Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

CẢM HỨNG THẾ sự TRONG SÁNG tác của lê MINH KHUÊ SAU 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.16 KB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

ơ

PHẠM THỊ HOA

CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG SÁNG
TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam hiện đại
Mã số : 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Quang Hưng

Hà Nội - 2014


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới thầy giáo PGS- TS Lê Quang Hưng, người đã dày công và tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Tổ Văn học Việt
Nam hiện đại, các thầy cô khoa Ngữ văn, Phòng sau đại học , Trung tâm
thông tin thư viện – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận
lợi giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà văn Lê Minh Khuê đã giúp tôi trong việc
tìm hiểu quá trình sáng tác, thu thập thông tin phục vụ cho quá trình nghiên
cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè, người thân trong gia đình đã


khuyến khích động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành khóa học này.
Hà Nội 20 tháng 10 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Hoa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................6
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................13
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................14
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................14
6. Bố cục của luận văn...................................................................................15
NỘI DUNG.....................................................................................................16
CHƯƠNG I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975.............................16
1.1. Khái niệm cảm hứng thế sự trong văn học..........................................16
1.3. Con đường đến với văn chương và quan niệm sáng tác
của Lê Minh Khuê.........................................................................................20
1.3.1. Con đường đến với văn chương của Lê Minh Khuê.............................20
1.3.2. Quan niệm sáng tác của Lê Minh Khuê................................................24
Tiểu kết chương I:...........................................................................................27
CHƯƠNG II. NỘI DUNG THẾ SỰ...............................................................28
TRONG SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975.............................28
2.1. Số phận con người trong chiến tranh..................................................28
2.2. Cuộc sống thời hậu chiến, bao cấp.......................................................42
2.3. Mặt trái của đời sống hiện đại, con người loay hoay

tiếp cận kinh tế thị trường............................................................................49
2.3.1. Mặt trái của công nghệ và đô thị hóa....................................................49
2.3.2. Sức mạnh của đồng tiền........................................................................58
2.3.3. Mảng tối của bức tranh hiện thực xã hội...............................................63


2.4. Niềm tin lạc quan về cuộc đời và con người........................................69
Tiểu kết chương II...........................................................................................77
CHƯƠNG III. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG THẾ SỰ
CỦA LÊ MINH KHUÊ...................................................................................79
3.1. Kết cấu, cốt truyện.................................................................................79
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.............................................................81
3.3. Ngôi kể và điểm nhìn trần thuật...........................................................85
3.4. Giọng điệu trần thuật............................................................................93
3.5. Ngôn ngữ nghệ thuật.............................................................................99
3.6. Biện pháp tu từ....................................................................................106
3.7. Sử dụng yếu tố kỳ ảo...........................................................................110
Tiểu kết chương III:.......................................................................................112
KẾT LUẬN...................................................................................................114
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................116


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1. Với thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước, xã hội Việt Nam từ sau năm 1975 có nhiều biến động và theo đó
văn học có sự chuyển mình rõ rệt. Cảm hứng sử thi, khuynh hướng lãng mạn
của giai đoạn văn học Cách mạng 1945 - 1975 nay đã nhường chỗ cho những
nguồn cảm hứng mới, đặc biệt là cảm hứng thế sự, đời tư, nguồn cảm hứng

nổi bật trong các sáng tác ở hầu hết các thể loại văn học sau năm 1975. Sự
xuất hiện của nguồn cảm hứng này là một bước chuyển mới trong tiến trình
vận động, biến đổi có tính quy luật của văn học Việt Nam hiện đại.
Giai đoạn văn học sau 1975 ghi nhận sự xuất hiện của hàng loạt cây bút trẻ
đầy triển vọng. Đặc biệt là sự “lên ngôi”, sự “thăng hoa” của các cây bút nữ,
họ viết bằng cả tâm, trí, lực và đem đến cho nền văn học nước nhà nhiều đổi
thay, khởi sắc. Cảm hứng thế sự với thái độ phê phán những mặt trái, những
góc tối của xã hội mới, con người mới rất rõ nét trong sáng tác của nhiều tác
giả: Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu....
2. Các tác phẩm của Lê Minh Khuê, chủ yếu là truyện ngắn, đã thu hút
được sự chú ý của nhiều độc giả và giới nghiên cứu. Có thể nói, Lê Minh
Khuê là một cây bút có sức bền, có nội lực. Nhà văn đã tạo cho mình một
tiếng nói riêng, một chỗ đứng riêng khá vững vàng trong lĩnh vực truyện ngắn
nói riêng và nền văn xuôi Việt Nam nói chung. Có tập truyện của bà đã tạo
được những “chấn động” trong đời sống văn học. Lê Minh Khuê là nhà văn
nữ đã đi qua chiến tranh và đã khá thành công với các sáng tác theo khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong giai đoạn văn học thời chiến.
Nhưng khi bối cảnh xã hội thay đổi, bằng sự trải đời, trải nghề, nhà văn đã rất
thức thời và có sự chuyển hướng trong các sáng tác của mình từ khuynh
hướng sử thi cảm hứng lãng mạn sang cảm hứng thế sự với các tác phẩm đi

1


sâu vào hiện thực đời sống xã hội của con người. Cảm hứng thế sự trở thành
cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của Lê Minh Khuê từ sau 1975 ở các
sáng tác của bà, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của văn học nước ta thời
kì đổi mới, bởi theo quan niệm của bà: “Con người là tổng hoà các mối quan
hệ xã hội. Cho nên đừng nhìn họ ở những khía cạnh to tát. Ngay ở bãi tắm và
ở trong cái bếp nhà anh cũng có khối chuyện nhân tình thế thái phải rỏ nước

