Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thu hút FDI cho phát triển bền vững các ngành dịch vụ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 112 trang )

LUẬN VĂN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..............................................................................i
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................. ii
DANH MỤC HÌNH .............................................................................................. ii
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC THU HÚT FDICHO PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM ............................... 8
1.1. Khái quát về phát triển bền vững lĩnh vực dịch vụ ................................... 8
1.1.1. Khái niệm và lý thuyết về phát triển bền vững ........................................ 8
1.1.2. Khái niệm và nội hàm của phát triển bền vững các ngành dịch vụ ........ 12
1.1.3. Quan hệ giữa FDI và phát triển bền vững khu vực dịch vụ.................... 15
1.2. Sự cần thiết thu hút FDI cho phát triển bền vững các ngành dịch vụ .... 18
1.2.1. Yêu cầu của việc mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ ................................ 18
1.2.2. Yêu cầu tăng trưởng các ngành dịch vụ trong bối cảnh Hội nhập Quốc tế
....................................................................................................................... 20
1.2.3. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng dịch vụ ...................................... 21
1.3. Kinh nghiệm quốc tế thu hút FDI trong lĩnh vực dịch vụ ....................... 24
1.3.1. Thu hút FDI trong lĩnh vực dịch vụ của một số quốc gia trên Thế giới.. 24
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra qua việc phân tích quá trình thu hút FDI trong
lĩnh vực dịch vụ của một số quốc gia trên Thế giới ......................................... 31
CHƢƠNG 2.PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH THU HÚT FDI TRONG CÁC
NGÀNH DỊCH VỤ TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ............ 33
2.1. Tổng quan tình hình vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011....... 33
2.2. Thực trạng thu hút FDI vào các ngành dịch vụ Việt Nam, giai đoạn 2006
– 2011 ................................................................................................................ 34
2.2.1. Thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ nói chung ........................ 34
2.2.2. Thực trạng thu hút FDI trong một số ngành dịch vụ điển hình ............. 38


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho


kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

2.3. Đánh giá quá trình thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam theo
quan điểm phát triển bền vững ....................................................................... 47
2.3.1. Xét trên góc độ tính bền vững về kinh tế............................................... 47
2.3.2. Xét trên góc độ bền vững về xã hội ....................................................... 58
2.3.3. Xét trên góc độ bền vững về môi trường ............................................... 69
CHƢƠNG 3.MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT DÒNG VỐN FDI GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM ................. 73
3.1. Triển vọng thu hút FDI vào khu vực dịch vụ Việt Nam trƣớc xu thế phát
triển các ngành dịch vụ trên Thế giới ............................................................. 73
3.1.1. Xu hướng FDI vào ngành dịch vụ ......................................................... 73
3.1.2. Triển vọng thu hút FDI vào khu vực dịch vụ Việt Nam ........................ 74
3.2. Quan điểm và định hƣớng của Việt Nam về thu hút FDI cho phát triển
bền vững khu vực dịch vụ................................................................................ 77
3.3. Một số giải pháp thu hút FDI hƣớng tới phát triển bền vững khu vực
dịch vụ Việt Nam ............................................................................................. 80
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô .............................................................................. 80
3.3.2. Giải pháp đối với một số ngành dịch vụ điển hình ................................ 88
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 105


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1


Ký hiệu
APEC

Nguyên nghĩa Tiếng Anh

Nguyên nghĩa Tiếng Việt

Asia – Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Cooperation

Á – Thái Bình Dương

2

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

3

FDI

Foreign Direct Ivestment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

4


FAO

Food

and

Agriculture Tổ chức Lương thực & Nông

Organization

nghiệp của Liên Hiệp Quốc

5

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

6

GATS

General Agreement on

Hiệp định chung về thương

Trade in Servies


mại dịch vụ

7

HDI

Hument Development Index Chỉ số về phát triển con người

8

HFI

Hument Fredom Index

Chỉ số tự do

9

M&A

Mergers and Acquisitions

Sáp nhập và thâu tóm

10

ODA

Official Development


Hỗ trợ phát triển chính thức

Assistant
11

OECD

Organization for Economic

Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation and

kinh tế

Development
12

PTBV

13

R&D

Research and Development

Nghiên cứu và Phát triển

14


TNCs

Transnational corporations

Các công ty xuyên quốc gia

15

UNESCO

United Nations Educational

Tổ chức Giáo dục, Khoa học

Scientific and Cultural

và Văn hóa của Liên Hiệp

Organization

Quốc

United Nations Conference

Diễn đàn Thương mại và Phát

on Trade and Development

triển Liên Hiệp Quốc


United Nations

Chương trình phát triển của

Development Programme

Liên Hiệp Quốc

World Trade Organization

Tổ chức thương mại Thế giới

16
17
18

UNCTAD
UNDP
WTO

Phát triển bền vững

i


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi

DANH MỤC BẢNG
STT

Số hiệu

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

3

Bảng 2.3

4

Bảng 2.4

5

Bảng 2.5

6


Bảng 2.6

7

Bảng 2.7

8

Bảng 2.8

Nội dung
Tổng quan về thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ từ
2005 – 2011
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dịch vụ
và các ngành kinh tế khác
Cơ sở lưu trú của ngành du lịch tính đến cuối năm
2010
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành y tế
của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011
Tình hình thu hút FDI vào ngành y tế của Việt Nam
phân theo đối tác đầu tư (1989 – 2008)
Tổng vốn FDI vào lĩnh vực giáo dục qua các năm
Doanh thu từ các doanh nghiệp FDI trong du lịch 2006
– 2010
Doanh thu xuất khẩu của khu vực FDI trong ngành du
lịch

Trang
32


33

36

37

39
41
45

46

DANH MỤC HÌNH
STT

Số hiệu

1

Hình 1.1

2

Hình 2.1

Nội dung
Ba trụ cột của phát triển bền vững
Kết quả thu hút FDI giai đoạn 2000 – 2005 và 2006 2011


ii

Trang
11
30


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thực tiễn quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã
chứng minh sự đóng góp tích cực của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, cũng như sự thành công của công cuộc đổi
mới, cải thiện quan hệ đối ngoại, mở ra nhiều triển vọng hợp tác đa phương, củng cố vị
trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ chỗ giữ vai trò không đáng kể trong nền kinh
tế Việt Nam (tỉ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP năm 1992 mới chỉ là 2%), đến
nay, các doanh nghiệp FDI đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng, phát triển năng
động và đóng góp gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Với nguồn vốn đầu tư đến từ 95
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn mà còn
mang đến Việt Nam công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo
thêm nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, qua đó góp phần khai thác tốt hơn các nguồn
lực trong nước, thúc đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Từ thực tế trên, đề tài đã tiến hành nghiên cứu thực trạng FDI ở Việt Nam, tìm
ra nguyên nhân vấn đề, tổng hợp kinh nghiệm thu hút FDI của các nước đi trước và từ
đó đề xuất những biện pháp nhằm thu hút FDI một cách có hiệu quả.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch
vụ. Hơn một phần ba tổng sản phẩm trong nước được tạo ra bởi các dịch vụ: Du lịch,
Giao thông - vận tải, Bưu chính - Viễn thông…Lĩnh vực dịch vụ đem lại hiệu quả vô
cùng to lớn cho xã hội ở nhiều nước trên thế giới và khu vực. Hàng năm, khu vực dịch
vụ đóng góp gần 40% GDP của quốc gia và chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất nhập

