Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.58 KB, 87 trang )

Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà
văn đạt được nhiều thành tựu về thể kí. Năm 1980 ông được giải thưởng hội
Nhà văn Việt Nam với bút kí “Rất nhiều ánh lửa”, năm 2002 ông được giải
thưởng văn học về kí “Miền gái đẹp”. Từ đó đến nay, Hoàng Phủ Ngọc
Tường luôn dành trọn tâm huyết của mình cho văn học nghệ thuật. Với vốn
văn hóa sâu lắng, sự am hiểu uyên thâm về triết học, lịch sử, địa lí… ông
được mệnh danh là “ông hoàng kí” của thời đại và được nhà nước trao tặng
nhiều giải thưởng lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm 15 tập bút kí, thơ…
được in thành bốn tập sách, trong đó tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là
tập kí hay nhất, bởi nó hội tụ tất cả những nét tài hoa uyên bác, tất cả tình yêu,
niềm say mê của tác giả. Hiện nay, tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã
được trích giảng trong chương trình ngữ văn lớp 12, điều đó càng khẳng định
vị trí của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nền văn học Việt Nam và vai trò của
bút kí trong nền văn học dân tộc. Tập bút kí đã thể hiện đậm nét “cái tôi” tài
hoa, uyên bác, nhạy cảm và vốn kiến thức văn hóa sâu rộng, đặc biệt là văn
hóa Huế của ông. Đã có nhiều nhà nghiên cứu và nhà giáo nghiên cứu tập bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” và đoạn trích trong sách giáo khoa, song
trong thực tế việc dạy học bài bút kí này còn gặp nhiều khó khăn. Một phần
do đặc trưng thể loại bút kí, một phần do lượng thông tin trong bài bút kí khá
phong phú. Cho nên, vấn đề đặt ra là dạy, học cái gì trong bút kí “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?”? và dạy, học như thế nào tác phẩm này? Điều đó đòi hỏi
các nhà giáo, và những nhà nghiên cứu phải cố gắng giúp anh chị em giáo
viên chỉ ra những đặc trưng thi pháp thể loại và cách tiếp cận tác phẩm như
thế nào để học sinh có thể tiếp nhận tác phẩm một cách có hiệu quả.

1



Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Bản thân tôi là giáo viên cấp ba, tôi cũng đã bị cuốn hút bởi những
trang kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ lâu và mong muốn tìm ra một số biện
pháp cụ thể, thiết thực để dạy tác phẩm bút kí này theo đúng đặc trưng thi
pháp thể loại và mong muốn dạy cho học sinh có hiệu quả nhất.
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi
pháp thể loại”. Với mong muốn tìm ra cách dạy thể loại bút kí nói chung, bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có nhiều công trình nghiên cứu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác
phẩm của ông. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều thể hiện sự tìm tòi
nghiên cứu công phu, sự am hiểu sâu sắc sáng tác của ông ở một trong những
khía cạnh như: thiên nhiên, chất Huế, hình ảnh, biểu tượng, yếu tố văn hoá
tâm linh, tính cách…
Sách Ngữ văn (12 tập I), Nxb Giáo dục, 2008. Có đoạn viết: “Hoàng Phủ
Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong
sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến
thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…Tất cả được thể hiện qua
lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa”.
Nhà thơ Ngô Minh, trong “Bài thơ hay và lạ của Hoàng Phủ Ngọc Tường”
đã đánh giá “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút kí
nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp
dẫn người đọc ở tính nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ
huyền hoặc, quyễn rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình”.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” (tập 3)
có nhận xét kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất nhiều ánh lửa”


2


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Nhà thơ Hoàng Cát, “Đọc cuốn Ngọn Núi Ảo ảnh” Văn nghệ số 12 ra
ngày 18 tháng 3 năm 2000 nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong
cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức về văn
học, triết học, lịch sử, địa lí sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì ở thời
điểm nào và ở đâu ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được”.
Trần Thùy Mai trong “Kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường” cũng phát
hiện: “Huế trong kí văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giới hạn ở
những thành quách, lăng mộ, sông núi hay những chuyện vua chúa hậu phi
chép dài dài trong sách sử… điều anh quan tâm là con người, và với sự hiểu
biết khoa học của mình anh đã dựng lại một diện mạo tâm hồn của Huế xưa,
điều mà không một nhà Huế học nào làm được”.
Chính Hoàng phủ Ngọc Tường, trong bài “Một vài suy nghĩ về thể kí”,
đăng trên báo Văn nghệ, số 31, năm 1983. “Nhiệm vụ thông báo đặt ra cho
nhà văn viết kí một yêu cầu riêng, có tính nguyên tắc từ phía người đọc: rằng
những gì có nghĩa mà anh nói đều không chỉ có lí mà còn phải có thực, tất cả
phải được đảm bảo bằng thực chứng…Trung thành với sự ủy nhiệm ấy của
người đọc – về sứ mệnh thông báo hiện thực – nhà văn bút kí luôn tự đặt mình
trước những kỉ luật nghề nghiệp hết sức khắt khe: phong phú trong tư liệu,
chính xác trong hiểu biết và trung thực trong tất cả những gì được rút ra từ
thế giới nội tâm của người viết”.
Trong một cuộc phỏng vấn nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân dịp tác
phẩm được đưa vào sách giáo khoa, ông đã có những chia sẻ: “Đây là bút kí
dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên
một dòng sông y như nó vốn có. (Dòng sông của văn hóa, lịch sử, huyền thoại

với vẻ đẹp thật của thiên nhiên và có tính nhân văn). Đó là một thứ tài sản tôi
muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: Sông Hương như một viên
ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ đẹp ấy để nó

