Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

HOÀN THIỆN CÔNG tác kế TOÁN NGUYÊN vật LIỆU, CÔNG cụ DỤNG cụ tại CÔNG TY TNHH sản XUẤT tôn và sắt THÉP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.69 KB, 113 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với sự biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng
dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Văn Khôi đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành
đề tài này bằng tất cả sự chỉ dẫn, dạy bảo tận tình và đầy trách nhiệm.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám Hiệu, Phòng sau đại học, các thầy
cô giáo, các chuyên gia đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn khoa học lớp K21 sư
phạm kỹ thuật, đã quan tâm giúp đỡ tôi trong thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện
và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khóa học này.
Bên cạnh sự cố gắng, song không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót,
rất mong nhận dược sự đón nhận được sự chỉ bảo tận tình hơn nữa của các thầy cô
giáo và các bạn đồng nghiệp để cuốn luận văn này được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nôi, ngày 19 tháng 10 năm 2013
Tác giả

Lê Hồng Vân


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
BGDĐT
CNTT
GV
HS
NCGD
NXB
SGK
THCS
THPT

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Công nghệ thông tin


Giáo viên
Học sinh
Nghiên cứu Giáo dục
Nhà xuất bản
Sách giáo khoa
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ BẢNG BIỂU
42. Sáu năng lực chính của giáo viên Đan Mạch...............................................................100
45. Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy...........101


MỤC LỤC
42. Sáu năng lực chính của giáo viên Đan Mạch...............................................................100
45. Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy...........101
47. Những kỹ năng thiết yếu cho thành công.................................................................101


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ nhu cầu đổi mới trong giáo dục đào tạo ở nước ta
Sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhu cầu của thực tiễn xã hội
đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Điều 5: Yêu cầu về nội dung, phương
pháp giáo dục, Luật Giáo dục 2005). Nghĩa là, nhà trường phải tổ chức hoạt
động dạy và học như thế nào để sau khi ra trường học sinh có khả năng tự học,

tự thích nghi với hoàn cảnh mới.
Trong xã hội hiện đại, khi việc tìm kiếm thông tin ngày càng trở nên dễ
dàng hơn, thì nội dung người thầy truyền cho trò không chỉ là tri thức nữa mà
phải là cảm hứng tìm kiếm và khao khát trau dồi tri thức. Đây cũng chính là
nền tảng của mối quan hệ thầy và trò trong xã hội hiện đại.
1.2. Xuất phát từ đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi
Lứa tuổi THCS, một lứa tuổi có vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển
của trẻ em, đây là giai đoạn chuyển từ tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Bên
cạnh những phát triển mạnh mẽ về thể chất, học sinh ở lứa tuổi này bắt đầu
hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ, nhân cách phù hợp cho việc bồi
dưỡng năng lực tự học cho các em. Ở lứa tuổi này, học sinh THCS đã có khả
năng phân tích, tổng hợp, liên tưởng phức tạp hơn. Trí nhớ của học sinh lứa
tuổi này cũng tăng cường tính chất chủ định, có tổ chức, có tiến bộ trong việc
ghi nhớ tài liệu trừu tượng. Ở lứa tuổi này ghi nhớ máy móc ngày càng nhường
chỗ cho logic và ghi nhớ ý nghĩa. Chính vì vậy, đây là lứa tuổi thích hợp cho
việc hình thành năng lực tự học.

1


Giáo viên phải trang bị cho học sinh một phương pháp tự học để biết làm
chủ kiến thức. Bởi vì, khi học sinh có kỹ năng tự học thì thói quen đó sẽ trở
thành ý chí và khơi dậy được nội lực ham học vốn có trong mỗi con người.
Hình thành khả năng tự học cho học sinh THCS là phù hợp với đặc điểm
của lứa tuổi và cần thiết cho việc dạy học. Người giáo viên giữ vai trò quyết
định trong hoạt động học tập của học sinh ở lứa tuổi này vì vậy cần phải có
những biện pháp dạy học thích hợp hình thành năng lực tự học cho các em.
1.3. Xuất phát từ nhiệm vụ và đặc điểm đặc trưng của môn học
Nhiệm vụ cơ bản của môn học Công nghệ là trang bị cho học sinh những
kiến thức để ứng dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc thực

hiện mục tiêu trên là chưa hiệu quả, đặc biệt là môn Công nghệ ở các trường
THCS. Do nhiều nguyên nhân khác nhau cả chủ quan lẫn khách quan nên việc
học tập môn Công nghệ của học sinh vẫn thiên về lí thuyết, học sinh ít được
trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực hành, thực nghiệm, sử dụng và làm
quen với quy trình sản xuất kỹ thuật cụ thể, ít được tiếp xúc với các thiết bị kỹ
thuật, chưa được tham gia vào lao động sản xuất thực tế. Vì vậy học sinh không
hứng thú học tập, khả năng tư duy, năng lực vận dụng kiến thức kĩ thuật vào
thực tiễn để giải quyết các vấn đề kỹ thuật còn yếu. Bên cạnh đó một thực trạng
khá phổ biến hiện nay đó là số đông giáo viên giảng dạy môn Công nghệ là
giáo viên kiêm nhiệm ít được đào tạo bài bản nên việc áp dụng các biện pháp
dạy học còn hạn chế. Từ những lí do trên tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu
là: "Phát triển năng lực tự học cho hoc sinh trung học cơ sở trong dạy học
môn Công nghệ" với mong muốn đóng góp sức lực của mình vào công cuộc
đổi mới phương pháp dạy học môn học, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo
dục trong thời đại mới, dạy học theo hướng phát huy tích cực, tự lực của người
học ngay khi còn học tập trong nhà trường, góp phần định hướng nghề nghiệp
cho học sinh khi rời khỏi ghế nhà trường tiếp tục học tập chuyên sâu hoặc tham
gia vào lao động sản xuất.