khẩu. Đến nay, có khoảng 15 triệu lao động (chiếm 30%) làm việc trong lĩnh vực dịch
vụ. Năm 2011, thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực dịch vụ cũng đạt 86,18tỷ Đôla
Mỹ (USD)/197,92tỷ USD, chiếm 43,54% tổng số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam.
Mục tiêu của chiến lược phát triển dịch vụ trong tương lai là dịch vụ cơ bản trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm dịch vụ chất lượng cao, đa dạng, có thương
hiệu, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, thân thiện với môi
trường… đưa Việt Nam trở thành điểm đến đẳng cấp trong khu vực. Đây sẽ là một
trong những tiền đề góp phần để kinh tế nước ta phát triển theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Muốn vậy, việc thu hút đầu tư FDI cho sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ là một
yêu cầu cấp thiết. Nhưng việc cạnh tranh thu hút bằng mọi giá đã dẫn đến tình trạng
dòng vốn FDI chảy vào một cách ồ ạt, không có kiểm soát, thì không những không làm
cho nền kinh tế nói chung và lĩnh vực dịch vụ nói riêng phát triển mà còn gây thiệt hại
lớn như: đầu tư không đồng bộ, chỉ tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ truyền thống
nhất định đã làm cho cơ cấu khu vực dịch vụ mất cân đối, gia tăng khoảng cách giàu
nghèo giữa các vùng làm bất ổn nền kinh tế vĩ mô, đầu tư dịch vụ đang tăng mạnh song

hiệu quả còn chưa cao, hay việc sử dụng công nghệ lạc hậu cùng với việcquản lý môi
trường yếu kém và xử lý chất thải không đúng quy định gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng … và rất nhiều hệ lụy khác xung quanh vấn đề này đang là nỗi lo của các ban
ngành trung ương và địa phương hiện nay. Do đó, thu hút dòng vốn FDI nhằm phát
triển khu vực dịch vụ một cách bền vững thực sự cần thiết đối với các nước đang phát
triển.
Trong bối cảnh đó, các vấn đề đang đặt ra là:
Tại sao cần gắn thu hút FDI với phát triển bền vững lĩnh vực dịch vụ? FDI
tronglĩnh vực dịch vụ của Việt Nam trong thời gian qua đã gắn với phát triển bền vững
lĩnh vực dịch vụ hay chưa? Việt Nam cần phải có chính sách như thế nào để thu hút
FDI gắn vớiphát triển bền vững lĩnh vực dịch vụ?
Và Đề tài “Thu hút FDIcho phát triển bền vững các ngành dịch vụ Việt
Nam”chính là nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu.
Về vấn đề thu hút FDI cho phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam, cho
đến nay cũng đã có một số công trình nghiên cứu nói chung.

2


1) Đề tài “Luận cứ khoa học cho phát triển lĩnh vực dịch vụ Việt Nam đến
năm 2020” Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.01.18/06-10do PGS.TS.
Nguyễn Hồng Sơn làm chủ nhiệm, đã khẳng định FDI vào các lĩnh vực dịch vụ
trong những năm gần đây đã tăng nhanh và vượt quá FDI vào các ngành chế tạo.
Trong giai đoạn 1990 – 2002, FDI toàn cầu vào lĩnh vực dịch vụ đã tăng hơn bốn
lần còn vào ngành chế tạo chỉ tăng gần ba lần. Mặc dù, Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ
đang tăng mạnh song hiệu quả còn chưa cao.
2) Trong bài “Thu hút FDI “sạch” cho phát triển bền vững nền kinh tế Việt
Nam” của PGS.TS.Nguyễn Thị Liên Hoa, Trần Phương Hồng Hạnh, Bùi Anh
Chính, Viện Nghiên cứu phát triển, TP. Hồ Chí Minh, đã khẳng định FDI “sạch”

cần thiết phải hướng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, cụ thể phải đáp
ứng các yêu cầu vềlợi ích kinh tế, lợi ích xã hội, bảo vệ môi trường, xử lý, khắc
phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và
chặt phá rừng; khai thác tài nguyên bừa bãi. Theo các tác giả một dự án FDI bền
vững được đánh giá đồng thời trên các khía cạnh sau: Nguồn vốn đầu tư phải là đầu
tư kinh doanh và không nhằm mục đích trục lợi nào khác. Đem lại lợi ích kinh tế và
lợi ích xã hội cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư; Có chính sách phát triển lâu dài
và thân thiện với môi trường sinh thái.
3) Bài nghiên cứu “FDI và phát triển bền vững” của GS.TS. Nguyễn Mại thì
cho rằng Chiến lược mới về FDI cần hình thành theo bốn định hướng lớn: 1) chất
lượng và hiệu quả cao; 2) phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các bon; 3)
có sự cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự án; 4)
lao động có kỹ năng cao. Chất lượng và hiệu quả của các dự án FDI cần được xem
xét dưới giác độ phù hợp với mục tiêu của Chiến lược kinh tế –xã hội của cả nước,
của từng ngành, vùng lãnh thổ và địa phương, phải được các cơ quan có thẩm quyền
cấp phép coi là tiêu chí hàng đầu khi thẩm định dự án đầu tư.
4) Đánh giá về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua,
bài viết “Một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài đến năm
2020”của Th.S Nguyễn Đăng Bình – Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Bộ Kế hoạch và

3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi


Đầu tư được in trên tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hộiđã phân tích dòng
vốn FDI vào Việt nam trong thời gian qua và khẳng định rằng, dòng vốn FDI đã có
những đóng góp nhất định vào tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy
nhiên, Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cũng có những mặt hạn chế như vốn ĐTNN tăng
thấp trong thời gian gần đây và phục hồi chậm sau khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới; đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng nghèo, vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn, đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, điện, nước, tài chính, tín
dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng,...
chiếm tỷ lệ còn thấp và chậm được cải thiện; nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
có tỷ lệ nhập khẩu cao, nhưng không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia
công, lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ yếu, làm ảnh hưởng đến cán cân
thương mại. Có những doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của
Việt Nam để thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp, nên đóng
góp rất hạn chế đối với nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam. Có những dự án
ĐTNN sử dụng công nghệ thấp, tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi
trường,... Những vấn đề nêu trên đều có những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến
đời sống dân cư cũng như xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam.
5) Đề tài “Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành du lịch Việt
Nam” Luận văn Thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Thanh Thủy, cũng đã làm rõ thực
trạng là trong thời gian qua, FDI đã thổi một nguồn sinh lực mới vào ngành du lịch
Việt Nam. Thông qua chuyển giao công nghệ và đào tạo, FDI đã góp phần làm
phong phú cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động,
tăng thu ngoại tệ và đóng góp vào ngân sách Nhà nước... Các khách sạn, trung tâm
thương mại, tổ hợp văn phòng căn hộ to lớn, lộng lẫy đã thực sự mang lại bộ mặt
mới cho các thành phố trên cả nước, sánh vai cùng các thành phố hiện đại trên thế
giới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực kể trên thì FDI vào ngành du lịch còn
nhiều hạn chế, lượng vốn đầu tư có xu hướng giảm, cơ cấu đầu tư mất hợp lý, hiệu
quả các dự án đầu tư chưa cao nhiều dự án phải rút giấp phép đầu tư hoặc tạm
ngừng triển khai hoạt động.