3


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động thay đổi nó dù điều này không
phải dễ”.
GS. Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây
bút kí đặc sắc” và là “một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam
hiện đại …” và khi nghiên cứu “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Và giáo sư
tiếp tục đánh giá “trong nhiều vùng quê Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đến và
đã viết, xứ Huế là nơi ông am hiểu hơn cả. Những trang văn của ông viết về
Huế đã chứa đựng nhiều đặc sắc của văn phong trầm tĩnh, lắng đọng trong
giọng điệu, phong phú dày dặn trong vốn liếng và kĩ lưỡng tự nhiên trong
ngôn từ, ngữ pháp”.
Trong “Phân tích bình giảng tác phẩm văn học lớp 12” (2008). NXB Giáo
dục. GS. Nguyễn Đăng Na đã viết: “Ai đã đặt tên cho dòng sông? thuộc thể
văn tùy bút. Tùy bút có hai đặc điểm về mặt thể loại: Hành văn hết sức tự do
phóng túng, không bị ràng buộc bởi một quy phạm chặt chẽ nào. Nhân vật
chính là cái tôi của tác giả. Tùy bút, vì thế, thường giàu chất trữ tình (Nguyễn
Tuân gọi viết tùy bút là “Chơi lối độc tấu”. Giá trị của bài tùy bút Ai đã đặt
tên cho dòng sông? là ở những phát hiện phong phú, độc đáo, tinh tế về vẻ
đẹp nhiều mặt của dòng sông Hương, nhờ một cái tôi tài hoa, uyên bác, dạt
dào tình cảm với đối tượng viết của mình”.
GS. TS Trần Đình Sử trong cuốn Lý luận và phê bình văn học có nhận xét:
“Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường ta bỗng thấy anh tìm đến thể bút ký như một

điều tất yếu, bởi vì đó là một thể loại phóng khoáng, tự do mà cá tính nghệ sĩ
thường trực tiếp tham gia vào đặc điểm thể loại. Tính thích giao du, tình yêu
lịch sử, triết học, nhu cầu trầm tư nội tâm, thích chiêm nghiệm, quan sát, tất
cả đều là các kích thước khác nhau của bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường”.
Đồng thời ông cũng đánh giá Hoàng Phủ Ngọc Tường là người mang tâm hồn
Huế: “Tác giả tả tâm hồn xứ Huế trong tổng thể thiên nhiên và đô thị, trong
chiều sâu lịch sử, từ thời Châu Hóa xa xưa đã nổi tiếng là trường thành

4


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
phương Nam của đất nước. Tác giả thể hiện sông Hương trong truyền thống
văn hóa Việt Nam. Thật thú vị khi anh nhận ra màu sắc, dáng nét âm hưởng xứ
Huế trên mỗi trang Kiều, hoặc đột ngột liên hệ Đặng Dung mài Gươm dưới
chân thành Châu Hóa. Nhưng hơn hết anh nói đến sông Hương với tấm lòng
gắn bó khi so sánh với các con sông trên thế giới”. Và “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” là một bài thơ văn xuôi về người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ
sở, một người mẹ không thể hiểu được bằng cái nhìn bề ngoài hời hợt.
Ngoài ra còn có một số khóa luận, luận văn nghiên cứu về sáng tác của
Hoàng Phủ Ngọc Tường như luận văn: “Dạy học đoạn trích “Người lái đò
sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường theo cá tính sáng tạo của nhà văn của Nguyễn Thị Hồng
Lam (2010). Tác giả đã so sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và
Hoàng Phủ Ngọc Tường trên nhiều phương diện để làm nổi bật sự khác biệt
giữa hai tác giả, đồng thời chỉ ra đặc trưng thể loại kí và cá tính sáng tạo của
hai nhà văn qua hai đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”.
Luận văn “Hướng dẫn học sinh đọc hiểu đoạn trích”Ai đã đặt tên cho

dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ điểm nhìn văn hóa” của Lý Mai
Phương (Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2011). Tác giả nghiên cứu về
thể loại kí nói chung và về kí Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và đưa lí
thuyết đọc hiểu vào giảng dạy nhằm góp phần bồi dưỡng năng lực tiếp nhận
văn học của học sinh và góp phần nâng cao hiệu quả giờ dạy học tác phẩm
văn chương, từ đó nhằm giúp cho học sinh hiểu được giá trị tác phẩm “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?” từ điểm nhìn văn hóa.
Luận văn “Đặc sắc của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường qua tập Ai đã đặt tên
cho dòng sông” của Nguyễn Thị Nhung (2009). Tác giả tập trung phân tích
thiên nhiên và con người trong kí Hoàng Phủ; đặc điểm kí Hoàng Phủ qua các
giai đoạn, một số yếu tố nghệ thuật trong bút kí.

5


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Luận văn “Vận dụng văn học so sánh trong dạy học “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở lớp 12 THPT” của Đỗ Thị Thảo
(2012). đã đi sâu nghiên cứu những đặc trưng cơ bản và vị trí quan trọng của
văn học so sánh trong việc tìm hiểu các tác phẩm ở nhà trường phổ thông, từ
đó đề xuất một số biện pháp dạy học vận dụng văn học so sánh trong việc dạy
học tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Các công trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa thiết thực, giúp giáo viên
làm tài liệu tham khảo. Song, chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu
hướng dẫn học sinh cách tiếp cận thể bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
theo đặc trưng thi pháp thể loại. Vì thế chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu Dạy
học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường cho
học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại” nhằm nghiên cứu sâu hơn
thể bút kí và tìm ra cách dạy học bút kí có hiệu quả, góp phần nâng cao chất

lượng dạy học văn ở THPT.
3. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra đặc trưng thi pháp thể loại bút kí nói chung và bút kí “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?” nói riêng
Đề xuất một số biện pháp dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” theo đặc trưng thi pháp thể loại.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đoạn trích bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trong sách giáo khoa
Học sinh lớp 12, Trường THPT Công Nghiệp Hòa Bình
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ ra đặc trưng tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 12
Khả năng tiếp nhận bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” theo đặc trưng
thi pháp thể loại của các em, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
giảng dạy và học tập bút kí nói riêng và môn văn nói chung.
Tổ chức thực nghiệm và đánh giá kết quả thực nghiệm.