2


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu và đề xuất biện pháp dạy học nhằm hình thành và phát triển
năng lực tự học cho học sinh trung học cơ sở trong dạy học môn Công nghệ.
3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn học công nghệ ở trường trung học cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Năng lực tự học của học sinh trung học cơ sở.

- Biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh ở
trường trung học cơ sở.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Năng lực tự học, biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh
thông qua dạy học môn Công nghệ lớp 8 ở trường THCS.
- Đối tượng khảo sát: Học sinh khối 8 tại trường THCS Phú Lộc – Phù
Ninh – Phú Thọ.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xây dựng và vận dụng được các biện pháp hình thành năng lực tự
học cho học sinh THCS trong bài dạy môn Công nghệ sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài phải giải quyết các nhiệm
vụ sau:
5.1. Nghiên cứu xác lập cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển
năng lực tự học cho hoc sinh trung học cơ sở trong dạy học môn Công nghệ.
5.2. Đề xuất biện pháp phát triển năng lực tự học cho hoc sinh trung học
cơ sở trong dạy học môn Công nghệ lớp 8.
5.3. Tiến hành kiểm nghiệm để đánh giá các đề xuất của đề tài.

3


6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích lý thuyết, tổng hợp lý thuyết: Nghiên cứu các
tài liệu về lý luận dạy học, về tự học. Phân tích, tổng hợp, hồi cứu tư liệu, so
sánh,… để xác định mục đích nghiên cứu và các nhiệm vụ của đề tài.
- Phương pháp quan sát sư phạm, điều tra phỏng vấn: Điều tra khảo sát
tình hình dạy học môn Công nghệ ở trường THCS hiện nay để tìm hiểu thực

trạng và kiểm nghiệm đánh giá các đề xuất của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác: Phương pháp chuyên gia, thực
nghiệm sư phạm, thống kê toán học.... để thu thập và xử lí số liệu trong kiểm
nghiệm đánh giá các đề xuất của đề tài.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển năng lực tự
học cho học sinh trung học cơ sở trong dạy học môn Công Nghệ.
Chương 2: Một số biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học
cho học sinh THCS trong dạy học môn Công nghệ.
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THCS TRONG DẠY HỌC
MÔN CÔNG NGHỆ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển năng lực
tự học cho học sinh ở ngoài nước
Ngay từ thời cổ đại, vấn đề phát huy tính tự học của người học đã được
các nhà giáo dục học quan tâm. Điển hình là Xocrat với phương pháp vấn đáp
Ơristic. Đến thế kỉ XVII, J.A.Komenxki, trong tác phẩm nổi tiếng “Lý luận dạy
học”, lần đầu tiên trong lịch sử đã nêu tính tự giác, tính tích cực là một trong
những nguyên tắc dạy học. Sau đó, Rutxo J.J chủ trương phải làm cho trẻ em
tích cực tự mình giành lấy tri thức bằng con đường khám phá ra nó. Distervec
đã nêu lên câu nói bất hủ: “Người giáo viên tồi là người giáo viên cung cấp

cho học sinh chân lý, còn người giáo viên giỏi là người dạy cho học sinh đi tìm
chân lý”. Usinxki K.Đ cho rằng tính tích cực, độc lập của học sinh trong quá
trình dạy học được coi là “cơ sở vững chắc cho một sự học tập có hiệu quả”
[6]
Cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, nhờ sự thành công của phong trào
nhà trường mới tích cực (chủ động) vấn đề này đã được nhiều nhà giáo dục và
tâm lý học chú ý nghiên cứu và vận dụng. L.Dewey đã thành lập “ nhà trường
tích cực” (chủ động) và đã phát triển cách học tập nhóm của học sinh. Ông đã
xây dựng triết học thực dụng mà ông gọi là chủ nghĩa công cụ “chính từ triết
học này ông đã xây dựng một khoa học sư phạm rất tích cực (chủ động) về sự
làm việc chung của học sinh”. Theo ông môi trường ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển nhân cách của trẻ do đó phải tạo cho trẻ một môi trường càng gắn với