4


6) Đề tài“Giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành bưu chính – viễn
thông giai đoạn 2011 – 2015”, Luận văn Thạc sỹ của Trần Kiều Minh đã phân tích
khá sâu sắc về thực trạng thu hút FDI trong ngành viễn thông và khẳng định đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực thông tin và chất lượng thông
tin, phục vụ kịp thời quá trình chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang kinh tế thị trường,
góp phần thực hiện thành công chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Tuy
nhiên, trong quá trình thu hút và triển khai FDI đã bộc lộ những điểm hạn chế, tác
động tiêu cực đến hướng phát triển bền vững của ngành viễn thông Việt Nam.
Tóm lại: do yêu cầu và mục đích khác nhau nên mặc dù đã có tương đối
nhiều đề tài nghiên cứu, đánh giá về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và
đầu tư nước ngoài trong một số ngành nói riêng,một số bài viết đã đi sâu vào nghiên
cứu vềthu hút FDI và phát bền vững nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên nghiên cứu
thu hút FDItrên khía cạnh phát triển bền vững cho lĩnh vực dịch vụ, thì chưa có
công trình nào đề cập đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) cho phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam nói chung và phát triển bền vững
khu vực dịch vụ nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Khái quát lý luận và thực tiễn về vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) cho phát triển bền vững khu vực dịch vụ, từ đó hình thành khung nội dung
nghiên cứu cho đề tài.
- Nghiên cứu tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực dịch
vụ, chỉ ra những mặt thành công và hạn chế trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực dịch vụ.

- Đề xuất một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) để đáp ứng nhu cầu vốn và phát triển bền vững khu vực dịch vụ Việt Nam.

5


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) cho phát triển bền vững khu vực dịch vụ của Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Về nội dung
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xuất hiện, đóng góp và ảnh hưởng tới tất cả
các ngành và khu vực của nền kinh tế, tuy nhiên trong luận văn, FDI được giới hạn
xem xét trong một số ngành dịch vụ cụ thể như: ngành Du lịch; ngành Y tế; ngành
Giáo dục… Đây là các ngành liên quanmật thiết đến một số yếu tố về phát triển bền
vững (Kinh tế, xã hội, môi trường) lĩnh vực dịch vụ Việt Nam. Bên cạnh đó, đây là các
ngành dịch vụ cơ bản, mang tính dẫn dắt, định hướng, tạo điều kiện cơ sở cho các
ngành dịch vụ khác phát triển. Vì vậy, đề tài sẽ nghiên cứu, phân tích tập trung vào 3
ngành dịch vụ cơ bản này.
Về phạm vi thời gian
Trong thời gian từ 2006 – 2011, đây là thời gian sau khi Việt Nam chính thức

gia nhập WTO và trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới. Sự
kiện đó đánh một dấu mốc lịch sử trọng đại về phát triển kinh tế nói chung, phát triển
các ngành dịch vụ nói riêng ở Việt Nam. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã trải qua hơn
năm năm phát triển kinh tế dịch vụ hội nhập ngày càng rộng và sâu vào nền kinh tế thế
giới. Đó không chỉ là việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ với các
nước trong khu vực với ASEAN, với Hoa Kỳ mà còn tham gia vào một “sân chơi”
rộng lớn – WTO.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trước hết, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để xem xét quá
trình vận động, biến đổi và phát triển của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào khu vực dịch vụ từ năm 2006 đến nay.
Bên cạnh đó, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải quy nạp được sử dụng
nhằm phân tích tình hình thu hút FDI cho sựphát triển (những điểm đạt được và những

6


vấn đề còn tồn tại) của khu vực dịch vụ Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra giải
pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát triển lĩnh vực dịch vụ việt nam
trong thời gian tới.
Các phương pháp so sánh cũng được luận văn sử dụng để làm nổi bật tính cấp
thiết của việc thu hút FDI cho phát triển bền vững khu vực dịch vụ Việt Nam. Đồng
thời, phương pháp thống kê được sử dụng như là một công cụ phân tích số liệu để minh
chứng cho các vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Phân tích và làm sáng tỏ những khái niệm về: phát triển bền vững, đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) gắn với phát triển bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng FDI vào một số lĩnh vực dịch vụ gắn với phát
triển bền vững.
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút FDI hướng tới phát triển

bền vững khu vực Dịch vụ Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được
kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc thu hút FDI cho phát triển bền vững các
ngành dịch vụ Việt Nam.
Chương 2: Phân tích quá trình thu hút FDI trong các ngành dịch vụ trên quan
điểm phát triển bền vững.
Chương 3: Một số giải pháp thu hút dòng vốn FDI gắn với phát triển bền vững
các ngành dịch vụ Việt Nam

7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC THU HÚT FDI
CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM
1.1. Khái quátvềphát triển bền vữnglĩnh vực dịch vụ
1.1.1. Khái niệm và lý thuyết về phát triển bền vững
1.1.1.1. Khái niệm
Phát triển bền vững đang trở thành xu thế tất yếu mang tính toàn cầu, là mục
tiêu phấn đấu của các quốc gia trên thế giới.