6


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thực nghiệm
7. Đóng góp của luận văn
Từ việc chỉ ra được những đặc trưng thi pháp cơ bản của bút kí “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trên cơ sở đó đề xuất được một số biện pháp dạy học bút kí “Ai đã đặt

tên cho dòng sông?” cho học sinh lớp 12
Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bút kí nói chung và bút kí
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng
Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho giáo viên khi dạy bút kí và bút kí
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Đặc trưng thi pháp bút kí và bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng.
Chương 2: Một số biện pháp dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
của Hoàng Phủ Ngọc Tường theo đặc trưng thi pháp thể loại.
Chương 3: Thực nghiệm

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: ĐẶC TRƢNG THI PHÁP BÖT KÍ VÀ BÖT KÍ “AI ĐÃ
ĐẶT TÊN CHO DÕNG SÔNG?” CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
NÓI RIÊNG

7


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
1.1. Khái niệm bút kí
Trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi), đã đưa ra định nghĩa: Bút kí là thể loại thuộc loại hình kí,
ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu
cùng những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp
dẫn và thuyết phục của bút kí tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên
cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm
khám phá ra những khía cạnh “có vấn đề”, những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc

trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Giá trị của
bút kí là giá trị về nhận thức.
Trong “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê (chủ biên) quan niệm bút kí
ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, những nhận xét, cảm xúc của người viết
trước các hiện tượng trong cuộc sống.
Còn trong giáo trình “Lí luận văn học” (Trần Đình Sử - La Khắc Hòa –
Phùng Ngọc Kiếm – Nguyễn Xuân Nam) các tác giả đưa ra định nghĩa, Bút kí
là một thể của kí, thuộc loại trung gian giữa kí sự và tùy bút. Bút kí thiên về
việc ghi lại một cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một
chuyến đi. Nó kết hợp linh hoạt các phương thức nghị luận, tự sự, trữ tình.
Nhiều khi nó nghiêng hẳn về trữ tình, có thể trình bày những nhận xét, những
liên tưởng triền miên, phóng túng như tùy bút. Có lúc nó lại tăng cường phần
nghị luận và trở thành bút kí chính luận. Bút kí chính luận có thể bàn về
nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Giá trị của bút kí
chính luận là ở tầm tư tưởng chủ đạo, ở lôgic lập luận, ở sức thuyết phục của
những dẫn chứng. Nó mang tính chiến đấu rõ rệt, ứng chiến kịp thời, có tác
dụng tuyên truyền, động viên trực tiếp. Đây là thể văn gần với báo chí. Nó có
giá trị văn học khi ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có khả năng tác
động tới tâm hồn người đọc. Nhìn chung, phân lượng của các phương thức,

8


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
phương tiện chiếm lĩnh nội dung, tổ chức văn bản trong từng bài kí luôn luôn
có sự thay đổi tùy theo bút pháp của các nhà văn khác nhau, nên ranh giới các
thể bút kí, kí sự, tùy bút có khi không thật rạch ròi, rất khó phân biệt, nhất là
trong một bài ngắn”.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Nam trong “Từ điển Văn học” thì Bút ký là

một thể loại thuộc nhóm thể tài ký nhằm ghi lại sự việc, con người, cảnh vật
mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm
hiểu nào đó. Bút ký là thể trung gian giữa ký sự và tùy bút. Ký sự thiên về việc
ghi người thật, việc thật. Tùy bút thiên về diễn đạt những tâm tư, suy nghĩ, diễn
biến trong thế giới nội tâm. Bút ký cũng không sử dụng việc hư cấu vào phản
ánh hiện thực, có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng nhưng ít phóng túng
triền miên, mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định. Có thể nói,
làm nổi bật giá trị nhận thức là ý nghĩa hàng đầu của thể loại. Tuy nhiên, phân
lượng những đặc điểm trên lại biến hóa tùy theo bút pháp của các nhà văn khác
nhau nên ranh giới giữa các thể bút ký và tùy bút có khi không thật rạch ròi,
nhất là trong một bài ngắn. Bút ký có thể được chia làm nhiều loại:
Bút ký báo chí: loại bút ký chủ yếu nhằm thông tin - lượng thông tin là
linh hồn của nó. Do đó yêu cầu vừa phải rất xác thực, vừa có tính thời sự,
thường đề cập đến những vấn đề cấp bách, có khi hàng ngày, hàng giờ với
một số suy nghĩ ban đầu.
Bút ký chính luận: cũng là một thể văn quen thuộc của báo chí, trong
đó thành phần nghị luận (về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa…) là quan
trọng, có khi là chủ yếu. Giá trị của bút ký chính luận là ở tư tưởng chủ đạo, ở
tính lôgic của lập luận, ở sức thuyết phục của những dẫn chứng. nó mang tính
tranh luận rõ rệt, ứng biến kịp thời, có tác dụng tuyên truyền cho một quan
điểm nào đó.

9


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Bút ký văn học: ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, có khả năng tác
động đến tâm hồn người. Bút kí văn học không đòi hỏi tính xác thực ở mức
tuyệt đối, tính cấp bách về thời sự. Nó đi sâu vào thế giới tâm hồn con người,

chú ý đến sự khắc họa tính cách thông qua một cốt truyện (tuy không hoàn
chỉnh như ở truyện ngắn) và những biện pháp tưởng tượng, liên tưởng, trữ
tình với tất cả những nét riêng tư đặc sắc. Nói cách khác, bút ký văn học chú ý
hơn chất nhân văn và chất thẩm mỹ.
1.2. Đặc trƣng thi pháp của thể loại bút kí và đặc trƣng thi pháp bút kí
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
1.2.1. Đặc trƣng thi pháp bút kí
Là một loại hình văn học mang đậm sứ mệnh thông báo nên yêu cầu
bút kí phải trung thành với người đọc. Bút kí phải ghi chép về những cái có
thật ở đời sống, phải miêu tả người thật, việc thật và tôn trọng tính xác thực
của đối tượng. GS. Hà Minh Đức chỉ rõ: “Chỗ khác nhau cơ bản giữa các thể
kí văn học và các thể loại văn học khác là ở nguyên tắc tôn trọng tính xác
thực của đối tượng miêu tả”. Những điều tác giả viết ra phải có thực và có lí.
Tất cả các vấn đề phản ánh phải được đảm bảo bằng thực chứng. Kể cả khi sử
dụng hư cấu nhà văn cũng phải đảm bảo tính xác thực.
Sự thực đời sống đi vào tác phẩm kí tuy có những đổi thay nhưng
không hề biến chất và bị mất đi tính xác thực lịch sử. Do yếu tố xác được đặt
lên hàng đầu, nên sức hấp dẫn và thuyết phục của kí phần lớn nằm ở chính sự
việc được phản ánh.
Bút kí là tư liệu in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của tác giả. Nhân vật
chính trong bút kí phải là cái tôi tác giả nên nó khác các loại hình văn học
khác ở chỗ: Người viết phải luôn luôn có thái độ nhập cuộc trước những vấn
đề nóng bỏng của thời đại để có thể đưa vào tác phẩm của họ những mảng
thông tin, những mảng tư liệu và chất liệu sống động, thu hút sự chú ý của

