.89.Vũ Ngọc Phan (2010), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam,
NXB Thời đại, HN.90.Hoàng Phê (chủ biên), Bùi Khắc Việt, Chu Bích Thu, Đào
Thản, Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Lê Kim Chi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Ngọc Trâm, Nguyễn Thanh Nga, Nguyễn Thúy Khánh, Nguyễn Văn Khang, Phạm
Việt Hùng, Trần Cẩm Vân, Trần Nghĩa Phương, Vũ Ngọc Bảo, Vương Lộc, Từ
điển Tiếng Việt(2002), In lần thứ 8, NXB Đà Nẵng.
3191.R. Barthes (2000), Sự tưởng tượng của kí hiệu học, Văn học nước
ngoài(số1).92.R. Barthes (2002), Cơ sở kí hiệu học –Chủ nghĩa cấu trúc và văn
học, NXB Văn học, HN.93.Nguyễn Hữu Sơn (20000, Tiếp nhận Truyện Kiềucủa
Nguyễn Du trong sự so sánh với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân,
sách Điểm tựa phê bình văn học, NXB Lao động, HN.94.Trần Đình Sử (1995),
Mấy chặng đường nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.95.Trần
Đình Sử (1998), Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc, Tạp chí Hán Nôm, (số
3).96.Trần Đình Sử (1998), Mấy vấn đề thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục,
HN.97.Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.98.Đoàn

Thị Hồng Sương, LV Th.s Biểu tượng nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu99.Hoài
Thanh (1949), Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du,
in trong bản Hai trăm năm nghiên cứu Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.100.Hoài
Thanh (1959), Nguyễn Du –Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển



×