Đầu thập niên 80, thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable
Development) lần đầu tiên được sử dụng trong chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp
hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã
thế giới và Chương trình môi trường Liên hiệp quốc đề xuất, cùng với sự trợ giúp
của UNESCO và FAO. Tuy nhiên, khái niệm này chính thức phổ biến rộng rãi trên
thế giới từ sau báo cáo Brundtland (1987). Kể từ sau báo cáo của Brundtland, khái
niệm bền vững trở thành khái niệm chìa khoá giúp các quốc gia xây dựng quan
điểm, định hướng, giải pháp tháo gỡ bế tắc trong các vấn đề phát triển. Đây cũng
được xem là giai đoạn mở đường cho “Hội thảo về phát triển và môi trường của
Liên hiệp quốc, Diễn đàn toàn cầu hoá được tổ chức tại Rio de Janneiro (1992) và
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johannesburg (2002)”.
Theo Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu
cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai”.Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo,
tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống
trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua các
bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó
không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái, mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người,
nó chứa đựng sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo và giữa các thế hệ.
Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên

8


quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển
bền vững…
Như vậy, khái niệm “Phát triển bền vững” được đề cập trong báo cáo
Brundtland với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh tế và
môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường. Nội dung
khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị – xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã

hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là “tiếng chuông” hay nói cách khác là “tấm
biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.
Tóm lại, phát triển bền vững là sự phát triển dựa trên giải quyết hài hoà mối
quan hệ kinh tế – xã hội – môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa
tự nhiên và con người. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng
kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Nếu xét một cách riêng rẽ thì các nội dung và tiêu chí xác định sự phát triển các trụ
cột của phát triển bền vững được hiểu như sau:
Phát triển bền vững về kinh tế, là sự tăng trưởng nền kinh tế liên tục, ổn
định, có cơ cấu hợp lý, chuyển dịch theo hướng tiến bộ, đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của người dân, tránh được suy thoái và đình trệ trong tương lai. Độ đo
kinh tế của sự phát triển bền vững về kinh tế được tính trên giá trị GDP hoặc GNP.
Một số tổ chức quốc tế và quốc gia đã đưa ra bộ chỉ tiêu phát triển kinh tế bền vững
như: Hiện trạng kinh tế, tài chính, tiêu dùng vật chất, sử dụng năng lượng, GDP
bình quân đầu người, tỷ lệ đầu tư trong GDP, cán cân thương mại, tỷ lệ nợ/GDP,
tổng viện trợ ODA…[24, tr.173]
Phát triển bền vững về xã hội là sự phát triển mà trong đó chất lượng cuộc
sống tinh thần được nâng cao không ngừng, bảo đảm được sự công bằng của người
dân về các quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội. Để đo mức độ bền vững về xã hội
của sự phát triển, người ta dùng chỉ số về phát triển con người (HDI), chỉ số tự do
(HFI), mức độ tăng trưởng việc làm, thu nhập, tình hình cung cấp dịch vụ y tế, số
học sinh tiểu học phổ cập… Liên hiệp quốc và một số tổ chức quốc tế khác cũng đã

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai

tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

đưa ra các chỉ tiêu phát triển bền vững về xã hội bao gồm chỉ tiêu cụ thể về công
bằng, y tế, giáo dục, nhà ở, an ninh và dân số…[24, tr.174]
Phát triển bền vững về môi trường là sự phát triển bảo đảm tính bền vững
của các hệ sinh thái, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có các biện pháp để cải
thiện và quản lý môi trường. Độ đo môi trường của sự phát triển bền vững thông
qua chất lượng các thành phần môi trường không khí, nước, đất, sinh thái; mức độ
duy trì các nguồn tài nguyên tái tạo; việc khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên không tái tạo; nguồn vốn của xã hội dành cho các hoạt động bảo vệ môi
trường; khả năng kiểm soát của chính quyền đối với các hoạt động kinh tế xã hội,
tiềm ẩn các tác động tiêu cực đối với môi trường, ý thức bảo vệ môi trường của
người dân… Liên hiệp quốc và một số tổ chức quốc tế khác đã đưa ra các chỉ tiêu
phát triển bền vững về môi trường với 21 nhóm chỉ tiêu về chất lượng không khí, đa
dạng sinh học, đất, chất lượng nước, trữ lượng nước, ô nhiễm không khí, sức ép lên
hệ sinh thái, quản lý tài nguyên, khả năng tham gia vào hợp tác quốc tế, sự tham gia
của khu vực tư nhân, mức phát thải khí nhà kính, giảm áp lực lên môi trường toàn
cầu…[24, tr.174]
1.1.1.2 Lý thuyết về phát triển bền vững
Xét một cách riêng rẽ các trụ cột của PTBV thì vấn đề không có gì phức tạp.
Tuy nhiên, tính phức tạp ở đây được thể hiện ở chỗ các trụ cột của PTBV có mối
liên hệ chặt chẽ lẫn nhau. Sự phát triển của trụ cột này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
trụ cột kia và như vậy sẽ phá vỡ tính hài hoà giữa chúng. Điều đó được thể hiện qua
Mô hình phát triển bền vững của Jacobs và Sadler (1990).
Theo mô hình này, phát triển bền vững là kết quả của các tương tác qua lại
và phụ thuộc lẫn nhau của ba hệ thống chủ yếu của thế giới: Hệ thống tự nhiên (bao
gồm các hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường

của trái đất); Hệ thống kinh tế (hệ sản xuất và phân phối sản phẩm); Hệ thống xã
hội (quan hệ của con người trong xã hội). Trong mô hình trên, sự phát triển bền
vững không cho phép vì sự ưu tiên của hệ này dễ gây ra sự suy thoái và tàn phá đối

10


với một hệ khác, hay phát triển bền vững là sự dung hoà các tương tác và thoả hiệp
của ba hệ thống chủ yếu trên.

Hình 1.1.Ba trụ cột của phát triển bền vững.
Từ trái sang: Lý thuyết, Thực tế và Sự thay đổi cần thiết để đạt đƣợc mô
hình cân bằng tốt hơn.
Nguồn:Jacobs và Sadler, 1990
Mô hình này mô tả sự phát triển của một đất nước không bền vững, cụ thể là:
trong đất nước đó, Chính phủ đã quá ưu tiên cho mục tiêu phát triển kinh tế (làm
cho vòng tròn kinh tế lớn hơn nhiều so với mô hình lý thuyết). Để đạt mục tiêu đó,
Chính phủ phải đánh đổi bằng các mục tiêu về xã hội và môi trường (vòng tròn xã
hội và môi trường bị thu hẹp lại). Sự thay đổi cần thiết là chính phủ phải giảm mục
tiêu phát triển kinh tế và ưu tiên hơn cho các mục tiêu xã hội và môi trường để đảm
bảo sự hài hoà giữa chúng, tức là phát triển bền vững.
Trong mô hình lý thuyết, ba trụ cột được kết hợp hài hoà, hay đó chính là
phát triển bền vững. Mô hình thực tiễn cho thấy, quá trình phát triển phải đánh đổi
môi trường, xã hội để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Mô hình tiếp theo là
cần phải tạo ra sự cân bằng mới, cụ thể là phải điều chỉnh mục tiêu kinh tế để phục
hồi và phát triển yếu tố môi trường, xã hội.
Về lý thuyết, quan điểm phát triển bền vững không cho phép phát triển coi
trọng mặt này hay mặt khác của PTBV. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều người vẫn ưu
tiên cho mục tiêu kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi mà cuộc chạy