10


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại

người đọc. Đặt mình trước những kỉ luật nghề nghiệp hết sức khắt khe. Phải
có tư tưởng phong phú, người viết công khai bày tỏ thái độ, cách nhìn, cách
đánh giá đối với hiện thực. Trong bút kí tác giả có cơ hội để bộc lộ vai trò của
chủ thể sáng tạo, khẳng định được dấu ấn riêng của mình. Bản thân Hoàng
Phủ Ngọc Tường cũng quan niệm: “Với thể kí, tôi có thể nói tùy thích những
gì đang diễn ra trong tâm hồn tôi, những trải nghiệm đẹp và cả những khổ đau
mình. Thời đại nào cũng cần sự thật – nhà văn cũng cần phải nói lên sự thật”.
Phải trung thực trong tất cả những gì được đặt ra từ thế giới nội tâm của người
viết, tức là phải có hiểu biết chính xác.
Người viết kí có thể vận dụng hư cấu, tưởng tượng để bồi đắp vào
những điểm trắng, tô đậm thêm hình tượng của tác phẩm. Trong khuôn khổ
tôn trọng tính xác thực của nhân vật, hoàn cảnh, không được sử dụng tùy tiện.
Trong bút kí nhà văn có thể xây dựng một hình tượng nghệ thuật xuyên suốt
tác phẩm. Hình tượng đó có thể là thiên nhiên, sự vật, con người. Tùy theo sự
hiểu biết cảm hứng và sự rung động tâm hồn, tình cảm của tác giả với đối
tượng phản ánh. Ngay trong tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gồm
tám bài trong đó có ba bài viết về thiên nhiên, con người, văn hóa Huế, năm
bài viết về thiên nhiên và con người các miền đất khác. Với các hình tượng
sông Hương, người anh hùng Lê Minh Trường, khu vườn An Hiên…
Là một thể văn giàu chất trữ tình nên người viết bút kí luôn có lối văn
tự do, phóng khoáng, mang đậm chất nhân văn. Nhà văn trực tiếp kể tả, phân
tích, luận giải, đánh giá những sự việc, hiện tượng được đề cập trong tác
phẩm. Ngôn ngữ bút kí gần với ngôn ngữ cuộc sống đời thường. Nhà văn có
thể sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để tác phẩm hay và hấp dẫn người đọc.
1.2.2. Đặc trƣng thi pháp bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Đánh giá về tập bút kí này GS.TS Trần Đình Sử khẳng định: “Ai đã đặt
tên cho dòng sông là một bài thơ văn xuôi về người mẹ phù sa của một vùng

11



Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
văn hóa xứ sở, một người mẹ không thể hiểu được chỉ bằng cái nhìn bề ngoài
hời hợt”. Chính vì thế, chúng tôi muốn đi sâu, nghiên cứu tác phẩm từ góc độ
thi pháp để chỉ ra những đặc trưng của tác phẩm, từ đó có thể đề xuất một số
biện pháp dạy học phù hợp.
1.2.2.1. Đặc trƣng thứ nhất: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” in đậm dấu
ấn cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng tài hoa uyên bác.
1.2.2.1.1. Cái tôi - đóng vai trò ngƣời tham dự, ngƣời trần thuật trực tiếp
trong hành trình đi tìm một câu trả lời
Cái tôi vừa dẫn dắt câu chuyện, vừa đưa ra những hành động, suy nghĩ,
cảm xúc và những tư tưởng triết lí của tác giả trong hành trình đi tìm lời giải
đáp cho một câu hỏi bằng cả tâm hồn, cái tôi ấy giữ vai trò chủ đạo, dám đi,
dám nghĩ, dám làm, dám đến. Bài bút kí là nơi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
gửi trọn niềm say mê, tâm huyết và đã khẳng định rõ tài năng nghệ thuật cùng
bản lĩnh của người nghệ sĩ trước cuộc đời và trong sáng tạo nghệ thuật.
Để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi của một nhà văn từ Hà Nội vào Huế
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trực tiếp thực
hiện cuộc hành trình đi suốt chiều dài dòng sông để khám phá, tìm kiếm, lí
giải cái tên của dòng sông. Cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ
về vẻ đẹp của con sông mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn, là sự rung động
của tác giả. Nhà văn đã viết về sông Hương bằng một tình yêu thiết tha, đầy
ngưỡng mộ tự hào.
Sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội và mạnh mẽ.
Trước kia các nhà văn và các tác phẩm viết về sông Hương – xứ Huế,
thường chỉ chú ý đến vẻ đẹp ở sự lững lờ, nhẹ nhàng, trầm mặc và cổ kính của
nó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận sông Hương từ những góc nhìn khác
nhau, và phát hiện ra rằng trước khi trở thành “người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ sở”, với “một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, sông Hương như “một