5


đời sống càng tốt. Hơn nữa, chỉ có tạo nên môi trường làm việc chung mới giúp
cho trẻ có thói quen trao đổi kinh nghiệm thực hành, có cơ hội phát triển lý
luận và những khả năng trừu tượng hóa. [6]
Ở Pháp, vào năm 1920 đã hình thành những nhà trường mới, đặt vấn đề
phát triển năng lực trí tuệ của trẻ, khuyến khích các hoạt động do chính học
sinh tự quản. Xu hướng này đã có ảnh hưởng sang Mỹ và nhiều nước Châu Âu.
Những “lớp học mới” này mỗi hoạt động đều tùy thuộc vào sáng kiến, hứng
thú, lợi ích, nhu cầu của học sinh. Giáo viên là người giúp đỡ, phối hợp các
hoạt động của học sinh, hướng vào sự phát triển nhân cách của học sinh. [15]
Ở Nga, nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề phát huy tính tích cực nhận
thức của học sinh như tác giả Aristova, L.Babanxki, K. Đanhilov, M.A.
Exipov, I.F.Lecne….)
Trong những hình thức dạy học mới người ta đặt mục đích giáo dục
không chỉ là dạy học vấn mà còn là đào tạo. Từ đó xuất hiện phương pháp giáo

dục theo mục tiêu, với chương trình được thiết kế mềm theo khả năng của cá
nhân người học, với sự nhấn mạnh đào tạo về mặt phương pháp, được coi như
một mục đích dạy học. Học sinh được trang bị một cách hệ thống khả năng và
công cụ trí tuệ cho phép giải quyết thành công những vấn đề, hoàn thành những
mục tiêu đề ra. [6]
Socrate, Hy Lạp (469 -390 TCN) đã từng nêu lên khẩu hiệu “Anh phải
tự biết lấy anh”. Phương pháp này thường đựơc gọi là phương pháp Xocrat
nhằm mục đích phát hiện “chân lý” bằng cách đặt câu hỏi để gợi cho người
nghe dần dần tìm ra kết luận mà ông muốn dẫn người ta tới. Ông gọi phương
pháp này là “phép đỡ đẻ”. Pê-xta-lo-zi (1976 – 1827) được mệnh danh là ông
thầy của những ông thầy. Ông nói: “Muốn đưa một người đi đâu thì phải dắt
từ chỗ người ấy đứng”. “Học tập không nên nhảy, trí tuệ của trẻ em như một
đóa hoa tươi, trước hết còn là một hạt, dần dần lớn lên đâm ra lá rồi nụ, sau

6


cùng mới nở hoa”. Dewey (1859-1952) chủ trương giáo dục phải dựa vào kinh
nghiệm thực tế của trẻ em. Việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú,
phải để trẻ em độc lập tìm tòi, thầy giáo chỉ là người tổ chức, người thiết
kế, người cố vấn. [6]
Đầu thế kỷ XX, trong phong trào “Nhà trường mới, người ta đề cao sự
hoạt động tích cực của học sinh, khuyến khích học sinh xếp thời gian học tập
theo khả năng của mình, tự mình học lấy cho mình, tự mình thấy trách nhiệm
của mình trước công việc. Học sinh nào giỏi thì học nhanh, học sinh nào kém
thì tiến chậm, không ai đợi ai, không cần có sự gò ép. Họ chủ trương để cho trẻ
em được hoàn toàn tự do, phát triển trong từng trẻ em những năng khiếu riêng
biệt. Những tư tưởng này đã được nhiều tác giả đề cập đến như O.Decroly,
C.Freinel, J.Piagel…. và đã được thể hiện trong một số phương pháp giáo dục
mới rất phát triển ở các nước Âu, Mỹ vào đầu thế kỷ XX. Đó là:

1. Kế hoạch Dantơn.
2. Phương pháp thiết kế.
3. Kế hoạch Ga-ri.
4. Phương pháp Uyn-net-ca. [6]
Nói về vấn đề tự học ở Phương tây đã có câu: Dạy là cách học tốt nhất.
Tác giả Gibbon cho rằng, mỗi người đều phải nhận hai thứ giáo dục, một thứ
do kẻ khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn do chính mình tạo lấy” [15].
Nhà bác học Nga Menđêlêep một giáo viên về hóa học khi giúp học sinh
ôn tập ông có ý nghĩ sắp xếp các nguyên tố hóa học theo những tiêu chuẩn nhất
định. Ông đã kết hợp mục đích giảng dạy với nghiên cứu khoa học và đã phát
minh ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học [4].
Ngay từ thời xa xưa, Khổng Tử đã ý thức được tầm quan trọng của việc
tự học đối với con người. Ông là người luôn say sưa học tập và khám phá

7


những điều mới, ông luôn có tinh thần tự học hỏi, tự bồi dưỡng và biết cách tự
học (học cái gì, học ở đâu, học của ai) [15].
1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu vấn đề phát triển năng lực
tự học cho học sinh tại Việt Nam
Ở nước ta, phương hướng tích cực hóa quá trình học cũng đã được quan
tâm từ những năm 1960 thể hiện qua các chủ trương “biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo”, qua nhiều sách báo, luận văn, luận án đề cập về
phát huy tính tích cực của học sinh. Đặc biệt, phương pháp tích cực đã được
thử nghiệm từ năm 1993 đã được giới thiêu cụ thể qua: “Một số vấn đề về
phương pháp giáo dục” (Nguyễn Kỳ và Dương Xuân Nghiên, Vụ giáo viên,
1993), “Phương pháp giáo dục tích cực”, (Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục, 1994)