11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

đua phát triển giữa các quốc gia, giữa các khu vực kinh tế của thế giới diễn ra ngày
càng gay gắt, khốc liệt thì khuynh hướng “phát triển với bất cứ giá nào” vẫn được
tôn sùng trên thực tế, đặc biệt là ở các nước đang phải đối đầu với nghèo đói, lạc
hậu, kinh tế chậm phát triển. Người ta dễ có khuynh hướng hy sinh môi trường và
các yếu tố khác cho phát triển kinh tế. Những người quá sốt ruột trước tình trạng lạc
hậu, kém phát triển của nước mình thường lập luận rằng “cứ phát triển kinh tế đã
rồi sẽ tính sau”. Đây là quan điểm “Làm bẩn – Làm giàu – Làm sạch”, tức là giải
quyết vấn đề môi trường sau khi đã đạt được trình độ phát triển nhất định về kinh
tế.
Ngược lại với khuynh hướng trên là khuynh hướng “tăng trưởng bằng không
hoặc âm” (Zero or Negative Growth) để bảo vệ các nguồn tài nguyên hữu hạn,
hoặc “chủ nghĩa bảo vệ” chủ trương không can thiệp vào các nguồn tài nguyên sinh
học để bảo vệ chúng hay “chủ nghĩa bảo tồn” (Conservation) chủ trương không
đụng chạm vào thiên nhiên, nhất là tại các địa bàn chưa được điều tra, nghiên cứu
đầy đủ. Tất cả những khuynh hướng, quan điểm trên đều là không tưởng, đặc biệt
đối với các nước đang và kém phát triển, nơi mà tài nguyên thiên nhiên là nguồn
vốn cơ bản cho mọi hoạt động phát triển của con người.
Ngoài mô hình đã nêu trên, trên thế giới cũng như ở nước ta còn đưa ra một
số mô hình khác rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, bản chất của các mô hình

đều nói lên sự hài hoà của ba nhân tố chính là kinh tế, xã hội, môi trường.
1.1.2. Khái niệm và nội hàm của phát triển bền vững các ngành dịch vụ
Cũng như phát triển bền vững, nội hàm của dịch vụ bền vững còn đang được
định hình và cụ thể hóa ở nhiều quốc gia. Chính sách phát triển dịch vụ gắn với
thực hiện yêu cầu phát triển bền vững được đặt trên cơ sở sự cụ thể hóa này. Ở nước
ta mới xác định chính thức quan niệm và các nội dung cơ bản của phát triển bền
vững đất nước, thể hiện tại văn bản “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở
Việt Nam” (ban hành kèm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
153/2004/QĐ-TTg ngày 17/08/2004). Tuy vậy, phát triển dịch vụ bền vững thì còn
chưa có được một quan niệm chính thức và cụ thể như vậy. Về phương diện cơ sở

12


khoa học, có một thực tế là cho đến nay, chính sách phát triển các lĩnh vực (công
nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ…) và gắn với quản lý nhà nước là các
ngành ở nước ta thường được hoạch định trên cơ sở quan niệm nhằm phục vụ phát
triển bền vững đất nước chứ chưa phải đích thực là phát triển bền vững lĩnh vực
(ngành). Để “nhằm phát triển bền vững” thì bản thân sự phát triển của lĩnh vực
(ngành) phải bền vững như là tất yếu. Đối với lĩnh vực dịch vụ, điều này làm nảy
sinh nhu cầu xác định nội hàm “phát triển dịch vụ bền vững” và ban hành chính
thức giống như đã ban hành đối với phát triển bền vững quốc gia và một số địa
phương (tỉnh, thành phố).
Dựa trên lý thuyết về phát triển bền vững, theo đó, dịch vụ bền vững là sự
duy trì nhịp độ tăng trưởng dịch vụ cao và ổn định, chất lượng tăng trưởng dịch vụ
ngày càng được nâng cao, góp phần tăng trưởng và ổn định kinh tế, ổn định xã hội
và bảo vệ môi trường.
Theo định nghĩa này, dịch vụ bền vững là sự kết hợp hài hòa hai nội dung.
Nội dung thứ nhất là duy trì nhịp độ tăng trưởng dịch vụ cao và ổn định, đảm
bảo chất lượng tăng trưởng được nâng cao.

Nội dung thứ hai là đảm bảo yêu cầu về sự hài hòa giữa các mặt của PTBV:
kinh tế, xã hội, môi trường, đó là ổn định kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư và cải thiện môi trường sinh thái. Cụ thể
hơn, dịch vụ theo quan điểm phát triển bền vững không phải là tìm cách tăng trưởng
khu vực dịch vụ bằng mọi giá mà là sự tăng trưởng đó phải luôn đảm bảo hài hòa
giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài.
Dịch vụ là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của hoạt động kinh tế nói
chung, do đó phát triển dịch vụ bền vững cũng giống như phát triển kinh tế bền vững
phải duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục, đảm bảo chất lượng tăng trưởng
trên cơ sở tăng giá trị gia tăng dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu dịch vụ theo hướng hiện
đại, sức cạnh tranh của dịch vụ ngày càng được nâng cao. Tăng trưởng dịch vụ không
liên tục, chứa đựng nhiều rủi ro tăng trưởng khi có biến động lớn do cơ cấu không
hợp lý, sức cạnh tranh dịch vụ yếu kém, sụt giảm tỷ trọng dịch vụ trong nền kinh tế
gây nên bất ổn kinh tế vĩ mô… thì không thể coi là dịch vụ bền vững.

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Dịch vụ bền vững phải đáp ứng yêu cầu về sự hài hòa của PTBV: kinh tế, xã
hội, môi trường. Dịch vụ tăng trưởng cao và liên tục, chất lượng được nâng cao
nhưng phát triển dịch vụ chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, làm cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường để có được tỉ trọng lớn trong nền kinh

tế thì không thể coi là dịch vụ bền vững. Hoặc là, dịch vụ chỉ phục vụ lợi ích cho
một nhóm người, nhất là trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Trường hợp
này thường xảy ra ở nhiều nước có nền dân chủ phát triển thấp, độc tài, tập trung
quyền lực cao độ. Trong trường hợp này, chia sẻ lợi ích dịch vụ không công bằng
thì cũng không thể coi đây là dịch vụ bền vững. Nói cách khác, phát triển bền vững
dịch vụ nghĩa là sự phát triển của dịch vụ phải được tổng hợp trong chiến lược phát
triển bền vững, từ khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.Sự phát triển đó phải hợp
lý, có thể chấp nhận và không dẫn tới sự phân hóa xã hội, cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường không thể phục hồi.
Như vậy, dịch vụ bền vững phải là sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng
trưởng dịch vụ và các mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội và cải thiện môi trường. Tuy
nhiên, tùy theo điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội và thể chế, chính sách
riêng của mỗi nước gắn với từng giai đoạn phát triển khác nhau, việc đảm bảo sự
hài hòa giữa các mặt của PTBV là khác nhau. Trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hóa (nền kinh tế thường chú trọng phát triển theo chiều rộng), giai
đoạn tích lũy tư bản, tăng trưởng dịch vụ cũng như tăng trưởng kinh tế phải dựa vào
tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, tập trung đầu tư
phát triển một số ngành dịch vụ then chốt có thể được coi là sự ưu tiên hàng đầu. Sự
tập trung phát triển các ngành dịch vụ này có thể phải đánh đổi với vấn đề gây ô
nhiễm môi trường sinh thái để có được sự tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng về dịch
vụ. Đây là mô hình phát triển dịch vụ theo chiều rộng. Tuy nhiên, mức độ đánh đổi
khác nhau ở các nước do chính sách phát triển của chính phủ. Chẳng hạn, ở các
nước Đông Á theo đuổi mô hình phát triển dựa vào dịch vụ thành công hơn các
nước Đông Nam Á trong vấn đề môi trường và xã hội. Các nước Đông Á có nền
kinh tế bền vững hơn và môi trường được gìn giữ hơn. Đó là do các nước Đông Á