12


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
bản trường ca của rừng già” Trường Sơn, chảy giữa một vùng núi non hiểm
trở, hùng vĩ. Nhà văn phát hiện ra hai đặc điểm của dòng sông có lúc dữ dội
và mãnh liệt “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh
thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, có lúc lại trữ tình thơ
mộng “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”. Sông Hương có vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vẻ đẹp ấy có lúc
“phóng khoáng”, “man dại”, “mãnh liệt” mang dư âm của rừng già Trường
Sơn, có lúc là vẻ đẹp cổ kính huyền ảo, trầm mặc chảy qua những đồi thông,
những lăng tẩm. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo cộng với vốn kiến thức
phong phú được khảo cứu một cách công phu, tác giả đã tái hiện thật ấn tượng
về vẻ đẹp của con sông Hương ở vùng thượng nguồn. Tác giả hòa nhập tâm
hồn mình để hành trình cùng sông Hương. Ông nhận ra tất cả vẻ đẹp của dòng
sông như một người con gái vừa dịu dàng, vừa trí tuệ. Trong thế giới nghệ
thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương chính là hình tượng nghệ
thuật kết tinh của âm nhac, thơ ca và hội họa.
Sông Hương khi chảy vào trong lòng thành phố Huế. Trước khi là dòng
sông thơ mộng của xứ Huế, sông Hương có cái tên A Pàng nghĩa là “dòng
sông đời người”, một dòng sông của dân tộc Cà Tu.
Sông Hương mang vẻ đẹp mềm mại, yêu kiều và mộng mơ, nước sông
Hương có độ phẳng lặng êm đềm như mặt nước hồ đầy quyến rũ. Màu nước
sông Hương hết sức nhạy cảm với ánh sáng, ánh lên vẻ đẹp đa sắc, với những
sắc màu long lanh, đẹp đẽ, rất Huế. Đó là sắc xanh thẳm khi nó đi ngang một
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, lúc là những mảnh phản quang của ánh
sáng, thay đổi màu sắc trong một ngày “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Đó

là nét đặc biệt của không gian Huế mà không nơi nào có được. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã ví sự thay đổi kì diệu này như màu của hoa phù dung, như
“màu áo của người bạn gái yêu mến của mình”. Nhưng lãng mạn nhất, tình tứ

13


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
nhất là vào độ cuối hè, nước sông Hương chuyển sang màu tím, nó như mang
sắc màu tâm trạng, cũng duyên dáng, đằm thắm, dịu ngọt giữ gìn để không
bộc lộ ra ngoài, vì thế màu tím ấy vừa là màu áo dài của người phụ nữ Huế,
vừa là tượng trưng cho đức hạnh của họ. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, màu
tím của sông Hương mang dấu hiệu của một nội tâm trong sáng, giàu có
giống nàng thiếu nữ đầy xuân tình.
Và đẹp nhất có lẽ là sắc màu huyền ảo của sương khói trên dòng
Hương. Từ khoảng cuối năm đến đầu hạ, vào lúc sáng tinh mơ, cuối chiều vào
trong những đêm trăng lạnh, sương mù trên sông Hương đã đưa Huế chìm
trong không khí nhạt nhòa, hư ảo đến lạ thường. Chỉ có Hoàng Phủ Ngọc
Tường mới nhận ra những tháng sương mù đã đưa Huế quay lại với linh hồn
một cố đô cổ kính trong làn sương ấy. Nhà văn đã khéo so sánh với sắc áo lục
điều mà những cô dâu Huế thời xưa thường mặc để gợi ra sự tương đồng và
vẻ đẹp giữa con người và con sông.
Dõi theo những bước chuyển hóa của dòng sông từ thế giới huyền thoại
rừng già đến với thế giới kinh kì để trở thành dòng sông Hương xứ Huế, nhà
văn nhận ra sông Hương đã phải vượt qua hơn bảy chục thác ghềnh, mang
trong cốt cách tinh thần của nó mọi cái đẹp mà trời đất chỉ dành riêng cho
những con sông rừng. Mỗi đoạn chuyển dòng, mỗi khúc quanh đột ngột của
sông Hương đều được Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận như một cuộc tìm
kiếm có ý thức về con sông. “Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng nam

bắc qua điện hòn chén; vấp Ngọc Trảm, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng
qua thềm đất bãi Nguyệt Biếu, Lương Quán rồi đột ngột rẽ một hình cung thật
tròn về phí đông ba, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
Sông Hương khi về với Huế cũng tạo cho mình một dáng hình riêng vô
cùng mềm mại, duyên dáng. Với những đường cong thật mềm, những cánh
cung thật nhẹ, những khúc quanh thật duyên đã tạo nên cho con sông một
dáng hình của một tấm lụa xanh mềm mại trải dài cùng với không gian Huế.

14


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Về đến Huế, sông Hương phô bày một vẻ đẹp đa sắc thái: có khi sông trẻ
trung đầy sức sống với những khao khát và kiếm tìm trong những khúc quanh
đột ngột, những đoạn đổi dòng duyên dáng, yêu kiều như một tấm lụa, rồi lại
trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Chính nhịp sống biến hóa ấy làm nên một sức
hấp dẫn không bao giờ phai nhạt của sông Hương trong lòng xứ Huế.
Sông Hương trong lòng thành phố Huế như dùng dằng không chảy.
Bằng cái nhìn của một nghệ sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra cô gái Digan
hoang dại nơi rừng già đã trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở khi về
đến thành phố Huế; sông Hương cũng trở thành người con gái Huế với tiếng
“vâng” dịu ngọt của tình yêu. Dòng sông trở nên vô cùng chậm rãi, thư thái
như cảm xúc, như trầm mặc cùng nhịp sống nơi đây. Viết về sông Hương có
lẽ không một nghệ sĩ nào quên đề cập tới cái dòng chảy lững lờ rất đặc trưng
của Huế, cái lững lờ như thương như nhớ đã đi vào trong thơ của Hàn Mạc
Tử, của Nam Trân, của Tố Hữu và thăng hoa trong hai câu thơ của Thu Bồn:
“Con sông dung dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mô tả thật hay dòng chảy đặc biệt ấy. Ông

viết sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi “chậm, thực chậm cơ hồ chỉ là
một mặt hồ yên tĩnh”. Và ta có thể cảm nhận cái “dòng sông phẳng” (Tố Hữu)
ấy qua trăm nghìn ánh hoa đăng mà người dân thành Huế thả xuống dòng
sông trong những đêm hội rằm tháng bảy. Những ánh hoa đăng ấy không vùn
vụt trôi đi mà chao nhẹ trên mặt nước như nửa đi, nửa ở, biến dòng sông
thành một mặt hồ lung linh, lộng lẫy.
Chưa hài lòng với những kiếm tìm trên, nhà văn tiếp tục tìm trong lòng
dân và bộn bề tư liệu. Để tìm ra cách lí giải tên của dòng sông, nhà văn đã tìm
kiếm trong nhân dân và phát hiện ra người làng Thành Trung ở ngã ba Sình,
phía tả ngạn sông Hương có nghề trồng rau thơm và nghe được trong dân gian
câu chuyện huyền thoại: “Vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ

