Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

CHUYÊN đề tô HOÀI và TRUYỆN NGẮN vợ CHỒNG a PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.2 KB, 4 trang )

CHUYÊN ĐỀ TÔ HOÀI VÀ TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ
I. VÀI NÉT VỀ NHÀ VĂN TÔ HOÀI
Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một
nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông
được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật
Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký,
Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở
Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.
Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị Trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Đông trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng
Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa
Đô,quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam[2]. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô
Lịch và phủ Hoài Đức.
Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán
hàng, kế toán hiệu buôn,... nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông
nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943,
Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu
hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện
Tây Bắc.
Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu
mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác
nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệmsáng
tác.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi.
II. TÁC PHẨM VỢ CHỒNG A PHỦ
1. Xuất xứ
Tập “Truyện Tây Bắc” được Tô Hoài viết năm 1952. Gồm có 3 truyện: “Vợ chồng A
Phủ”, “Chuyện Mường Giơn”, “Cứu đất cứu Mường”, Năm 1952 , theo bộ đội vào giải
phóng Tây Bắc, một chuyến đi dài 8 tháng, Tô Hoài đã mang về xuôi bao kỷ niệm sâu
sắc về người và cảnh Tây Bắc. “Truyện Tây Bắc” đã được tặng giải Nhất, Giải thưởng
của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945-1955. Truyện “Vợ chồng A Phủ” là truyện hay nhất


trong tập truyện này.
2. Tóm tắt
Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống
lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi một
nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt
cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con
ngựa, lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón tự tử. Thương cha già, Mị chết
không đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lòng
phơi phới. Cô uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trói đứng
Mị bằng một thúng sợi đay.
A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành
người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bò. Pá Tra đã
trói đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trôi qua, A Phủ sắp
chết đau, chết đói, chết rét thì được Mị cắt dây trói cứu thoát. Hai người trốn đến Phiềng
Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở
thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.


3. Phân tích
3.1. Mị-con dâu gạt nợ nhà Pá Tra.
(Đoạn 1. từ đầu -> A sử đi chơi bị đánh vỡ đầu):
a. Truyện mở đầu = lời giải thích về chân dung của Mị.
+ Cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá.
+ Cô ấy luôn cúi mặt, mặt buồn rười rượi .Việc làm và chân dung của Mị hoàn toàn
đối lập với sự giàu sang, tấp nập của g/đình Thống lý => Cách giải thích tạo sự chú ý
cho
người
đọc,
gợi
ra

một
số
phận
éo
le
của
Mị.
b. Hoàn cảnh Mị phải làm dâu nhà Thống Lí.
+ Bố mẹ Mị nghèo không có tiền làm đám cưới nên vay tiền nhà TLí -> trả mãi không
hết, Mị lớn bị bắt về làm dâu gạt nợ => Số phận của người dân nghèo, người PN
nghèo ở miền núi rất bi thảm; sự bất công của XH miền núi lúc đó.
c.Nhân vật Mị.
- Trước khi về làm dâu nhà Thống Lí.
+ Mị là thiếu nữ xinh đẹp, có tài thổi sáo, thổi lá. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản
đứng nhẵn cả chân vách buồng cô => Báo hiệu vẻ đẹp chàn đầy của tâm hồn.
+ Mị từng có người yêu, từng được yêu & nhiều lần hồi hộp trước tiếng gõ của của
bạn tình => Cuộc sống của Mị tuy nghèo về vật chất song rất h/phúc. Vì chữ hiếu Mị
đành làm dâu gạt nợ.
- Khi bị bắt về làm dâu nhà TL: đêm nào Mị cũng khóc, Mị trốn về nhà, định ăn lá
ngón tự tử. => Sự phản kháng quyết liệt của Mị ,Mị không muốn sống cuộc đời
của kẻ nô lệ trong nhà TL, muốn sống theo mong muốn của mình, cũng như nàng
k/khát một cuộc sống có h/p, có t/y.
*Sau đó ; ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen đi.Mị tưởng mình là con trâu con ngựa,
Mị cúi mặt không nghĩ ngợi , chỉ nhớ những việc không giống nhau, mỗi ngày Mị
không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Mị ở trong buồng kín mít…thì
thôi.Tô Hoài đã diễn tả được thứ ngục thất tinh thần, giam hãm cách li tâm hồn cô với
cuộc đời, huỷ hoại tuổi xuân & sức sống của cô. Đó cũng chính là tiếng nói tố cáo chế
độ pk miền núi chà đạp lên quyền sống của con người.Khi cha chết, Mị không nghĩ
đến việc ăn lá ngón tự tử chết nữa nhưng cô buông xuôi, sống vật vờ. Mị đáng
thương, không còn tha thiết với c/sống mà chỉ sống như một cái xác không