14


đã có mô hình phát triển hợp lý hơn, tạo ra những điều kiện để nhanh chóng chuyển

từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng (dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động rẻ)
sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, hạn chế khai thác tài nguyên, tăng trưởng
kinh tế và tăng trưởng dịch vụ dựa trên cơ sở khai thác các lợi thế cạnh tranh về thể
chế, chất lượng lao động và công nghệ mang lại, cần phải tính đến vấn đề giải quyết
việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái. Thành
công của các nước Đông Á dựa trên một nền giáo dục chất lượng cao, một chính
phủ năng động và trong sạch, một nền kinh tế năng động và có sức cạnh tranh quốc
tế. Như vậy, dịch vụ bền vững phải dựa vào mô hình tăng trưởng theo chiều sâu,
trên cơ sở khai thác các lợi thế cạnh tranh do các yếu tố thể chế, chất lượng lao
động, công nghệ mang lại.
Một vấn đề khác cũng cần được chú ý khi nghiên cứu dịch vụ bền vững là
tính bền vững của hoạt động dịch vụ phải được xem xét trong dài hạn. Tăng trưởng
dịch vụ cao trong ngắn hạn trên cơ sở khai thác các yếu tố lợi thế so sánh sẵn có
mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao chưa hẳn là dịch vụ bền vững nếu chỉ là dịch
vụ cấp thấp, có giá trị gia tăng thấp, làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi
trường, đem lại lợi ích cho một bộ phận tham gia dịch vụ.
1.1.3. Quan hệ giữa FDI và phát triển bền vững khu vực dịch vụ
Thu hút vốn đầu tư được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu, được các
Chính phủ các nước đẩy mạnh thực hiện, và quá trình này đang diễn ra sự cạnh
tranh gay gắt giữa các quốc gia, khu vực, vùng miền. Cũng như đối với các ngành
kinh tế khác, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển của khu vực dịch vụ. Để đưa dịch vụphát triển nhanh và bền vững,
trước hết cần phải đầu tư xây xựng các cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông,
phương tiện vận chuyển, kho bãi, trang thiết bị...
Dịch vụ hiện được coi là ngành kinh tế có vai trò quan trọng, đem lại nguồn
thu nhập đáng kể cho nhiều quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Tuy nhiên,
để khu vực dịch vụ phát triển tốt và bền vững thì cần đầu tư xây dựng được các sản
phẩm dịch vụ hấp dẫn đủ sức cạnh tranh trên thị trường và có công tác tuyên truyền,

15



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

quảng bá cho sản phẩm dịch vụ đó. Một sản phẩm dịch vụ toàn diện phải bao gồm
các yếu tố: Tăng trưởng, Tài nguyên, môi trường, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao
động trong ngành dịch vụ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bổ sung một nguồn vốn hết sức quan trọng
chocác ngành dịch vụ, nó thúc đẩy tăng trưởng ngành dịch vụ, tạo việc làm cho
nhiều lao động đang thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nhưng việc dòng vốn FDI chảy vào khu vực dịch vụ một
cách ồ ạt, không có kiểm soát thì không những không làm cho khu vực dịch vụ phát
triển mà còn gây ra thiệt hại lớn như: đầu tư không đồng bộ, chỉ tập trung ở một số
ngành dịch vụ, ở một số khu vực kinh tế phát triển đã làm cho cơ cấu khu vực dịch
vụ mất cân đối, gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng làm bất ổn nền kinh
tế vĩ mô; hay việc xử lý chất thải không đúng quy định gây ô nhiễm môi trường
trầm trọng,… và rất nhiều hệ lụy khác xung quanh vấn đề này. Do đó, thu hút được
dòng vốn FDInhằm phát triển bền vững khu vực dịch vụ thực sự là cần thiết đối với
các nước đang phát triển. Bởi lẽ, bên cạnh bản chất chứa đựng những tác động tích
cực mà dòng vốn FDI mang lại cho khu vực dịch vụ như: bổ sung nguồn vốn cho
khu vực dịch vụ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa trong
khu vực dịch vụ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm cho đa số người dân
cũng như sự đổi mới trong tư duy khi tiếp cận với dòng vốn này đã tạo cho các nhà

quản lý bản địa có kiến thức kinh doanh hiện đại, đội ngũ lao động làm việc trong các
công ty dịch vụ nước ngoài được tiếp xúc với công nghệ tiên tiến đã tạo cho lớp trẻ
một cách nhìn nhận đầy năng động về cơ chế thị trường, đưa các nhà đầu tư trong
nước tiếp cận với thị trường thế giới, tăng tính cạnh tranh quốc tế đối với các doanh
nghiệp dịch vụ trong nước tạo động lực cho các doanh nghiệp này phát triển ngang
tầm thế giới hay tạo ra các khoản thu lớn từ thuế cho ngân sách chính phủ phục vụ
các dịch vụ y tế cộng đồng, giáo dục, bảo hiểm và an sinh xã hội, phát triển cơ sở hạ
tầng, nâng cao trình độ dân trí… thì thu hút dòng vốn FDI cho phát triển bền
vữngkhu vực dịch vụ còn bổ sung, khắc phục được các tác động tiêu cực do dòng vốn
FDI gây ra cho khu vực dịch vụ nói riêng cũng nhưng nền kinh tế nói chung.