mắt, phải ôm bụng cười đấy. Đó là cách người ta yêu nhau, người ta ăn
uống, người ta lừa dối, phản trắc, tử tế hay bất lương”.
3. Tìm hiểu cảm hứng thế sự trong các sáng tác của Lê Minh Khuê từ sau
1975 giúp chúng ta hiểu hơn về đời sống xã hội và phong cách sáng tác cũng
như quan điểm sáng tác của nữ nhà văn này. Đồng thời, đây cũng là chìa khóa
để ta mở những cánh cửa đến với văn học thời kì đổi mới nhờ các sáng tác
của bà, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học nước nhà thời kì sau
chiến tranh.
Đó là những lí do thiết thực nhất thôi thúc chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài:
Cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh Khuê từ sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những ý kiến về cảm hứng thế sự trong văn học Việt Nam sau 1975.
Văn học sau 1975 đa dạng về thể tài, khuynh hướng, là đối tượng nghiên
cứu được các nhà phê bình chú ý. Có rất nhiều nghiên cứu về văn xuôi sau
1975 với những nhìn nhận đa chiều về sự đa dạng của văn xuôi giai đoạn này
mà cảm hứng thế sự đời tư là một trong những cảm hứng nổi bật.
Tác giả Nguyễn Văn Long, trong Văn học Việt Nam hiện đại, những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy đã chỉ ra : “chiến tranh đi qua, cuộc sống
thời bình trở lại thì dần con người cũng trở về với các quan hệ thế sự và nhu
cầu của đời sống riêng tư. Phản ánh đời sống trong các quan hệ thế sự hàng
ngày và đời sống riêng tư của con người đã trở thành mối quan tâm lớn của

2


văn học nói chung, cũng như văn xuôi nói riêng. Khuynh hướng thế sự đời tư
đã nảy nở ngay từ những năm đầu sau chiến tranh, được phát triển trong
những năm tám mươi và trở thành khuynh hướng bao trùm trong văn xuôi ở
thập kỷ chín mươi cho đến gần đây” [ 34, 197]. Tác giả công trình nghiên cứu

cũng nhận thấy: Cùng với niềm vui chiến thắng, hòa bình, sum họp thì cuộc
sống sau chiến tranh cũng bắt đầu bộc lộ những phức tạp khó khăn, nững vấn
đề mà mỗi con người và cả dân tộc vừa đi qua cuộc chiến dài lâu lại phải đối
mặt...Ở nửa đầu những năm tám mươi, khi cảm hứng sử thi đã mờ nhạt dần
thì đời sống thế sự và số phận riêng tư đã trở thành mối quan tâm chủ đạo
của nhiều cây bút văn xuôi”. Từ giữa những năm chín mươi, đời sống thế sự,
riêng tư càng trở thành mối quan tâm hàng đầu, phổ biến của các cây bút văn
xuôi, đặc biệt là các cây bút trẻ, những nhà văn nữ. Sự suy thoái về đạo đức,
nhân cách, sự sa đọa trong lối sống của một bộ phận dân cư, nhất là trong
lớp trẻ, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác [ 34, 197].
Nguyễn Thị Bình cũng đã chỉ ra bước ngoặt trong tư suy nghệ thuật về con
người của giai đoạn văn xuôi sau 1975, trong đó tác giả nhận thấy sự thay đổi
“từ quan niệm con người kiểu sử thi chuyển dần sang quan niệm con người
thế sự đời tư” [ 12, 43]. “Sau 1975, đất nước bước vào thời kì đổi mới, những
quy luật thời bình sớm muộn sẽ chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân
diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải nhìn nhận lại nhiều điều”.[ 12, 45].
Trong bài viết Văn học Việt Nam 1975- 1991, nhìn lại những bước đi,
lắng nghe những tiếng nói, Lã Nguyên đã chỉ ra bước chuyển từ cảm hứng
sử thi sang thế sự của văn học sau 1975: Khi tiếng nói sử thi lắng xuống, thì
tiếng nói thế sự vang lên. Nó thường cất lên giữa chốn công quyền và phần
lớn là ở nơi hội họp. Tiếng nói của văn học thế sự trở về với hiện thực trong
muôn vàn những sinh hoạt đời thường đang bầy ra trước mắt. Nó nói thật to
những gì văn học sử thi thường dấu kín, không được nói, không dám nói.

3


Vượt qua mọi sự cấm kỵ, văn học sau 1975 nói thật to cái sai, cái xấu và cả
cái ác trong nội bộ chúng ta, giữa chúng ta với nhau [ 45, 34 ].
Lê Ngọc Trà trong bài viết “Văn học Việt Nam những năm đầu Đổi

mới” đã chỉ ra đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này là “tính chất phê
phán”, ông nhận định: “Nếu trước đây nhân vật chính của các tác phẩm hầu
hết là người tốt, là nhân vật chính diện, thì bây giờ, ngược lại, trong nhiều
tác phẩm các nhân vật chính thường là nhân vật tiêu cực, giả dối, làm ăn phi
pháp, thấp kém về đạo đức. Và một khi các nhân vật chính đã như vậy thì dĩ
nhiên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm cũng thay đổi: nhiệt tình ca ngợi,
khẳng định được thay thế bằng sự phê phán, châm biếm” [57, 32 ].
Thanh Công trong bài viết Cảm hứng đời tư - thế sự trong văn học Việt
Nam sau 1975 khi viết về đề tài gia đình, đã cho rằng, các nhà văn lúc này
“không né tránh, ngại ngùng khi khai thác các mặt trái, góc khuất, phần chìm
của hiện thực cuộc sống” [ 13, 23 ].
Còn Đỗ Ngọc Thạch trong bài Văn học và hiện thực khẳng định: “Nếu
như trước đây nhà văn chỉ kịp thời phản ánh được một vài khía cạnh của hiện
thực, thì giờ đây, bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, bằng sự nghiên cứu nghiêm
túc đối tượng phản ánh, đã có thể dựng lại những bức tranh chân thực và
rộng lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp, trong đó
có cả cái cao cả và cái thấp hèn, cái ác và cái xấu” [ 50, 21 ].
Trong luận văn Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1985, tác giả
Nguyễn Thị Minh Nguyệt đã nhận thấy: Đất nước trở lại hoà bình thì mảng
đề tài thế sự đời tư nhanh chóng đóng vai trò chủ đạo trên văn đàn. Truyện
ngắn đi sâu phản ánh con người bình thường với những mối quan hệ phong
phú, phức tạp. Con người cá nhân được nhìn ở nhiều chiều hướng. Đó cũng
là những nỗi niềm, băn khoăn về hạnh phúc cá nhân, về nhân phẩm, về cuộc
đời được phát đi từ những số phận riêng. Nhiều truyện ngắn cũng đã phanh