hồn.=>Nghệ thuật miêu tả tinh tế, chọn lọc chi tiết đặc sắc đã khắc họa được hình
tượng nhân vật Mi: tiêu biểu, điển hình.
- Đêm tình mùa xuân và sự thức tỉnh của Mị
+ Mùa xuân TB: gió thổi…, gió rét rất dữ dội …những chiếc váy hoa đem ra phơi…
đán trẻ chờ chết cười ầm… -> mùa xuân TB đặc trương và làm say lòng người bằng
hương rượu ngày tết.+ Mị uống rượu, uống ừng ực từng chén -> say nên quên đi thực
tại và sống lại ngày trước: Mị thổi sáo giỏi, Mị “uống rượu bên bếp và thổi sáo, thổi
lá…theo Mị”. Mị nghĩ lại mình từng có một quảng đời HP, đầy kỉ niệm, Mị thấy mình
phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước, Mị
thấy mình còn trẻ lắm… Mị nhớ rằng mình vẫn là một con người và có quyền đi chơi
ngày tết. Mị muốn đi chơi, muốn vợt qua cái nhà tù giam hãm mình bấy lâu nay.
+ Tiếng sáo gọi bạn: được miêu tả nhiều lần và có nhiều biến đổi khác nhau: “Ngoài
đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”Tiếng
sáo thực tại đưa Mị về những mùa xuân trước, tiếng sáo tâm hồn đưa cô đến niềm
hạnh phúc yêu thương. Tiếng sáo trở thành tiếng lòng của người thiếu phụ.=>Mùa
xuân, tiếng sáo, hơi rượu khiến lòng Mị rạo rực, Mị muốn đi chơi. Niềm khao khát
HP đầy nhân bản, tình yêu c/sống tiềm tàng được đánh thức.Trong Mị đầy những mâu
thuẫn chân thực. Mị được đặt trong sự tương tranh giữa một bên là sự sống, một bên
là cảm thức về thân phận. Tình càng xáo động thì lòng càm đớn đau cùng thực tại.


Sức ám ảnh của quá khứ lớn hơn nên Mị đắm chìm vào ảo giác và “quấn lại tóc… cài
áo”, cô không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe hắn nói. Bị AS trói, mị vẫn như
không biết gì. Sau đó Mị ý thức thực tại khi “Cổ tay … thịt”.
3.2. A Phủ, người ở gạt nợ cho nhà thống lí.
-A Phủ đánh AS, bị bắt, bị những hủ tục của bọn cường hào miền núi biến thành nô
lệ. Anh là sự đối lập giữa hai con người trong một: A Phủ cường tráng, gan góc, bất
khuất và A Phủ cúi đầu chấp nhận sự trừng phạt -> Am hiểu tâm lí nhân vật của nhà
văn.- A Phủ nghèo nhưng sống tự lập, chân chất, thẳng thắn; anh lao động giỏi, thổi
sáo hay và yêu nghệ thuật. A Phủ là đứa con của núi rừng tự do nhưng không tránh