15


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước
thơm tho mãi mãi”. Và nói rằng có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi “Ai
đã đặt tên cho dòng sông?” chăng?. Trong cuốn “Ai đã đặt tên dòng sông?”,
do nhà xuất bản Thuận Hóa Huế in, Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: “thuở
ấy, khi đi tìm đất lập làng, vị khai khẩn đã mang theo một nắm hạt cải vãi dọc
theo bước đi. Suốt một dải đất dài ven sông Hương mà ông đã đi qua, chỉ có
một vùng đất ở đấy hạt giống mọc thành những đám rau xanh tốt, chính là
làng Thành Trung bây giờ”. Những người dân làng Thành Trung đã biến ngôi
làng thành một ngôi làng thơm với nghề trồng rau nổi tiếng “rau Phường
Thành”. Đi trên đất này “tôi được nghe một mùi đất thơm đến như vậy, xao
xuyến như da thịt, sâu thẳm như thời gian. Chính lúc ấy, tôi liên tưởng đến
sông Hương với cái tên gợi cảm của nó”. Từ đó, những con người sống trên
sông Hương mới giải thích về cái tên của con sông: “con người đã đặt tên cho

dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước
vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”.
Tìm trong tư liệu lịch sử, nhà văn dựa theo các sách cổ thì thấy rằng:
trước khi mang tên sông Hương, con sông này tuỳ theo thời gian có nhiều tên
khác nhau. Sách "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi (1435), viết là sông Linh. Sách
"Ô châu cận lục" do Dương Văn An nhuận sắc vào năm 1555, viết sông cái
Kim Trà (Kim Trà đại giang). Sách "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn gọi là
sông Hương Trà (Hương Trà nguyên). Từ nhiều tài liệu khác cho biết cho biết
sông Hương đã từng mang tên sông Lô Dung, sông Dinh, sông Yên Lục.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn lọc trong bộn bề tư liệu lịch sử để thấy rằng
“trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông
Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại
Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh
thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi
tráng của thế kỉ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông

16


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung
chuyển”. Khi dựa vào những cứ liệu của khảo cổ học, nhà văn đã phát hiện ra
sông Hương và thành phố Huế có bề dày lịch sử hết sức oai hùng.
1.2.2.1.2. Cái tôi với những góc nhìn đa chiều, mới mẻ, đậm chất nhân
văn từ đó có những phát hiện phong phú, độc đáo, tinh tế cũng nhƣ vẻ
đẹp nhiều mặt của sông Hƣơng và của Huế
Từ góc nhìn văn hóa nhà văn quan niệm: “Văn hóa là bài thơ của cuộc
sống”. Do vậy, từ góc độ văn hóa, nhà văn đã nhìn ra sông Hương và Huế là
một cái gì đó rất linh thiêng, bởi nó gắn liền với nhiều di tích, nhiều địa danh

cổ vốn chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần và mang cốt cách tinh túy
muôn đời. Nhà văn nhận ra sông Hương uốn mình quanh những địa danh văn
hóa cổ kính, nó mang “vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi”, nằm mơ
màng lắng nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ, tiếng gà từ những xóm làng
trung du bát ngát. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ không chỉ một cái tôi
hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng
sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu chiều sâu văn hóa, tinh thần, tâm hồ
con người xứ Huế và của sông Hương.
Nếu như bằng sự quan sát trực tiếp, nhà văn tiếp cận và mô tả vẻ đẹp
địa lí tự nhiên, cũng như diện mạo bề ngoài của sông Hương thì đến đây bằng
sự suy ngẫm sâu sắc, bằng sự tìm tòi, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại phát hiện
rằng sông Hương mang trong mình cốt cách văn hóa của mảnh đất và con
người xứ Huế. Từ những khúc quanh đột ngột, những đổi dòng liên tục đến
sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” và cả lưu tốc “chậm, thực chậm”
của con sông đều thể hiện rất rõ nhịp sống, tâm hồn, cốt cách của con người
Huế, một nhịp sống thư thái, bình lặng mà kiên cường với những con người
vừa trẻ trung, đầy sức sống, vừa hết sức táo bạo, vừa rất đỗi kín đáo, ý tứ,
chân thành trong tình cảm.

17


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Trên dòng sông Hương toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh
thành và phát triển. Nói đến Huế là nói đến mảnh đất mang di sản văn hóa đồ
sộ đó của dân tộc. Tác giả đã nghiên cứu nét sinh hoạt văn hóa riêng của Huế
, “đặc sản của Huế đó là âm nhạc cổ điển Huế. Nói đến âm nhạc cổ điển Huế
trên sông Hương ông lại liên tưởng đến ngay tiếng đàn của Kiều: tiếng đàn
định mệnh Nguyễn Du đã bao năm “lênh đênh trên quãng sông này với một