4


phui mổ xẻ để nhận rõ mặt cái xấu, cái ác và sự tha hoá về đạo đức nhưng
nghiêng về hướng dự báo giúp mọi người khả năng tỉnh táo để nhận thức sâu

sắc hơn về con người và cuộc đời [38 , 28 ].
2.2. Những ý kiến về sáng tác của Lê Minh Khuê
Lê Minh Khuê là tác giả bắt đầu sáng tác và trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Mỹ, đến nay, Lê Minh Khuê có hơn nửa thế kỉ cầm bút, gắn bó
bền bỉ và khá thành công với thể loại truyện ngắn. Các sáng tác của Lê Minh
Khuê là đối tượng yêu thích của nhiều người đọc và giới phê bình văn học.
Trong bài viết Phụ nữ và sáng tác văn chương, bàn tròn về các tác giả nữ
trong sáng tác văn chương, Phạm Xuân Nguyên đã nhận định “Trong số
những cây bút văn xuôi, có thể tiến xa thì sẽ có Lê Minh Khuê” [ 44, 31 ].
Giáo sư Hà Minh Đức trong bài Những tác giả nữ trong nền văn xuôi
chống Mỹ đã cho rằng : “Lê Minh Khuê là một cây bút trẻ xông xáo trong
những năm kháng chiến chống Mỹ. Chị đã có ý thức chuyển nhanh sang
thời kì mới và tỏ ra khá nhạy bén trong cách cảm nhận nghệ thuật của
mình [ 17 , 19 ].
Trên tạp chí Văn hóa danh nhân, trong bài Lê Minh Khuê- một cốt cách
văn chương, tác giả Vũ Hà nhận xét: rất dễ hòa lẫn trong đám đông nhưng
gặp một lần ngoài đời, một lần đọc truyện của cây bút ấy là không thể quên.
Nó lưu giữ trong ta một tình cảm dịu dàng, một dấu ấn khó phai mờ trong
tâm tưởng... Và một điều đáng ghi nhận trong sáng tác của Lê Minh Khuê
ngày càng đằm hơn, sâu sắc hơn” [ 19, 26 ].
Nhà văn Tô Hoài ngay từ năm 1976 đã nhận xét tinh tường: "Lớp sau hòa
bình, Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu, Lê Minh Khuê hay, có không khí" [ 30 , 8].
Về những tác phẩm của Lê Minh Khuê được giới thiệu ở Mỹ, tờ Thời báo
New York cũng đã nhận định trong sáng tác của Lê Minh Khuê “hiện lên
hình ảnh tác giả, một người có văn phong đẹp, nghiêm trang cùng với sự

5


châm biếm tinh tường, đồng thời có khả năng trong những nhân vật đầy chất

khêu gợi”.
Đáng chú ý là bài viết của Hồ Anh Thái: Lê Minh Khuê, người đàn bà
viễn thị. Bài viết đã bao quát sáng tác truyện ngắn của Lê Minh Khuê theo
từng phương diện, từng khía cạnh, phát hiện ra khả năng bao quát hiện thực
của cây bút này: “Tâm trạng xã hội hơn ba mươi năm qua, những khúc
quanh, những đổi thay qua các thời kỳ chiến tranh, cuối cuộc chiến,
thống nhất đất nước, thời kinh tế thị trường đã liền mạch trong tác phẩm
của Lê Minh Khuê...Người ta không soi vào đấy để thấy lịch sử nhưng có
thể đọc trong đó tâm thế của thời cuộc” [ 51, 258]. Qua tìm hiểu giọng
điệu, điểm nhìn của Lê Minh Khuê trong trần thuật, tác giả bài viết nhận
thấy “chị rất có ý thức nói bằng giọng của mình- tiết chế, đôi khi chủng
chẳng khô khan nhưng đầy hàm ý. Chị rất chú trọng cái nhìn hiện thực
của mình- điềm tĩnh, cuộc sống diễn ra trước mắt như một cuốn phim
đang xem trong rạp” [ 51, 259].
Nguyễn Thị Minh Thái không đồng ý với Hồ Anh Thái gọi Lê Minh Khuê
là người đàn bà viễn thị: “Tôi nói với anh Thái rằng Khuê không hề viễn thị,
Khuê là người đàn bà thấu thị luôn nhìn cuộc sống, nhìn chiến tranh bằng
cặp mắt xuyên thấu, bên trong âm ỉ một tấm lòng nồng nhiệt [52].
Luận văn thạc sĩ Truyện ngắn Lê Minh Khuê của tác giả Mai Thị Thúy
Ninh đã chỉ ra những nguồn cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn Lê Minh
Khuê, trong đó có đề cập đến cảm hứng phê phán- phê phán sự tha hóa và lối
sống thực dụng, phê phán những bất ổn cơ chế... “Nhưng rồi hiện thực biến
động từng ngày có sức tác động mạnh mẽ đến ý thức nhà văn... Chị đã vạch
ra tình trạng tha hóa xuống cấp về đạo đức, hầu hết của nữ trong hoàn cảnh
hòa bình mà phôt biến nhất là lối sống thực dụng đang tràn lan dưới nhiều
dạng vẻ” [ 40, 29 ].