được kiếp sống nô lệ.=> Cuộc đời của AP và Mị có nhiền nét tương đồng.
3.3.Sự gặp gỡ của những con người cùng cảnh ngộ.
- A Phủ làm tôi tớ cho gia đình nhà thống lí vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất một con bò
nên thống lí trừng trị: “Trói đứng…hơi lúc lắc”.
- A Phủ chỉ đứng nhắm mắt cho đến đêm khuya.
- Trong những đêm dài mùa đông lạnh và buồn, Mị đến bếp lửa hơ tay-bếp lửa như
người bạn tri âm của Mị-và Mị thấy A Phủ mắt mở trừng trừng, Mị vẫn thản nhiên hơ
tay chỉ biết ngọn lửa, A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì Mị vẫn thế thôi -> Khi A Phủ
bị trói đứng, Mị gần như vô tri, cô lặng lẽ như cái bóng. H/ảnh Mị bên bếp lửa khắc
họa rõ nét nỗi héo hắt của người đàn bà trong đêm dài tối đen vùng cao.-Đêm mùa
đông khác Mị dậy thổi lửa, liếc mắt trông sang thấy “A Phủ một dòng nước mắt…
đen xạm lại”, Mị thấy A Phủ khóc và nhớ lại việc Mị bị trói -> thấy “chúng nó thật
độc ác, chỉ đêm mai là người kia chết, ta chỉ con biết đợi ngày rũ xương ỡ đây”. =>
Giọt nước mắt của A Phủ là giọt nước làm tràn cốc đưa Mị ra khỏi cơn mê của thực
tại trở về nỗi nhớ, nhớ đến nỗi khổ của mình, xót xa cho mình và cảm thấy thương A
Phủ. Tô Hoài rất am hiểu tâm lí con người, phải thương mình, nhận ra mình cũng đau
khổ thì mới hiểu được người khác. Mị thương A Phủ, tình thương lớn dần. + Mị
tưởng tượng… thấy sợ và úc này tình thương A Phủ lớn hơn tình thương bản thân, là
cơ sở để Mị cởi trói cho A Phủ.+ Mị “rón rén bước… đi ngay” -> sau khi giúp đỡ
được A Phủ, giải quyết được tình thương người thì Mị lo sợ cho tai họa của mình,
thương mình. Sự lo lắng ấy giúp Mị có sức mạnh để cùng thoát chạy theo A Phủ, thay
đổi số phận mình.
Trong con người Mị đã lóe lên hi vọng, khát vọng sống lại bừng lên.
4.Chủ đề
Sự thống khổ của người Mèo ở Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất và lũ
Tây đồn. Sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc và tham gia kháng chiến, giải
phóng quê hương.
5.Nội dung
5.1. Giá trị hiện thực
- Bọn chúa đất, bọn thống lí cấu kết với giặc Pháp, được bọn Tây đồn cho muối về bán,

ăn của dân nhiều, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc phiện nhất làng.
- Pá Tra cho vay nợ lãi, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Tuổi xuân và hạnh
phúc bị cướp mất. Mị sống khổ nhục hơn con trâu, con ngựa.
- A Phủ vì tội đánh con quan mà bị làng xử kiện, bị đánh, bị phạt vạ, trở thành kẻ ở nợ
cho Pá Tra.
- Cảnh Mị bị A Sử trói đứng. Cảnh A Phủ bị trói cho đến chết vì tội để hổ bắt mất bò.
- Cảnh bọn Tây đồn Bản Pe càn quét khu du kích Phiềng Sa: cướp lợn, giết người, đốt
phá vô cùng tàn bạo.
5.2. Giá trị nhân đạo
Nỗi đau khổ của Mị và sự vùng dậy của Mị toan ăn lá ngón tự tử…, uống rượu, mặc váy
áo đi chơi xuân, cắt dây trói cứu A Phủ, cùng chạy trốn.


- Nỗi khổ đau của A Phủ: sống cô độc, bị đánh, bị phạt vạ… vì tội đánh con quan. Bị trói
cho đến chết vì tội để hổ bắt mất bò.
- Được Mị cứu thoát. Cùng chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ nên vợ nên chồng.
Vừa giành được tự do, vừa tìm được hạnh phúc
- A Phủ kết nghĩa anh em với A Châu cán bộ. Trở thành chiến sĩ du kích quyết tâm đánh
giặc để giải phóng bản Mèo…
- Mị và A Phủ: từ đau khổ, thân phận nô lệ, bị chà đạp dã man đã vùng dậy tự cứu giành
được tự do, hạnh phúc; được giác ngộ cách mạng, đứng lên cầm súng chống lại bọn cướp
nước và lũ tay sai.
- Những đêm tình mùa xuân của trai gái Mèo được nói đến như một phong tục chứa chan
tinh thần nhân đạo, giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
6.Nghệ thuật
6.1. Tả cảnh mùa xuân trên rẻo cao: hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au,
đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát. Chiếc váy Mèo như con bướm sặc sỡ. Tiếng sáo,
tiếng hát tự tình của trai gái Mèo – đầy chất thơ dung dị và hồn nhiên.
6.2. Kể chuyện với bao chi tiết hiện thực, bao tình tiết cảm động. Dựng người, dựng cảnh
sống động: cảnh xử kiện, cảnh Mị cắt dây trói, cảnh ăn thề…

6.3. Sử dụng các câu dân ca Mèo… tạo nên phong vị miền núi đậm đà: “Anh ném pao,
em không bắt-Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Tóm lại, truyện “Vợ chồng A Phủ” khẳng định một bước tiến mới của Tô Hoài, là thành
tựu xuất sắc của văn xuôi kháng chiến thời chống Pháp. Câu văn xuôi trong sáng, thanh
thoát, nhuần nhị.



×