phiến trăng sầu”. Vì thế, nghe nhạc Huế mà nghe ban ngày thì thật “vô
duyên”, bởi nhạc Huế có linh hồn riêng, cốt cách riêng, mà hay nhất là nghe
trên sông Hương. Giữa mênh mang sông nước, giữa tĩnh lặng của màn đêm,
từng lời ca tiếng nhạc thấm sâu vào hồn người để lại những dư vị khôn nguôi.
Đúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết luận: “toàn bộ âm nhạc cổ điển
Huế đã sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” mà một thời đã trở
thành nhã nhạc cung đình Huế.
Từ góc nhìn lịch sử. Bằng những kiến thức lịch sử cụ thể, sâu sắc,
chính xác Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến người đọc ngỡ ngàng thậm chí
bất ngờ khi mô tả dòng chảy của sông Hương. Lượng thông tin được ông huy
động qua thiên bút kí đã làm thay đổi “tầm vóc”, “chiều kích” của sông
Hương trong cái nhìn của người đọc. sông Hương là dòng sông của thơ ca
nhạc họa và cũng là dòng sông “của thời gian ngân vang”, tác giả đã nhận ra
âm hưởng sử thi được “viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Dòng sông thơ mộng
luôn bảng lảng sương khói kia tưởng chừng xa lạ với sự dữ dội, khắc nghiệt,
nhưng không, những kiến thức lịch sử mà tác giả cung cấp cho người đọc
trong bản bút kí giúp họ hiểu thêm “Sông Hương đã sống những thế kỉ thật
quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó”. Khi tổ quốc kêu gọi thì “biết cách tự
hiến đời mình làm một chiến công”. Như vậy sông Hương không chỉ thơ
mộng mà còn rất hào hùng.
Qua những kiến thức lịch sử phong phú, sông Hương dưới cái nhìn của
nhà văn không chỉ đẹp mà còn rất linh thiêng, đầy kiêu hãnh tự hào. Sông

18


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Hương là ân nhân, vĩ nhân, người anh hùng cứu quốc của người dân xứ Huế
nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Từ đây nhà văn cũng thể hiện niềm

biết ơn, trân trọng đối với dòng sông lịch sử này. Qua những lớp trầm tích của
thời gian, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khôi phục lại những địa danh lịch sử đã
khuất chìm theo năm tháng. Sông Hương không chỉ là dòng sông bé nhỏ,
quen với cái hiền hòa phẳng lặng, nó vụt lớn lên sánh vai với các dòng sông
lịch sử như sông Như Nguyêt, Bạch Đằng. Những kiến thức lịch sử mà Hoàng
Phủ Ngọc Tường cung cấp đã trả cho sông Hương một tầm vóc vốn có trong
lịch sử. Trên những trang bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường lịch sử không
chỉ là những thông tin những sự kiện mà nó trở thành lịch sử tâm hồn, lịch sử
dân tộc. Đó thực là những trang kí thể hiện một cái tôi thiết tha đầy tự hào và
kiêu hãnh về lịch sử của quê hương xứ Huế và trong sự trung thành tuyệt đối
của nhà văn với những tư liệu lịch sử và hiện thực đời sống.
Từ góc nhìn văn học và nghệ thuật. Sông Hương hiện lên trong cuộc
tìm kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là con sông địa lí mà là một
sinh thể, một con người “Sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh
đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử, lại vừa đằm thắm lắng
sâu với nền văn hóa riêng của nó. Nghiên cứu về sông Hương, tác giả nhận ra
cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua
ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi trang Kiều. Đó cũng chính là lúc
nhà văn tưởng tượng ra mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là
mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng với sự tìm kiếm và đuổi bắt, hào
hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của
nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường ca rầm rộ
của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya, với tiếng nước
rơi bán âm của những mái chèo khuya), khi là một con người giàu nữ tính và
có đủ sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan
phóng khoáng và man dại giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ

19



Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một
vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh thành).
Trong cuộc hành trình dù không ít những gian truân và cũng không hề ngắn
ngủi ấy, phẩm chất nữ tính của sông Hương khiến nó luôn tự bộ lộ mình là
một người con gái rất mực đa tình: dù với tâm hồn tự do và trong sáng hay
sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông cũng là hành trình tìm kiếm
người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở nên mềm hẳn đi
“như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, rồi cũng như Kiều khi gặp
chàng Kim, sông Hương gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi, sông Hương như chưa nỡ rời xa thành
phố mà cố ý đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố
lần cuối trong “nỗi vương vấn” “chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” như nàng
Kiều, trong đêm tình tự đã chí tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề.
Trong bài bút kí, người đọc nhận ra sự hòa quyện tuyệt vời giữa chất nhạc,
chất họa, chất thơ. Chỉ ăn một trái hồng mà nhà thơ nhận ra đủ các hương vị
thánh sắc của đất trời “Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của
chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng
như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của một
tiếng chim”.
Trong niềm yêu mến, thái độ kính ngưỡng đối với đại thi hào dân tộc
nguyễn Du và tập đại thành của thơ Nôm Việt Nam “Truyện Kiều” sự am
hiểu và gắn bó với sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi đến kết luận
“Nếu Nguyễn Du không có những năm tháng lênh đênh trên khúc sông này
với một phiến trăng sầu thì người đọc không có một nàng Kiều với những bản
đàn bạc mệnh đi suốt cuộc đời người con gái ấy”.
Sông Hương còn trở thành nguồn thi hứng bất tận cho thơ ca. Điểm qua
những gương mặt nhà thơ lớn đã từng viết về Huế như Tản Đà, Cao Bá Quát,