6



Tác giả Bùi Việt Thắng đã “thừa nhận” cách thành thực trong bài viết
Nhiệt đới gió mùa và nhiệt hứng văn chương: dù đã trải qua chiến tranh,
đói khổ, chết chóc và cả những oan khuất cuộc đời, dù đã là người đàn ông
tuổi ngoài sáu mươi khá cứng rắn và vững vàng với đời, nhưng thú thật khi
đọc xong truyện đầu Nhiệt đới gió mùa, tôi cảm thấy rã rời và bị ám ảnh”.
Quả thực truyện ngắn Lê Minh Khuê thường tạo ra những ám ảnh nghệ thuật
lâu bền và khắc sâu trong tâm trí người đọc cái dữ dội đến khốc liệt của đời
sống [55, 34 ].
Bài viết Cảm hứng thế sự đời tư trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của
Lê Hồ Quang gần gũi với đề tài hơn cả. Lê Hồ Quang đã chỉ ra cảm hứng thế
sự chi phối chặt chẽ đến hệ thống hình tượng trong tác phẩm Lê Minh Khuê.
Nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn của tác giả này là hình tượng con
người bế tắc và bất lực. Nói chính xác hơn, bà biết cách nhìn ra những vấn
đề xã hội từ góc nhìn của đời sống cá nhân, cá thể [ 48,31 ].
Ý kiến của Tạ Duy Anh khi nói về tập Nhiệt đới gió mùa : Không thể
nhận ra điểm ghép giữa sự thật và hư cấu trong các truyện. Trong khi chúng
tôi cứ cố gắng làm cái việc tiểu thuyết hóa hiện thực thì chị đã tự chắt lọc,
nạp vốn sống vào thế giới tinh thần của mình. Và trong sự dữ dội của chị
luôn có những tia hi vọng, những mầm nhân tính, nâng đỡ cảm nhận của
người đọc vào tác phẩm của mình [ 10, 39 ].
Khi quyết định trao giải thưởng văn học Byeong- Julee (Hàn Quốc) cho
Lê Minh Khuê, Hội đồng giải thưởng nhận định: “ Là một nhà văn nữ hàng
đầu, Lê Minh Khuê ban đầu được biết đến bằng những tác phẩm viết về
những cô gái tham gia cuộc chiến trang giữ nước. Tác phẩm thời hậu chiến
của bà quan tâm đến hậu quả chiến tranh đối với đất nước mình, những vấn
đề khi thống nhất đất nước, sự nghèo đói và tình trạng xói mòn văn hóa và

7



tinh thần khi đất nước chuyển đổi sang một xã hội tiêu thụ. Những vấn đề này
được thể hiện bằng một văn phong đẹp,chua xót, trang nghiêm”.
“Nhà văn Việt Nam luôn đau đáu còn nợ một món nợ chiến tranh, và Lê
Minh Khuê là một trong những nhà văn đang trả món nợ ấy bằng chính
những tác phẩm của mình…”[ 44, 39], nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nói
về cuốn truyện vừa Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê.
Nguyễn Hoài trong bài Nhà văn Lê Minh Khuê viết về chiến tranh bằng
những giọt nước mắt đăng trên báo An ninh thủ đô, số ra ngày 17/3/2013 đã
nhận thấy rất đúng đắn : Theo góc nhìn của nhà văn Lê Minh Khuê, cuộc
sống ngoài kia con người vẫn sử dụng bạo lực với nhau không chút đắn đo
suy nghĩ, ranh giới đạo đức bị mai một [ 24, 18].
Gặp gỡ Lê Minh Khuê, ta nhận thấy ở bà một con người hết sức giản dị
nhưng ẩn chứa một nội lực sống và làm việc mạnh mẽ, một bản lĩnh rất Lê
Minh Khuê. Bà tâm sự: “Tôi không có tham vọng dùng văn chương để cải
hóa bất cứ việc gì mà luôn coi nó là một trong muôn vàn công việc. Không
thể thiếu và không quá quan trọng, nhưng đã làm nhà văn nên nghĩ mình viết
lách sao cho như người thợ lành nghề, không được làm ẩu. Tôi rất ghét
những người đan lát, dối trá, chữ nghĩa cứ tuôn ra rào rào, in ấn ào ào,
không có thời gian đọc lại cái mình đã viết. Điều đó giống như tình trạng làm
hàng giả đang đầu độc cuộc sống” [ 28, 26 ].
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những sáng tác của Lê Minh Khuê từ sau năm 1975.
3.2. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Chúng tôi giới hạn khảo sát cảm hứng thế sự trong truyện ngắn của Lê
Minh Khuê, chủ yếu là qua hai tập Một mình qua đường (là tập hợp các
truyện ngắn của bà trước năm 2006, do nhà văn cung cấp) và tập Nhiệt đới

8



gió mùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2012) cùng một số truyện ngắn khác in
trên báo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu Cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh
Khuê sau năm 1975, chúng tôi nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Chỉ ra cơ sở hình thành cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh
Khuê từ sau 1975.
- Tìm hiểu sự thay đổi, vận động trong sáng tác của Lê Minh Khuê trong
hành trình sáng tác từ trước và sau 1975; khẳng định cảm hứng thế sự là cảm
hứng chủ đạo và phân tích các biểu hiện của cảm hứng này trong các sáng tác
của Lê Minh Khuê sau năm 1975.
- Chỉ ra phương thức thể hiện cảm hứng thế sự của nhà văn Lê Minh
Khuê.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã vận dụng những phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1.

Phương pháp hệ thống

Vận dụng khảo sát tác phẩm, hệ thống các yếu tố làm nổi bật vấn đề của
luận văn theo từng luận điểm, từ đó có cái nhìn xuyên suốt về đề tài.
Đặt các tác phẩm được khảo sát của Lê Minh Khuê trong hệ thống chung,
cảm hứng thế sự trong nền văn học Việt Nam từ sau 1975.
Xem xét bản thân cảm hứng thế sự trong các sáng tác của Lê Minh Khuê
như một hệ thống gồm nhiều vấn đề liên hệ chặt chẽ với nhau..
5.2. Phương pháp thống kê phân loại
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát các tác phẩm của
Lê Minh Khuê (tập trung chủ yếu vào hai tập truyện Một mình qua đường và


9


Nhiệt đới gió mùa) thống kê và phân loại các vấn đề trong tác phẩm để thấy
được biểu hiện của cảm hứng thế sự cũng như phương thức thể hiện
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phân tích những đặc điểm về cảm hứng thế sự, đời tư với những biểu hiện
và nghệ thuật thể hiện cảm hứng đó, tổng hợp kết quả phân tích để thấy được
biểu hiện cụ thể của cảm hứng thế sự, đời tư trong các sáng tác của Lê Minh
Khuê sau 1975 .
5.4. Phương pháp so sánh đối chiếu
Tiến hành so sánh các tác phẩm của Lê Minh Khuê trước và sau năm
1975, các tác phẩm của Lê Minh Khuê với các tác phẩm của các tác giả khác
để thấy được rõ nét cảm hứng thế sự trong các sáng tác của Lê Minh Khuê từ
sau năm 1975.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài hai phần MỞ ĐẦU và KẾT LUẬN, luận văn có bố cục gồm ba
chương như sau:
Chương I: CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG CÁC
SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975
Chương II: NỘI DUNG THẾ SỰ TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA LÊ
MINH KHUÊ SAU 1975
Chương III: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG CÁC SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975