Nghị quyết TW4 khóa VII đã xác định: “Khuyến khích tự học” là phải

“Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh
năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết TW2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải “Đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học” [6]
Bàn về việc tự học Bác Hồ đã viết: “Cách học tập, phải lấy tự học làm
cốt, phải biết tự động học tập…” [4]
Phạm Văn Đồng đã viết trong phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực – một phương pháp vô cùng quý báu. Tạp chí NCGD số 12/1994. “Mục
tiêu giáo dục là đào tạo con người việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri

8


thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11] hay “Điều chủ
yếu không phải là nhồi nhét một mớ kiến thức hỗn độn…mà là phương pháp suy
nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết
vấn đề” [19].
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, chúng ta đã từng có phong trào học
tập dân chủ, phong trào học tổ, nhóm, có chủ trương biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh, khẩu
hiệu “tất cả vì học sinh thân yêu”.
Nghị quyết TW2 (khóa VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy
sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự

học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh
phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Đó là
sự khuyến khích quan điểm dạy học tích cực, thể hiện tư tưởng dạy học “lấy
người học làm trung tâm” [6].
Trong thư gửi hội thảo khoa học “Nghiên cứu, phát triển tự học – tự đào
tạo” Đỗ Mười đã viết: “Tự học, tự đào tạo – là một con đường phát triển suốt
đời của mỗi người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai
sau, đó cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt
Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng
lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình

9


tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học
[22].
Vì vậy, một cuộc vận động tích cực, có kế hoạch và phương pháp, kiên
trì và khẩn trương thường xuyên và rộng khắp nhằm chuyển đổi dạy học thụ
động, dạy thêm, học thêm tràn lan, học lệch, học tủ, học chay… từng bước
bước nâng cao chất lượng đào tạo, xây dựng một nguồn nhân lực tốt phục vụ
cho công cuộc kiến thiết đất nước.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa với sự bùng nổ của
công nghệ thông tin của những tri thức mới, sự tăng lên gấp bội của sáng tạo
công nghệ và kỹ thuật, sự mở rộng của các nghành nghề …. càng đòi hỏi con
người có năng lực tự học, tự đào tạo để thích ứng. Con người phải được chuẩn
bị và tự chuẩn bị cho mình những năng lực, phẩm chất cần thiết để ngày càng
đạt được hiệu quả làm việc, lao động và cống hiến tốt hơn [4].
Những tư tưởng về tự học đã được nhiều tác giả, nhà hoạt động giáo dục
trình bày trong các công trình của mình như GS. TSKH. Nguyễn Cảnh Toàn
trong cuốn “Luận bàn về giáo dục Việt Nam”, GS. Trần Kiều, Nguyễn Bá

Kim, … Khoa học giáo dục nước ta cho đến nay đã ghi nhận rất nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề tự học. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu mang
tính tổng hợp tri thức đã nghiên cứu và những định hướng biện pháp chung. Về
đối tượng, các nghiên cứu chủ yếu hướng đến đối tượng sinh viên với việc tự
học, tự nghiên cứu trong giáo dục đại học, cao đẳng, trung học phổ thông.
Những công trình nghiên cứu về việc hướng dẫn phương pháp tự học cho học
sinh lứa tuổi trung học cơ sở còn rất hạn chế.
GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra cách học “sáu mọi” như sau: “học
mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học bằng mọi sách, học trong mọi hoàn
cảnh, học qua mọi nội dung” nói lên tầm quan trọng của tự học vì giáo viên

10


không thể lúc nào cũng có mặt cùng học trò để thực hiện “sáu mọi”. Giáo viên
chỉ có thể gợi ý, hướng dẫn trên lớp [22].
Theo kết quả nghiên cứu trong luận án tiến sĩ “phát triển năng lực tự
học vẽ kỹ thuật trong đào tạo giáo viên Công nghệ” của tác giả Nguyễn Kim
Thành đã đưa ra một số giải pháp phát triển năng lực tự học vẽ kỹ thuật trong
đào tạo giáo viên Công nghệ như: Tự đọc tài liệu, phát triển năng lực tự học
cho sinh viên trong bài giảng, tổ chức các hoạt động tự lực của sinh viên trong
bài giảng, tổ chức các hoạt động tự lực của sinh viên, tập dượt nghiên cứu khoa
học, biên soạn tài liệu tự học, bồi dưỡng kỹ năng vẽ hình cho sinh viên [14].
Tác giả Bùi Công Viên trong luận văn thạc sĩ đã đưa ra 4 giải pháp nhằm
nâng cao khả năng tự học vẽ kỹ thuật cho sinh viên như sau: Xây dựng bài học
trên mạng (Web Quest), xây dựng Group học tập, trang bị cho sinh viên khả
năng khai thác, tìm kiếm thông tin trên mạng, thiết kế các tài liệu điện tử định
hướng tự học cho sinh viên [27].
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu và thực tế cho thấy rằng vấn
đề tự học là một vấn đề đã được khai thác và nghiên cứu từ rất lâu dưới nhiều