16


Khi thu hút đúng dòng vốn FDInhằm phát triển bền vững khu vực dịch vụ thì
những vấn đề như ô nhiễm môi trường, bất ổn khu vực dịch vụ, nền kinh tế do ảnh
hưởng từ các doanh nghiệp FDI sẽ không còn là nỗi lo đối với các nước đang phát
triển nữa. Bởi các doanh nghiệp dịch vụ được xây dựng từ dòng vốn FDI sẽ luôn
đảm bảo được hệ thống xử lý chất thải thỏa mãn yêu cầu các tiêu chuẩn môi trường
sạch của nước tiếp nhận đầu tư, hoạt động kinh doanh công khai, minh bạch và luôn
tuân thủ đúng pháp luật, những công nghệ chuyển giao cho nước chủ nhà thường là
những công nghệ tiên tiến thân thiện môi trường,… Điều này sẽ giúp cho nước chủ
nhà dễ dàng trong việc kiểm soát được các hoạt động đầu tư nước ngoài không
minh bạnh, lợi dụng hình thức này để rửa tiền xuyên quốc gia gây ảnh hưởng xấu
đến phát triển bền vững khu vực dịch vụvà nền kinh tế trong nước, giảm các xung
đột xảy ra giữa nhà đầu tư nước ngoài và người dân cũng như sẽ hạn chế được tình
trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng đang diễn ra khá phổ biến ở các nước đang
phát triển… do vậy mà đảm bảo được tính ổn định về cả mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Từ đó, tạo lập một khu vực dịch vụ, kinh tế tăng trưởng bền vững, nâng cao
chất lượng sống của con người trong dài hạn. Bởi các tác động thực sự tích cực đối

với khu vực dịch vụ nói riêng và cho nền kinh tế nói chung cho nên trên thực tế
hiện nay nhiều quốc gia nhất là các nước đang phát triển đã có những thay đổi căn
bản trong cách thức tiếp cận nguồn vốn FDI. Trong giai đoạn mới này sẽ không còn
trình trạng thu hút FDI bằng mọi giá khi mà nguồn vốn đầu tư đang được đa dạng
hóa và trong khi những đòi hỏi về phát triển dịch vụ bền vững và thân thiện với môi
trường đang được đặt ra khắt khe hơn bao giờ hết thì nguồn vốn FDI được “chắt
lọc” mới thực sự là mục tiêu hướng đến của nhiều quốc gia kể cả quốc gia phát triển
hay quốc gia đang phát triển.
Bên cạnh đó, thu hút FDI vào các dịch vụ hỗ trợ sản xuất sẽ thúc đẩy năng
suất và xuất khẩu trong lĩnh vực chế tạo. Sự phụ thuộc, một mặt giữa cải cách chính
sách trong dịch vụ và luồng vốn FDI từ bên ngoài, và mặt khác là giữa tăng trưởng
năng suất theo yếu tố của các doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ này và các luồng
vốn FDI là một trong số các kết quả thực tiễn rõ ràng nhất liên quan tới cải cách

17


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

dịch vụ. Arnold, Jacvorcik và Mattoo (2007) xem xét tác động của việc cho phép
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tiếp cận nhiều hơn vào các lĩnh vực dịch vụ
tới năng suất của các ngành sản xuất sử dụng đầu vào là các dịch vụ. Các kết quả
này, dựa vào số liệu ở cấp doanh nghiệp của Cộng hòa Czech trong giai đoạn 1998
– 2003 chỉ ra mối liên hệ đồng biến giữa FDI trong dịch vụ và hoạt động của các

doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất trong nước. Trong một nghiên cứu tương tự
liên quan tới Châu Phi và dựa trên số liệu của hơn 1.000 doanh nghiệp tại 10 nước
tiểu vùng Sahara, Arnold, Mattoo và Narciso (2006) đã chứng minh có mối liên hệ
đồng biến giữa hoạt động của các doanh nghiệp và hiệu quả của ba ngành dịch vụ
đầu vào dựa vào số liệu thu thập được qua các cuộc khảo sát doanh nghiệp (tiếp cận
các dịch vụ viễn thông, điện và tài chính).[11,tr.118]
Mối liên kết giữa cải cách lĩnh vực dịch vụ và năng suất trong ngành chế tạo
cùng xu hướng xuất khẩu được Arnold, Javorcik, Lipscomb và Mattoo (2008) xem
xét kỹ hơn. Dựa vào nghiên cứu số liệu 10.000 doanh nghiệp Ấn Độ trong giai
đoạnh 1990 – 2005 cho thấy các cải cách được gắn với FDI trong lĩnh vực dịch vụ
tăng nhanh, tốc độ tăng cao hơn FDI vào lĩnh vực hàng hóa. Nghiên cứu cũng cho
thấy có mối liên hệ đồng biến giữa cải cách chính sách trong lĩnh vực ngân hàng,
viễn thông và vận tải với năng suất của lĩnh vực sản xuất. Các doanh nghiệp phụ
thuộc đáng kể vào dịch vụ ngân hàng và viễn thông có tốc độ tăng trưởng năng suất
theo yếu tố cao hơn, đây là một bằng chứng rõ ràng của kết quả tự do hóa nhanh
chóng, thu hút dòng vốn FDI vào các dịch vụ quan trọng: dịch vụ ngân hàng, điện
tử, viễn thông,…[11, tr.118]
1.2. Sự cần thiết thu hút FDIcho phát triển bền vững các ngành dịch vụ
1.2.1. Yêu cầu của việc mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ
Sự phát triển của khu vực dịch vụ trên quy mô toàn cầu cũng như ở từng
vùng và từng quốc gia được kích thích bởi sự gia tăng mạnh mẽ của FDI vào dịch
vụ. Trong vài thập kỷ trở lại đây, đã diễn ra xu hướng dịch chuyển các dòng FDI
sang các ngành dịch vụ. Theo báo cáo đầu tư 2004, tổng lượng vốn FDI vào các
ngành dịch vụ đã tăng gấp hơn 4 lần trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2002,

18


từ 950 tỷ USD lên trên 4 nghìn tỷ USD (dựa trên số liệu của 61 nước chiếm hơn 4/5
lượng FDI thế giới). Tỷ trọng FDI dịch vụ trong tổng FDI của thế giới đã tăng lên