10


NỘI DUNG

CHƯƠNG I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM HỨNG THẾ SỰ
TRONG SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ SAU 1975
1.1. Khái niệm cảm hứng thế sự trong văn học
Ngay từ thời cổ Hy Lạp người ta đã dùng từ “cảm hứng” (tiếng Hy Lạp cổ:
Pathos) để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu
sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Cảm hứng thường dành để nói về những
cảm xúc ban đầu trào dâng, thúc đẩy trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn
trong việc hình thành tác phẩ. Cảm hứng" là xúc cảm tạo nên tác phẩm của
nhà văn.
Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật
thiết với nhau nhưng không phải là một. Cảm hứng tư tưởng là tình cảm mãnh
liệt, một ham muốn tích cực, là tư tưởng của nhà văn được thể hiện cụ thể,
sinh động trong hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Cảm hứng bắt nguồn từ
tình cảm nhưng đó là tình cảm nhiều chiều, phức hợp chứ không phải đơn
điệu. Cảm hứng của tác phẩm chủ yếu được thể hiện thông qua hình tượng
nghệ thuật, tính cách và sự miêu tả chứ không phải là cái "loa" phát ngôn cho
tư tưởng của tác giả.
Thế sự là những vấn đề của cuộc sống hàng ngày với tất cả những bộn bề
phong phú và phức tạp, muôn màu muôn vẻ, nhiều chiều không ngừng biến
đổi từng giờ.
Trong văn học, cảm hứng thế sự là thái độ, tư tưởng tình cảm của nhà văn
trước các vấn đề của đời sống hàng ngày, qua đó nhà văn đã thể hiện quan
niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống.

11


1.2. Một bối cảnh xã hội, văn học mới
Bao nhiêu năm đất nước chìm trong lửa đạn, những trang văn hào sảng với

khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã tiếp thêm cho con người niềm
tin vào sức mạnh lớn lao của toàn dân tộc và những con người thời đại. Sáng
tác của các nhà văn thời kì này hừng hực ngọn lửa sử thi với những con người
mang trong mình sức mạnh và những phẩm chất của thời đại. Cảm hứng thế
sự, đời tư không thích hợp trong thời chiến nên được gác lại.
Sau chiến thắng 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất,
đánh dấu sự sang trang của lịch sử dân tộc: chuyển từ thời chiến sang thời
bình, từ cuộc sống với những quy luật không bình thường ngày có giặc (chữ
dùng của Hữu Thỉnh) sang cuộc sống bình thường hàng ngày. Tuy nhiên văn
học không sang trang cùng lúc với lịch sử mà vẫn trượt theo quán tính một
thời gian nữa. Đề tài chiến tranh cách mạng vẫn là đề tài ưa thích của văn
nghệ sĩ. Cảm hứng ca ngợi vẫn là cảm hứng chủ đạo của phần lớn tác phẩm ra
đời trước 1980.
Đến thập kỷ 80, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí
đổi mới-dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Đường
lối đổi mới tại Đại hội VI và tiếp đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc
gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào tháng
10 năm 1987... tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống
văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra chặng đường mới phát triển sôi nổi của
văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự
thật.Văn nghệ sĩ được “cởi trói” tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách
nhiệm của người cầm bút trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà.
Những mặt trái và nhiều vấn đề nhức nhối trong xã hội, những bất công và
đau khổ trong thân phận nhiều con người. Khuynh hướng sử thi, cảm hứng
lãng mạn trong văn học 1945-1975 được thay thế bằng cảm hứng đời tư-thế

12


sự. Con người "sử thi” trong văn học trước 1975 được thay thế bằng con

người "nếm trải”. Vấn đề đời tư, bản thể, tự do luyến ái, đời sống tình dục...
được đề cao. Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề
liên quan đến những nhiệm vụ chính trị trước mắt mà được mở rộng từ đề tài
gia đình, thân phận tình yêu, số phận con người đến chiến tranh cách mạng,
sản xuất xây dựng... Các nhà văn không né tránh, ngại ngùng khi khai thác
các mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực cuộc sống.
Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa in trên Báo
Văn nghệ số 49 – 50 (Ngày 5- 12 - 1987) có thể được coi như một tuyên ngôn
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu về sứ mệnh của văn chương và
thiên chức của người cầm bút, là lời thức tỉnh với các nhà văn trước sự thay
đổi của hiện thực và nhu cầu đổi mới của văn học nói riêng, văn hóa nghệ
thuật nói chung. Quan niệm về hiện thực không thể bó hẹp trong khuôn khổ
có sẵn mà phải mở ra trong một thực tại đa chiều, luôn biến động và đầy bất
ngờ như lời Nguyễn Minh Châu:“Cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa
đoan”. Nguyễn Minh Châu đã có lần tâm sự về sứ mệnh cao cả của văn
chương: “Phản ánh hiện thực không có nghĩa là xâu chuỗi các sự kiện lâu
nay văn xuôi viết về chiến tranh đã làm. Tất cả các thể loại văn học đều phải
lấy con người làm đối tượng phản ánh” [ 14, 31] và như có lần ông nói:“ Văn
học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng
phải đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của
đời sống” [ 14, 32]. Những suy nghĩ, trăn trở của Nguyễn Minh Châu cũng là
những suy nghĩ trăn trở chung của lớp nhà văn cùng thời đi từ cuộc chiến ra
thời bình.
Trước đây, vị trí của cá nhân thống nhất, hài hòa trong tập thể, cộng đồng.
Giờ đây, con người tách dần khỏi cộng đồng, sống tự chủ, tự quyết cuộc đời
mình, sống đời sống riêng của mình, không thể dựa dẫm vào đoàn thể. Những