hình thức cũng như ở những góc độ, quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, có thể
thấy dù là ở thời đại nào hay trong hoàn cảnh nào thì tự học vẫn luôn được coi
là mục tiêu mà nghành giáo dục hướng đến. Có thể thấy vấn đề tự học không
còn là vấn đề mới, ngay từ thời cổ đại nó đã được quan tâm và đưa vào ứng
dụng trong thực tiễn. Ở Việt Nam, đã có rất nhiều tác giả có những công trình
nghiên cứu về vấn đề này điển hình như tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn
Kim Thành, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Thị Như Thế… Tuy nhiên, đối tượng
chủ yếu là học sinh THPT và sinh viên các trường Đại học, cao đẳng. Chính vì
vậy, tác giả muốn đưa vấn đề tự học vào dạy học môn Công nghệ bậc THCS.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.2.1. Phát triển

11


Theo từ điển tiếng việt [13]: “Phát triển” có nghĩa là biến đổi hoặc làm
cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp.
Hiểu theo phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả cho rằng mục đích
nghiên cứu của đề tài phải đưa ra các biện pháp nhằm làm cho năng lực tự học
của học sinh THCS biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao trong
dạy học môn Công nghệ.
1.2.2. Năng lực là gì?
Theo từ điển tiếng Việt [13] thì năng lực có hai nghĩa: thứ nhất, năng lực
là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt
động nào đó. Thứ hai, năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người
khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Theo từ điển Giáo dục học [28] năng lực là khả năng được hình thành
hoặc phát triển, cho phép một con người đạt thành công trong một hoạt động
thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp. Năng lực được thể hiện ở khả năng thi hành
một hoạt động, thực hiện một nhiệm vụ. Năng lực có yếu tố bẩm sinh và phải

do rèn luyện mà chiếm lĩnh được. Năng lực được coi như khả năng của con
người khi đối mặt với những vấn đề mới và những tình huống mới.
Theo PGS.TS Nguyễn Trọng Khanh trong “phát triển năng lực và tư duy
kỹ thuật” thì năng lực được hiểu “là một thuộc tính nhân cách phức hợp nó
bao gồm kỹ năng, kỹ xảo cần thiết, được định hình trên cơ sở kiến thức được
gắn bó đa dạng với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho con người có thể
đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công việc” [23].
Theo tác giả Nguyễn Kim Thành thì năng lực được hiểu: Năng lực là
hội tụ của nhiều yếu tố trong một cá nhân như kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm
phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý, có khả năng hoàn thành nhanh
chóng, có chất lượng, một hoạt động về thể lực, trí lực và nghề nghiệp trong

12


mọi tình huống xảy ra bằng phương pháp thực hiện của cá nhân đó. Năng lực
có yếu tố bẩm sinh và phải trải qua rèn luyện mà hình thành và phát triển [14].
Vậy theo tác giả thì năng lực được hiểu là sự tổng hợp của nhiều
yếu tố: Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm và trách nhiệm để đáp
ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được
những hiệu quả cao.
1.2.3. Học là gì?
Theo từ điển giáo dục [28]: Học là quá trình nghiền ngẫm, đọc đi đọc lại,
nhắc đi nhắc lại để ghi nhớ, để bắt chước, để làm.
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: Học là cố chiếm lĩnh lấy những
kiến thức và kỹ năng mà loài người đã biết [18]. Trong “Học và dạy cách học”
ông đã tập hợp được ba cách tiếp cận cùng với ba quan niệm chủ yếu sau:
- Cách tiếp cận thứ nhất quan tâm đến kết quả cuối cùng đạt được là sản
phẩm học hay hành vi nhận biết được. Đó là cách tiếp cận theo hành vi – đáp
lại phản xạ có điều kiện của Pavlop, hay theo hành vi - tác động phản xạ có

điều kiện của Skinner: “học là quá trình làm biến đổi hành vi từ kinh nghiệm
hay là từ sự tiếp xúc với môi trường sống của chủ thể.”
- Cách tiếp cận thứ hai quan tâm đến quá trình học bằng cách tìm hiểu
những gì đã xảy ra trong trí óc người học, trong hộp đen, tức là cách tiếp cận về
trí tuệ, theo bước chân Piaget với cơ chế đồng hóa, điều ứng, cân bằng.. hay
Vưgotski với vùng phát triển gần. “Học là quá trình biến đổi và cân bằng
cấu trúc nhận thức để thích nghi với môi trường”. “Học là tích hợp, đồng
hóa, điều ứng, “nhập nội” những dữ liệu mới làm biến đổi cấu trúc nhận
thức nội tại hiện có”.
- Cách tiếp cận thứ ba có xu hướng kết hợp hai cách tiếp cận trên thành
một mô hình quá trình thông tin với các thuật ngữ: Thu nhận, xử lý, chương