khoảng 60% năm 2002, so với mức chưa đầy 50% năm 1990 và chỉ 25% hồi đầu
những năm 1970. Về cơ cấu FDI theo ngành dịch vụ, đến năm 1990, FDI tập trung
chủ yếu vào các dịch vụ thương mại và tài chính, chiếm tương ứng 25% và 40%
tổng FDI vào khu vực dịch vụ. Cho đến nay, hai ngành này vẫn thu hút một lượng
lớn FDI, với thương mại chiếm 18% và tài chính chiếm 29% tổng FDI vào dịch vụ
năm 2002. Tuy nhiên, kể từ đầu những năm 1990 trở lại đây, FDI đã bắt đầu đổ
mạnh vào các ngành dịch vụ khác, đáng chú ý là điện, viễn thông, vấp nước và các
dịch vụ kinh doanh. Thí dụ, trong thời gian 1990 - 2002, lượng FDI vào lĩnh vực
phát và cấp điện đã tăng tới 14 lần, chiếm khoảng 3% tổng lượng FDI vào khu vực
dịch vụ năm 2002; FDI trong lĩnh vực viễn thông, kho bãi và vận tải tăng gần 16
lần, chiếm 11%; và FDI trong các dịch vụ kinh doanh tăng 9 lần, chiếm 26%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển đa dạng,
phong phú; phát huy được tiềm năng, lợi thế để phát triển, đặc biệt là phát triển các
dịch vụ truyền thống, như: dịch vụ du lịch, dịch vụ khách sạn – nhà hàng, dịch vụ
vận tải hàng hóa và hành khách, dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế và chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, dịch vụ giải trí và thể thao,… Đồng thời, FDI mở ra và tạo dựng
cơ hội cho các ngành dịch vụ hiện đại, sử dụng khoa học và công nghệ cao, có giá
trị gia tăng cao phát triển, như: dịch vụ tài chính – ngân hàng – bảo hiểm, dịch vụ
luân chuyển vốn quốc tế (FDI, ODA…), dịch vụ về năng lượng mới (hóa dầu), dịch
vụ viễn thông, các dịch vụ khoa học và công nghệ cao, dịch vụ tư vấn đầu tư… mà
trước đây trong nước hiếm hoặc chưa có điều kiện phát triển do thiếu những tiền đề
về vật chất, về kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và xã hội để phát triển. Những dịch
vụ đó, ra đời và phát triển không chỉ hướng đến mục tiêu phục vụ người tiêu dùng
trong nước. Quan trọng hơn, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, ứng dụng công nghệ
cao và có chất lượng cao thì có khả năng kết nối tất cả các nền kinh tế, kể cả các
nền kinh tế phát triển và nền kinh tế đang phát triển; thu hẹp khoảng cách không
gian và rút ngắn thời gian trong các giao dịch giữa các khu vực trên thế giới, làm
cho nền kinh tế thế giới phát triển hiệu quả.

19



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Một trong những dịch vụ phát triển nhất, kết nối nhanh nhất và rõ nhất các
niền kinh tế đang phát triển và kém phát triển với những nền kinh tế phát triển đó là
dịch vụ tài chính – ngân hàng – bảo hiểm, dịch vụ kỹ thuật – công nghệ với phương
thức đầu tư mang tính điển hình, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
viện trợ phát triển chính thức (ODA). “sân chơi” trên thị trường dịch vụtài chính –
ngân hàng – bảo hiểm, dịch vụ kỹ thuật – công nghệ của các quốc gia phát triển là
vô cùng rộng lớn là cơ hội và thách thức trong quá trình mở cửa và hội nhập khu
vực và quốc tế của các quốc gia trên thế giới.
Thu hút FDI vào phát triển các ngành dịch vụ đã góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam, đẩy mạnh tích lũy vốn cho quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.Trong những năm đổi mới, nhất là những năm gần đây,
khi Việt Nam thực hiện hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và
trên thế giới, FDI thúc đẩy các ngành dịch vụ của Việt Nam phát triển đa dạng,
phong phú; xuất hiện những ngành dịch vụ mới, sử dụng công nghệ cao, như: viễn
thông – sử dụng truyền tin bằng công nghệ cao, băng thông rộng; dịch vụ khoa học
và công nghệ cao cho công nghiệp hóa dầu; dịch vụ luân chuyển vốn, nhất là vốn
ODA, FDI. Đặc biệt, dịch vụ tạo mở việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Các ngành dịch vụ phát triển không chỉ thúc đẩy bản thân ngành dịch vụ phát triển
mà còn là “giá đỡ” cho các ngành sản xuất vật chất tăng trưởng và phát triển. Theo
kết quả nghiên cứu công bố đầu năm 2010 tại Hội nghị về Thương mại và phát triển

của Liên hợp quốc (UNCTAD), Việt Nam nằm trong số 12 nước được đánh giá cao
về môi trường đầu tư và là điểm hấp dẫn cho FDI trong năm 2010 và 2011.[45]
1.2.2. Yêu cầu tăng trƣởng các ngành dịch vụ trong bối cảnh Hội nhập Quốc tế
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự góp mặt của các nhà đầu tư
nước ngoài trong các ngành dịch vụ đã tác động rất tích cực đến vấn đề phát triển
ngành dịch vụ tại Việt Nam theo hướng hiện đại, phát huy lợi thế của đất nước, nhất
là những “lợi thế tĩnh” của nền kinh tế. Trong đó, trước hết là tác động tích cực, rõ
nhất là có tư duy mới trong hạch toán sản phẩm (bao gồm cả sản phẩm vật chất và
sản phẩm phi vật chất); mang tính định hướng cụ thể và ngày càng rõ về tiềm năng,

20


lợi thế độc nhất về vị trí địa lý cùng những khó khăn, thách thức cho tất cả các chủ
thể (nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân) Việt nam có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến phát triển ngành dịch vụ. Thị trường dịch vụ trong nước không còn là
“mảnh đất” của riêng các chủ thể kinh doanh trong nước mà có sự xuất hiện ngày
càng nhiều nhà đầu tư, công ty, đến từ các nước, các khu vực khác nhau, với tiềm
lực mạnh hơn các nhà đầu tư, công ty trong nước về kinh tế, kỹ thuật, nhân lực,
phương thức và cách thức quản trị điều hành doanh nghiệp dịch vụ…
Phát triển ngành dịch vụ trong điều kiện cạnh tranh, mở cửa và hội nhập tuy
khó khăn thậm chí là rất nhiều khó khăn trong bước khởi đầu. Nhưng, đó chính là
“thử thách” vô cùng quý báu để các chủ thể kinh doanh dịch vụ trong nước nhận
thức, hành động, xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh mới, hiệu quả, chiếm
lĩnh và thắng thế trong cuộc cạnh tranh ngay trên thị trường dịch vụ, với hơn 86,9
triệu khách hàng là người tiêu dùng Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy kinh tế dịch vụ phát triển vượt bậc,
từ chỗ dịch vụ có mức tăng trưởng âm, sau 25 năm đổi mới đạt tốc độ tăng trưởng
khá cao. Ngành dịch vụ tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo việc làm, tăng thu nhập cho

người lao động và góp phần thúc đẩy tăng trưởng với tốc độ cao các ngành nông
nghiệp, công nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đồng thời, tham gia
tích cực làm tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo ở nước ta.
1.2.3. Yêu cầu của việc nâng cao chất lƣợng dịch vụ
Tăng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ sẽ giúp giảm chi phí kinh doanh cho
toàn bộ nền kinh tế. Một ví dụ của mối liên kết lẫn nhau là tác động cấp số nhân của
việc giảm chi phí tiếp vận và tăng cường chất lượng dịch vụ này tại Việt Nam. Thực
hiện điều này sẽ góp phần tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt
Nam và nhờ đó sẽ giúp các nhà sản xuất các nguyên liệu xuất khẩu (nông dân và
ngư dân) được tiếp cận tốt hơn, ít chi phí hơn tới các thị trường nước ngoài. Tăng
tiếp cận tới các thị trường xuất khẩu sẽ tạo ra tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho người
sản xuất và đóng góp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng nông
thôn, vốn trước đây chịu bất lợi vì các dịch vụ tiếp vận có chất lượng thấp.

21


×