13



năm đầu thời kì xóa bỏ bao cấp, con người Việt Nam sống với tâm lí sung
sướng, tự do nhưng cũng không tránh khỏi những chới với, lo âu và hoang
mang. Được nói thật, nói hết những gì chân thực của lòng mình trở thành nhu
cầu khẩn thiết hơn bao giờ hết. Nhưng khi điều kiện mới cũ dần đi, nói thật
không còn là một nhu cầu thì lại nảy sinh những vấn đề khác.
Nền kinh tế thị trường khiến cho người ta trở nên năng động, cởi mở, tỉnh
táo, trí tuệ hơn song cũng sinh nhiều dục vọng, thực dụng, lạnh lùng, tàn nhẫn
hơn. Con người được nhiều (thường là được về vật chất) nhưng cũng dễ dàng
mất đi nhiều giá trị quý báu (về tinh thần) khó có thể tìm lại được. Những quy
luật của thời kì đổi mới vừa là động lực khiến con người có thể phát huy tận
độ khả năng bản thân, thì cũng chính nó lại dễ dàng nhuộm đen con người.
Con người giờ đây không phải con người thuần khiết lý tưởng mà là con
người đa dạng phức tạp ẩn chứa cả “thiên thần, ác quỷ, rồng phượng rắn rết”
(Nguyễn Minh Châu). Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa chóng mặt. Con
người đạt đến một trình độ phát triển cao song cũng có nguy cơ rơi vào thảm
họa. Vừa chế ngự thiên nhiên lại vừa phá hoại thiên nhiên, vừa chế tạo ra
những vật dụng tiện nghi, hiện đại để nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng
con người cũng có nguy cơ bị máy móc hóa, chương trình hóa. Sự trống rỗng
về tinh thần xuất hiện và có nguy cơ lan rộng. Cảm giác bất an, lo âu trước
đời sống hiện đại không phải là hiện tượng tâm lí cá biệt ở một số người mà
gần như đã trở thành tâm lý chung của số đông.
Sau 1975, con người Việt Nam phải đối mặt với một hiện thực mới,hiện
thực mà theo Lê Minh Khuê nhận xét là: “thay đổi đến không tưởng tượng
được” khi thử thách khốc liệt không giấu trong họng súng mà trong sự cay
cực, thiếu thốn triền miên của đời sống cơm áo thời hậu chiến. Và lúc cơ chế
quan liêu bao cấp được thay thế bởi cơ chế thị trường thì, cùng với sự thay da
đổi thịt của đời sống vật chất, bộ mặt xã hội thời mở cửa cũng kịp phô ra biết

14



bao sự xô bồ, “ác hiểm” (chữ dùng của Ý Nhi). Điều này khiến cho các nhà
buộc phải tự điều chỉnh nhận thức về đời sống, thậm chí phải thay đổi triệt để,
để can đảm “ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa”. Lời kêu gọi “nhìn
thẳng sự thật, nói rõ sự thật” trong thời kì này vừa là một yêu cầu bức thiết
của hiện thực, đồng thời cũng là một nhu cầu tự thân, mang tính sống còn của
nghệ sĩ, nếu như không muốn sáng tác của họ bị bỏ lại đằng sau thực tại đời
sống mà chính họ đang tham dự và đối mặt.
Trên thực tế, đến những năm 80 của thế kỉ XX, sau những lúng túng tìm
đường, nhiều nhà văn thế hệ chống Mỹ đã nhanh chóng bứt ra khỏi từ
trường của “khoảng chân không văn học” (Nguyên Ngọc) để tiếp tục dấn
bước sáng tạo. Không hẹn mà gặp, trong sáng tác của nhiều tác giả này,
chẳng hạn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Lê Lựu, Chu
Lai…, cảm hứng sử thi dần được thay thế bằng cảm hứng nhân sinh, thế sự,
đời tư. Với nhu cầu nhận thức lại hiện thực, thay cho cái nhìn đơn tuyến và
đậm tính lí tưởng trước đây là một cái nhìn đa chiều, gai góc, đậm tính phê
phán. Cảm hứng này sẽ còn được tiếp tục đậm nét hơn, đa dạng hơn trong
sáng tác của các nhà văn thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp , Phạm Thị Hoài,
Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ… và không thể không kể
đến Lê Minh Khuê.
1.3. Con đường đến với văn chương và quan niệm sáng tác của Lê

Minh Khuê
1.3.1. Con đường đến với văn chương của Lê Minh Khuê
Lê Minh Khuê sinh ngày 06-12-1949, quê ở xã An Hải, huyện Tĩnh Gia,
tỉnh Thanh Hóa. Bà còn có một bút danh khác là Vũ Thị Miền.
Thời đại sớm gieo vào tâm hồn nữ nhà văn những dấu ấn không thể phai
mờ. Sinh ra trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Lê Minh Khuê cũng như bao thanh niên


15


khác thời kì này đều mang trong mình tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc
và ý chí chiến đấu bảo vệ dân tộc. Mới 16 tuổi, người thiếu nữ ấy đã xúc động
trước những tấm gương hi sinh cao cả của những anh Trỗi, anh Xuân… và
thấy được sức hấp dẫn của nơi có tiếng bom ùng oàng. Để ước nguyện thành
sự thật, Lê Minh Khuê đã khai tăng tuổi để có thể được tham gia thanh niên
xung phong, góp sức bé nhỏ của mình vào cuộc chiến đấu vệ quốc vĩ đại của
toàn dân tộc. Lê Minh Khuê vừa tham gia làm đường, vừa dạy văn hóa. Chính
từ cuộc chiến tranh ác liệt, đầy hi sinh gian khổ, nhưng cũng biết bao vinh
quang tự hào ấy đã hình thành một dáng vẻ riêng cho các tác phẩm của Lê
Minh Khuê ngay từ những ngày đầu sáng tác.
Sau bốn năm tham gia thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê trở về làm
phóng viên cho báo Tiền Phong, từ chối đi học tập ở nước ngoài. “Cô phóng
viên nhỏ” lại tiếp tục xuôi ngược trên khắp nẻo đường chiến tranh, gắn bó với
những người lính, nhất là những thanh niên xung phong và lính lái xe cùng
các anh pháo cao xạ. Theo lời kể của nhà văn, có một thời gian bà gắn bó với
một tiểu đội trinh sát mặt đường toàn những anh lính trẻ, đó cũng là “tư liệu
sống” hình thành những truyện ngắn đầu tay của bà.
Theo lời kể lại của Lê Minh Khuê: hồi đó, đơn vị thanh niên xung phong
của bà trong đội hình Tổng đội thanh niên xung phong Thanh Hóa đảm bảo
giao thông Dốc Bò Lăn ác liệt trên tuyến giao thông huyết mạch 15B. Dốc Bò
Lăn, đường 15 A, 15 B... địch băm nát từng mét nhưng đêm xuống, cô gái
thanh niên xung phong ấy (Lê Minh Khuê) lặng lẽ khêu to ngọn đèn hạt đỗ
dưới hầm, hăm hở kê những trang giấy các cỡ các màu nhàu nát lem luốc xin
được lên trên chiếc hòm mìn làm bàn để viết những bài bút ký, phóng sự hôi
hổi không khí chiến sự và thư thả ra thì những truyện ngắn để gửi về Báo
Tiền Phong, tờ báo mà những năm bom đạn mù trời ấy bà là thông tin viên
đắc lực! Rồi lần bà tạm rời những cung đường ác liệt của Khu Bốn về học lớp