13


trình hóa… “học là tự tạo ra khả năng xác định vấn đề cần giải quyết, thu nhận,
xử lý thông tin và ứng dụng chương trình giải quyết vấn đề”.
Tác giả đã phân tích và tổng hợp đưa ra một quan niệm có thể ứng dụng
rộng rãi trong thực tiễn thực hành sư phạm:
“Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự
thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu
nhận, xử lý và biến đổi thông tin bề ngoài thành tri thức bên trong con người
mình” [21].
Hay “Bản chất của học có nghĩa là kiến tạo và giữ cho bền chắc một hình ảnh
trong tâm trí” [19].
Tác giả Nguyễn Kim Thành hiểu về khái niệm học như sau: “Học là quá
trình phát triển nội tại, trong đó người học tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm
phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên
ngoài thành tri thức bên trong con người mình, học luôn gắn với nghiên cứu, dù
trong hoàn cảnh nào thì bản thân sự học cũng chứa đựng sự tự học, tự nghiên

cứu” [14].
1.2.4. Tự học
Theo từ điển giáo dục học [28] thì tự học có hai loại: Tự học có hướng
dẫn, có hỗ trợ và tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của người thầy:
+ Tự học có hướng dẫn, có hỗ trợ: Việc học cá nhân và tự chủ, được sự
giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như giáo viên (có hướng dẫn), như
công nghệ giáo dục hiện đại – chương trình và máy dạy học (có hỗ trợ).
+ Tự học không có hướng dẫn trực tiếp của người thầy: Quá trình tự
mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành
không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở
giáo dục, đào tạo… tự học là một hoạt động đòi hỏi phải có tính độc lập, tự

14


chủ, tự giác và kiên trì cao thì mới đạt được kết quả, do đó tự học rất gắn bó
với quá trình tự giáo dục để có được những nét tính cách trên.
Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học có thể xảy ra khi có thầy, có
sách, cả khi không có thầy, không có sách”. Tác giả còn cho rằng tự học với
sách, không có thầy bên cạnh có thể diễn ra ở hai mức: tự học có hướng dẫn từ
xa của thầy và sự trao đổi giữa thầy trò (bằng các phương tiện thô sơ hay hiện
đại) dưới dạng phản ánh và giải đáp thắc mắc, làm bài, chấm bài. Cao hơn mức
“tự học có hướng dẫn” là mức “tự học hoàn toàn” với sách mà không có thầy,
khi gặp khó khăn thì tự mình phải động não, tìm hiểu… hoặc tìm gặp người
khác để trao đổi ý kiến. “Tự học hoàn toàn” là mức mà mọi người phải đạt đến
nếu muốn “học suốt đời”. Quan điểm này của tác giả có thiên hướng về phía
“tự học hoàn toàn” đây được coi ở mức độ tự học rất cao – mức độ nghiên cứu
khoa học. Kiểu học này rất phù hợp với các nhà nghiên cứu [21].
Tác giả Nguyễn Kỳ ở tạp chí nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về
khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra

những tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự
học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình
huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp … Tự học thuộc về
quá trình cá nhân hóa việc học” [4].
GS.Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn đã viết trong bộ sách: “Tuyển tập các tác
phẩm tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu”. Ông đã đưa ra một quan niệm về tự
học: “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu thập thông tin rồi tự mình
động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp)
và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình,
rồi cả động cơ, tình cảm, cá nhân sinh quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh
vực hiểu biết nào đó, một số kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của

15


nhân loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái
mới cũng có thể coi là một hình thức tự học cao cấp” [20].
Những nội dung cơ bản trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Cảnh Toàn thể hiện các khía cạnh sau:
- Cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học vì không ai có thể học
hộ người khác.
- Khi nói học là hàm ý nói đến quan hệ với ngoại lực tức là dạy. Còn khi tự
học là chỉ nét riêng của nội lực của người học “ngoại lực tác động đến nội lực”
như thế nào là thước đo chất lượng dạy học. Tác động đó có thể giải thoát hoặc
kìm hãm.
- Muốn tự học cần phải có tài liệu, sách giáo khoa. Khi có tài liệu, sách
giáo khoa rồi thì việc học có thể diễn ra theo ba cách:
+ Tự học lấy mà hiểu, mà thấm các kiến thức trong sách, qua việc hiểu mà
tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách. Đây là tự học ở mức độ
cao.

+ Có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn, tự học bằng tài liệu hoặc
bằng các phương tiện thông tin viễn thông khác. Đây là tự học có hướng dẫn.
+ Có sách và có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, trong tuần. Đây là
học giáp mặt trên lớp và về nhà tự học có hướng dẫn.
- Đối với học sinh lớn tuổi (bậc trung học phổ thông, đại học), để tự học
đạt kết quả cao cần có “nội dung hướng dẫn tự học”. Bao gồm bốn hướng dẫn
sau đây:
+ Hướng dẫn vạch kế hoạch học tập.
+ Hướng dẫn học sinh học kém tự mình lấp đầy chỗ hổng kiến thức và
học sinh khá giỏi đọc thêm tài liệu.
+ Hướng dẫn học sinh nắm chắc tài liệu mới.
+ Hướng dẫn học sinh đi sâu vào nội dung tài liệu [20].