bồi dưỡng Thông tín viên do báo tổ chức...

16


Đầu năm 1969, thể theo yêu cầu của báo Tiền Phong, cơ quan Trung Ưng
của Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam, cô thông tín viên Lê Minh Khuê đã
chuyển công tác từ đơn vị thanh niên xung phong về làm phóng viên của
báo... Rồi Lê Minh Khuê xung phong về Đài Phát thanh Giải phóng vào tận
chiến trường khu Năm. Năm 1975, nhà văn đi cùng một cánh quân vào giải
phóng thành phố Đà Nẵng. Sau đó, bà được chuyển về làm biên tập viên văn
nghệ Đài truyền hình Việt Nam.
Năm 1978, Lê Minh Khuê được chuyển sang làm biên tập viên văn học, ở
Nhà xuất bản Tác phẩm mới, nay là Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam.
Dường như đây là công việc phù hợp và giúp ích cho Lê Minh Khuê rất nhiều
như chính tâm sự của bà: Nghề biên tập viên đã làm chỗ dựa để có thể hết
mình với nghiệp văn [ 29, 21].
Hiện nay đã nghỉ hưu nhưng Lê Minh Khuê vẫn được tín nhiệm đảm
trách cương vị Chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Hà Nội, phó chủ
tịch Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam. Và bà vẫn không ngừng
nghỉ tìm tòi, sáng tạo, tiếp tục cuộc hành trình trên con đường văn học mà
điều đáng ghi nhận là “sáng tác Lê Minh Khuê ngày càng đằm hơn và sâu
sắc hơn” [ 55, 29].
Các tác phẩm chính:
- Những ngôi sao xa xôi (1973).
- Cao điểm mùa hạ (1978).
- Một chiều xa thành phố (1986).
- Tôi đã không quên (1991).
- Bi kịch nhỏ (1993).
- Lê Minh Khuê truyện ngắn (1995).

- Trong làn gió heo may (2000).
- Màu xanh man trá (2003).

17


- Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa (2003).
- Một mình qua đường (2006).
- Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (2008).
Truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi” (1971) đã được chọn và in trong
tuyển tập truyện ngắn “The art of the short story”, Nhà xuất bản Houghton
Mifflin Harcourt (Mỹ) một tập truyện tuyển chọn những truyện ngắn đặc sắc
trên toàn thế giới với nhiều tên tác giả nổi tiếng ( truyện được dịch ra tiếng
Anh với nhan đề The Distant stars,(dịch bởi Trần Bắc Hoài và Dana Sechs,
trang 1106) với lời giới thiệu : “ A veceran of the Vietnam/ American War, Le
Minh Khue served as a member of the Youch Volunteers Brigade and as a
War correspondent for Tien phong and Giai Phong. She is one of the leading
writers in Vietnam. Khue coedited the Other side of Heaven: Postwar Fiction
by Vietnamese and American Writers (1995) with Wayne Karlin and Truong
Vu. Her colection of short stories The stars, the Earth, the River (1997) is
heavily grounded in Khue’s personal history. She currently servers as the
chief fiction editor at the Vietnam writers’ Association Publishing House in
Hanoi.”(Tạm dịch: Là một cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở
Việt Nam, Lê Minh Khuê từng tham gia Thanh niên xung phong và là một
phóng viên chiến trường cho báo Tiền Phong và Giải Phóng. Bà là một trong
những nhà văn đi đầu của Việt Nam. Lê Minh Khuê đã hợp tác biên tập tiểu
thuyết hậu chiến: Phía bên kia Thiên đường với Wayne Karlin và Trường Vũ.
Tập truyện ngắn Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (1997) là những trải
nghiệm sâu sắc của chính bà, thể hiện rõ nét văn phong của Lê Minh Khuê.
Hiện tại, bà là trưởng biên tập cho Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam).

Những nỗ lực của Lê Minh Khuê đã được ghi nhận với những giải thưởng
danh giá:

18


- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 (Tập truyện ngắn: Một
chiều xa thành phố).
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001 cho tập truyện ngắn
Trong làn gió heo may.
- Giải thưởng văn học mang tên văn hào Byeong-ju Lee của Hàn Quốc(1)
vào năm 2008 với tập Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (The stars, the
earth, the river)- Nhà xuất bản Curbstone Press ấn hành ở Mỹ.
Và quan trọng hơn, đó chính là vị trí của Lê Minh Khuê trong lòng độc giả
với những “ấn tượng” sâu đậm bởi văn phong “lão luyện” (Tạ Duy Anh).
1.3.2. Quan niệm sáng tác của Lê Minh Khuê
Mười sáu tuổi, Lê Minh Khuê đã hăng hái tham gia thanh niên xung phong
rồi trở thành phóng viên chiến trường, xuôi ngược khắp các chiến trường, gắn
bó với những người lính. Bà là nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Mĩ và không khí thời đại đã thể hiện rõ nét trong những sáng tác đầu
tay của bà.
Trong thời kì chiến tranh, cũng như bao nhà văn cùng thời, Lê Minh Khuê
cũng say sưa với hình ảnh những người lính trong chiến đấu với cảm hứng
ngợi ca. Lê Minh Khuê từng kể lại: Tôi viết văn trong giai đoạn chiến tranh,
khi còn là thanh niên xung phong làm đường, lấp hố bom. Bom đạn cả ngày,
hai tai ù đặc, nhìn thấy người chết thường xuyên, nhưng hồi ấy tôi còn nhỏ
quá, không biết sợ là gì. Những bài báo, bút ký chiến trường tôi thường ngồi
trong hầm kê giấy lên đầu gối để viết, viết xong là gửi những người ra Bắc
mang giúp đến tòa soạn báo. Có cái đến được, có cái không. Tôi viết cho vui,
không ngờ lại là ám ảnh đam mê theo mình suốt đời. Tôi mãi có ấn tượng về