16


Tác giả Thái Duy Tuyên cho rằng: “Tự học là hoạt động chiếm lĩnh kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo….kinh nghiệm xã hội loài người nói chung của chính
bản thân người học” [19].
Tác giả Bùi Đức Luận quan niệm tự học như sau: “Hình thức tự học là
quá trình học tập mà người học không chịu sự tác động trực tiếp của bộ máy
đào tạo, người học không theo một lớp nào, một trường nào cũng không bắt
buộc phải thực hiện trong một thời gian nào.”[12].
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi
người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến thức
cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội”.
Theo tác giả Lê Khánh Bằng thì tự học (self learning) là “tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh
vực khoa học nhất định” [38].
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự

học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực
tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh
nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến
tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của
chủ thể [38].
Khổng Tử (55 – 479 TCN) chú ý giảng dạy theo đối tượng và chú ý kích
thích của học sinh. Ông nói: “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở
cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có 4 góc, bảo cho
biết 1 góc mà không suy ra 3 góc thì không dạy nữa” Ông còn nói “Cái gì biết
thì cho là biết, cái gì không biết thì cho là không biết, thế mới gọi là biết” [15].
Theo tác giả thì tự học là tự mình khám phá và tiếp thu tri thức trên cơ
sở hướng dẫn của thầy cô. Tự học là học với sự tự giác tích cực và độc lập
cao của từng cá nhân.

17


1.2.5. Năng lực tự học
Theo tác giả Nguyễn Thu Thủy thì “năng lực tự học là khả năng tự
mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương
tự với chất lượng cao” [17].
Năng lực tự học chính là một dạng đặc biệt của năng lực hành động.
Trong các nghiên cứu về năng lực hành động tác giả Bernd Meier và Nguyễn
Văn Cường đã xây dựng cấu trúc năng lực hành động gồm 4 thành phần:
- Năng lực cá thể bao gồm yếu tố bẩm sinh và các phẩm chất, khả năng
như các giá trị đạo đức, văn hóa, trạng thái tâm sinh lý, thái độ, khả năng tự
đánh giá, khả năng trí tuệ (quan sát, phán đoán, phân tích, tổng hợp…) mà quá
trình rèn luyện, bồi dưỡng đã tích lũy được.
- Năng lực chuyên môn là khả năng chiếm lĩnh các kiến thức chuyên
môn bao gồm các kiến thức lý thuyết, khả năng vận dụng lý thuyết, các kỹ

năng kỹ xảo trong lĩnh vực chuyên môn được đào tạo.
- Năng lực phương pháp ở đây được coi là năng lực phương pháp tự học
là khả năng chiếm lĩnh tri thức mới trên cơ sở vốn kiến thức đã có. Năng
lực phương pháp phải dựa trên năng lực chuyên môn và phụ thuộc vào
năng lực cá thể.
- Năng lực xã hội là khả năng ứng xử, giao tiếp và học tập với thầy với
bạn, với cộng đồng. Các năng lực thành phần trên phát triển kéo theo năng lực
xã hội phát triển. Ngược lại năng lực xã hội sẽ tác động làm cho các năng lực
trên ngày càng hoàn thiện hơn.
Tác giả Nguyễn Kim Thành hiểu “Năng lực tự học là tổng thể các năng
lực cá thể, năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp và năng lực xã hội
của người học tác động đến nội dung học trong những tình huống cụ thể nhằm
đạt mục tiêu (bằng khả năng trí tuệ và vật chất, thái độ, động cơ, ý chí… của
người học) chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng” [14].

18


Từ những phân tích ở trên có thể hiểu năng lực tự học: là khả năng tự tổ
chức và quản lý các kế hoạch học tập, sử dụng những kỹ năng tự học như:
kỹ năng đọc tài liệu, kỹ năng ghi chép, kỹ năng giải quyết vấn đề … để khai
thác những tri thức mới dựa trên nền tảng kiến thức sẵn có.
1.3. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
1.3.1. Đặc điểm sinh lí, tâm lí học sinh THCS có ảnh hưởng đến
năng lực tự học
Lứa tuổi THCS là lứa tuổi có vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển của
trẻ em. Đây là giai đoạn chuyển từ tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Bên cạnh
những phát triển mạnh mẽ về thể chất, HS ở lứa tuổi này bắt đầu hình thành
những phẩm chất mới về trí tuệ, nhân cách phù hợp cho việc bồi dưỡng năng
lực tự học cho các em.

1.3.1.1. Cơ sở lý luận tâm lí và giáo dục
Lý thuyết của Pieget nhấn mạnh rằng: Học sinh giữ vai trò rất tích cực
trong việc thích nghi với môi trường, thiết lập lại trạng thái cân bằng giữa chủ
thể và môi trường. Chính sự thích nghi với môi trường này là hoạt động thực
tiễn của học sinh. Ông đã xác định có ba 7 thời điểm phát triển trí khôn ở trẻ
em. Trong đó, trẻ em ở lứa tuổi 13, 14 đã có khả năng tư duy logic rất rõ. Trẻ
em ở lứa tuổi này có khả năng kết hợp các mệnh đề giả thiết với diễn dịch và
kiểm tra chúng bằng thực nghiệm. Như vậy, nhà trường cần có trách nhiệm
phát triển và định hướng những năng lực như vậy để từ đó rút ra được sự giáo
dục và giảng dạy các khoa học nhấn mạnh vào việc tìm tòi khám phá hơn là sự
lặp lại.
Vấn đề dạy học và sự phát triển trí tuệ trong lứa tuổi học sinh đã được
Vưgôtski giải quyết một cách độc đáo và có hiệu quả dựa trên lý thuyết về
“vùng phát triển gần”. “Vùng phát triển gần” là khoảng nằm giữa trình độ phát
triển hiện tại được xác định bằng trình độ độc lập giải quyết vấn đề và trình độ

19


gần nhất mà các em cơ thể đạt được với sự giúp đỡ của người lớn hay bạn hữu
khi giải quyết vấn đề. Như vậy, chỗ tác động tốt nhất cho sự phát triển của trẻ
là tác động vào vùng phát triển gần [8].
Vận dụng vào dạy học, việc học tập của học sinh có bản chất hoạt động:
bằng hoạt động, thông qua hoạt động của bản thân mà chiếm lĩnh được tri thức,
hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ.
Theo quan điểm này, dạy học là liên tiếp tổ chức cho học sinh tự lực hoạt động
để giải quyết vấn đề, qua đó mà chiếm lĩnh kiến thức [37].
Như vậy, đặc điểm tâm lý giáo dục của trẻ ở giai đoạn lứa tuổi THCS
cho thấy học sinh sẽ có khả năng tự học và phát triển được năng lực tự học nếu
người dạy có những tác động thông qua hoạt động phù hợp.

1.3.1.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở
hiện nay
Học sinh THCS ở lứa tuổi này đã có khả năng phân tích, tổng hợp, liên
tưởng phức tạp hơn. Trí nhớ của học sinh lứa tuổi này cũng tăng cường tính
chất chủ định, có tổ chức. Vì vậy học sinh THCS có nhiều tiến bộ trong việc
ghi nhớ tài liệu trừu tượng, ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho logic
và ghi nhớ ý nghĩa. Tư duy trừu tượng và tư duy độc lập dần dần chiếm ưu thế.
Học sinh bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ. Chẳng
hạn các em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, phân loại, hệ thống hóa
để ghi nhớ và tái hiện tài liệu theo cách hiểu của mình. Ở một số học sinh hoạt
động học tập đạt mức phát triển cao và ham hiểu biết nhiều lĩnh vực. Các em
không còn chấp nhận yêu cầu học thuộc lòng của giáo viên. Chính vì vậy, đây
là lứa tuổi thích hợp cho việc bước đầu hình thành năng lực tự học [37].
Xây dựng được năng lực tự học cho học sinh THCS là tạo nền tảng cho
các em phát triển năng lực tự học ở mức độ cao hơn ở bậc THPT và xa hơn nữa

20


là đào tạo được những con người có khả năng tự học, tự nghiên cứu trong một
xã hội học tập suốt đời.
Nét nổi bật trong phát triển nhân cách ở lứa tuổi THCS là tính tích cực
xã hội mạnh mẽ nhằm lĩnh hội các giá trị, chuẩn mực và xây dựng các quan hệ
với người lớn, bạn bè nhằm thiết kế nhân cách cho chính bản thân các em một
cách độc lập. Các em bắt đầu quan tâm đến những phẩm chất nhân cách của
mình và hình thành tự ý thức. Đây là những đặc điểm phù hợp cho giáo viên
giúp học sinh hình thành kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh và kĩ
năng thảo luận nhóm cho học sinh THCS. Phù hợp với những đặc điểm mới
của học sinh THCS và cũng nhằm phát triển trí tuệ và nhân cách toàn diện cho
các em, nội dung dạy học và phương pháp dạy học bậc THCS thay đổi theo

hướng đa dạng hơn. Các em được tiếp xúc với nhiều môn học, nhiều thầy cô
giảng dạy khác nhau. Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối
lượng ghi nhớ tăng lên, vì vậy các em phải học cách ghi nhớ ý nghĩa, phải hình
thành khả năng khái quát, tổng hợp và phát triển tư duy trừu tượng. Những
phẩm chất này hình thành được ở lứa tuổi THCS phụ thuộc chủ yếu vào người
giáo viên.
Vì vậy, hình thành khả năng tự học cho học sinh THCS là phù hợp với
đặc điểm của lứa tuổi và cần thiết cho việc dạy học. Người giáo viên giữ vai trò
quyết định trong hoạt động học tập của học sinh ở lứa tuổi này vì vậy cần phải
có những biện pháp dạy học thích hợp hình thành năng lực tự học cho các em.
Ở tuổi này các em có những nguyện vọng có được vị trí mới trong quan
hệ đối với người lớn, có tính tự lập cao, có sự tự do trong hành động. Ưu điểm
lớn của lứa tuổi thiếu niên là sự sẵn sàng đối với mọi hoạt động học tập để làm
cho nó trở thành người lớn trong con mắt của mình. Học sinh THCS bị cuốn
hút vào các hình thức hoạt động tự lập trên lớp, vào tài liệu học tập có mức độ
phức tạp nhất định, vào khả năng tự xây dựng hoạt động nhận thức của mình.

21


×