những người đàn ông trong thời chiến. Họ can đảm, anh hùng, thật sự trong
sáng. Tôi đã đi với các anh trên những con đường bom đạn rượt đuổi suốt
1 Giải thưởng này thành lập từ Liên hoan Văn học Quốc tế Hadong năm 2007, mỗi năm trao cho

duy nhất một nhà văn. Năm 2008, năm đầu tiên xét chọn.

19


đêm. Tôi từng đi theo chiến dịch, có trận chờ dưới chân đồi, các anh đánh
xong xông ra phỏng vấn luôn. Họ còn trẻ lắm, mới ở tuổi đôi mươi. Thời ấy,
họ sống đẹp và chết đẹp [ 29, 30].
Với những suy nghĩ ấy, những truyện ngắn của bà thời trước 1975 viết về
cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu, tâm trạng của những người lính công binh,
lái xe, trinh sát, những y tá, bác sĩ trẻ đang lăn lộn trên những cao điểm, trọng
điểm, những tuyến đường khói lửa cá liệt với một giọng điệu mộc mạc, tự
nhiên, trong sáng và cái nhìn của người trong cuộc. Đó là cô Sim, cô Mua
(Con sáo nhỏ của tôi), cô Thao, cô Nho, Phương Định (Những ngôi sao xa
xôi), cô Vân, anh Ngãi (Bạn bè tôi), anh Huy, anh Tuân, anh Trung, cô Miên
(Cao điểm mùa hạ)…mỗi người một tính cách, cá tính riêng nhưng tất cả đều
gặp nhau ở nét phẩm chất chung : dũng cảm, gan góc sẵn sàng xả thân hy sinh
tình cảm riêng vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc,gắn bó trong tình đồng
chí, đồng đội, tha thiết với quê hương, vững vàng một niềm tin lạc quan ở
tương lai tươi sáng. Những người lính, những người mà “thực tình, trong suy
nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất
là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” (Những ngôi sao xa
xôi) [ 5, 167]. Chính lý tưởng anh hùng và lẽ sống cao đẹp là nguồn sức mạnh
to lớn nâng đỡ họ vượt mọi gian khổ khóa khăn, mất mát đau thương để sống
đẹp, để chiến đấu và làm nên chiến thắng.
Trước 1975, cảm hứng ngợi ca say mê đầy lạc quan, tin tưởng là cảm hứng

chủ đạo trong các sáng tác của Lê Minh Khuê. Bà viết với một niềm say mê
lạc quan, một niềm tin mãnh liệt: “ sau khi chiến tranh. Khi con đường chúng
tôi bảo vệ đây sẽ rải nhựa phẳng lì. Điện sẽ dăng dây vào rừng sâu và những
nhà máy gỗ sẽ đêm ngày không ngủ...Ba chúng tôi đều hiểu như vậy. Hiểu và
tin với một niềm tin mãnh liệt” [ 5, 169]. Niềm tin ấy không phải không có
căn cứ bởi những người lính ấy đã chiến đấu bằng tất cả con người, tuổi thanh

20


xuân, với sức mạnh vô địch: “ xe đi dăng hàng, thành khối trên đường, không
ánh đèn. Lá ngụy trang làm mối xe to ra gấp đôi. Đối với tôi, bao giờ những
đoàn xe ấy cũng vô tận, không có sức mà đếm. Dài. Nhiều. Khổng lồ.” (
Những ngôi sao xa xôi).
Từ sau 1975, tác phẩm của bà mở ra những chân trời hiện thực mới.
Không còn mải miết với cái đẹp hào hùng, các tác phẩm của Lê Minh Khuê
tập trung vào đề tài số phận con người trong xã hội – hay nói cụ thể hơn, tác
phẩm của bà hướng vào thế sự (và đời tư) một cách có ý thức sâu sắc. Với
khả năng nhìn đâu cũng ra truyện ngắn, từ những cái hằng ngày, bình thường,
lặt vặt, Lê Minh Khuê đều nâng chúng lên tầm triết lí nhân sinh sâu sắc mà ta
có thể gặp những cảnh người, cảnh đời, cảnh sống rất thật và gần gụi ngay
trong những trang truyện của Lê Minh Khuê sau 1975.
Trong sách Nhà văn Việt Nam hiện đại (Nhà xuất bản Hội Nhà văn,
1997) nữ văn sĩ Lê Minh Khuê tâm sự: "Văn chương như thể thao. Mỗi lần
nhảy qua được xà, nhà văn muốn đạt kỷ lục cao hơn chút nữa. Nhưng tôi lại
mong người ta cư xử với nhà văn như một ngôi sao sáng trong thể thao. Anh
ta có thể dừng lại ở mức nào đấy và hãy xem anh ta đã đạt được chiến
công.... Tôi cũng mê những người nhìn được bí mật của tương lai... Văn
chương sẽ sống cái sức sống tự nhiên của nó. Nhưng như tất cả mọi việc trên
đời này, văn chương cũng có giới hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cái cao

cả, nhưng cũng có cái bình thường". Quan niệm ấy của nhà văn luôn được thể
hiện trong các sáng tác của bà cả trước và sau 1975, nhất là giai đoạn sau
1975 với cảm hứng thế sự (và đời tư).

21


×