20


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Bà Huyện Thanh quan đến Tố Hữu. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa ra nhận
định chính xác “Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng
của các nghệ sĩ”.
1.2.2.1.3. Cái tôi trữ tình – nghệ sĩ mang đậm chất Huế luôn năng động đem
đến những trang văn xuôi duyên dáng, mƣợt mà và đậm chất tƣ tƣởng
Huế là xứ sở mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành nhiều tâm huyết nhất,
thể hiện rõ nhất sở trường nhà văn. Là nhà văn của Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã viết vể mảnh đất từng là chốn kinh kỳ với sông Hương, núi Ngự
hữu tình, với những đền đài, lăng tẩm thấm bao máu, nước mắt và là nơi kết
tinh tâm hồn, trí tuệ dân tộc đã nuôi dưỡng tâm hồn người nghệ sĩ. Mô tả
hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của một tâm
hồn xứ Huế, bộc lộ mọi cung bậc của nó, vừa mãnh liệt vừa lắng sâu, vừa trữ
tình thiết tha, vừa bình thản trí tuệ.
Có lẽ đẹp nhất, duyên dáng nhất, trữ tình nhất … là lúc sông Hương về
được với thành phố Huế. Nó “như đã tìm đúng đường về” nên “vui tươi hẳn”.
Đến đây tác giả lại nhìn sông Hương như một người con gái xa xứ háo hức
được trở lại mảnh đất quê hương xứ sở. “Con người” ấy ngắm nhìn thành phố
từ xa thấy chiếc cầu trắng: “in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vầng
trăng non”. Gắn với Huế, cảnh vật nào cũng thanh thoát, nhẹ nhàng, dịu dàng
như chính giọng nói ngọt ngào của con người nơi ấy. Hoàng Phủ Ngọc Tường
nhìn dòng sông yêu thương của mình một cách say đắm: “Giáp mặt thành phố
ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến,
đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không
nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây phải được hiểu là tiếng vâng của
người con gái xứ Huế e ấp, dịu dàng sau chiếc nón trắng. So sánh đến như

thế, thực quá tài tình.

21


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Vì những yếu tố địa lí “những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên
sông” hay là vì Huế “vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ” mà “lưu tốc của
dòng nước” giảm hẳn, nó “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt
hồ yên tĩnh”. Có lẽ là cả hai lí do. Làm sao giữa một thành phố cổ kính, trầm
mặc lại có dòng sông dữ dội, mãnh liệt được? Đây cũng là nét riêng của sông
Hương. Nó khác với các dòng sông của nước ta và càng khác dòng Nê – va
của Lê – nin – grát cuồn cuộn trôi khiến người ta vội vàng, nuối tiếc. Rất
nhiều người yêu Huế, yêu sông Hương bởi “điệu lặng lờ của nó”.
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
(Thu Bồn)
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch nửa chờ Khuất Nguyên
(Nguyễn Trọng Tạo)
Dòng sông cứ chùng chình như chờ, như đợi, như mơ màng, suy ngẫm,
như muốn lưu lại hết những giá trị cổ xưa, những đêm rằm tháng bảy với
“trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh”. Quyến luyến không muốn rời xa nên
trước khi ra biển, dòng sông “như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước
như những vấn vương của một nỗi lòng”. Đã tìm đúng đường về nên khi phải
đi chắc chắn là dùng dằng, nuối tiếc.
Sông Hương làm đẹp cho Huế và Huế cũng khiến sông Hương mang vẻ
đẹp riêng không thể lẫn với bất kì dòng sông nào. Như vậy sông Hương
không chỉ là người đẹp, mà còn là người có tâm hồn, có tâm hồn sâu nặng

như chính con người xứ Huế vây. Miêu tả dòng sông lặng lờ như không chảy
nên nhịp điệu câu văn chậm rãi, đó là một điệu slow rất Huế trong văn xuôi.
Khác với một Nguyễn Tuân đầy góc cạnh, gai góc, văn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường mang đậm chất thi vị, ngọt ngào, sâu lắng. Nếu như các nghệ sĩ nhìn

22


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
điệu lặng lờ của sông Hương mà nghĩ tới tâm trạng “dùng dằng”, tâm trạng
mong chờ của con người, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường có những liên tưởng
riêng, độc đáo. Tác giả thấy dòng nước chùng chình như “người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya”.
Sông Hương gắn bó với thành phố Huế như “hình tượng của cặp tình
nhân lí tưởng” luôn tìm kiếm và đuổi bắt và cả hai gắn bó với nhau trong
một tình yêu muôn thủa. Hoàng Phủ Ngọc Tường tả tâm hồn xứ Huế trong
tổng thể thiên nhiên và lịch sử của nó, nó vừa mang nét truyền thống triết lí
sâu xa theo kiểu phương Đông vừa là nếp sống riêng của con người Huế.
Con người Huế là con người của thiên nhiên và con người anh hùng. Chất
văn hóa dân tộc, tấm lòng yêu quê hương tha thiết và luôn tự hào về truyền
thống quê hương đã tạo nên ở Hoàng Phủ Ngọc Tường một khả năng văn
chương đặc biệt.
Trong mọi không gian và thời gian, dưới ngòi bút tài hoa kết hợp
chất trữ tình – trí tuệ, tư duy đa chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huế
hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Bằng những con chữ có hồn ông
đã góp phần làm nổi rõ bản sắc thiên nhiên Huế và con người Huế, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã góp cho kí Việt một tiếng nói riêng của một nhà văn
rất Huế, trầm lắng, sâu đằm mà lúc nào cũng tha thiết trước những điều
mình nghĩ, mình viết.

1.2.2.2. Đặc trƣng thứ hai: Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã xây
dựng thành công một hình tƣợng nghệ thuật vô cùng hấp dẫn: sông
Hƣơng và câu trả lời đƣợc tìm thấy đầy tính huyền thoại
Trong bài bút kí, nhà văn đã có những phát hiện phong phú độc đáo về
vẻ đẹp nhiều mặt của dòng sông Hương. Trong thế giới nghệ thuật của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, sông Hương chính là hình tượng kết tinh của nhạc, của thơ,
của họa.

23


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
Cái làm nên hồn cốt và làm nên vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế chính là
sông Hương. Đã có bao nhiêu nhà văn nhà thơ viết về sông Hương. Với
Nguyễn Du, là dòng sông “long lanh đáy nước in trời”, với Tản Đà thì dòng
sông có lúc xanh biếc, lúc chuyển sang màu trắng tinh khiết để thanh lọc bao
tâm hồn. Với Cao Bá Quát thì dòng sông như “kiếm dựng trời xanh mang khí
phách của người anh hùng”. Đến Bà Huyện Thanh Quan dòng sông trở thành
nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Đến Tố Hữu dòng sông trở
thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác
giả đã tìm thấy vẻ đẹp của sông Hương là một sự liên kết kì diệu giữa dòng
sông và xứ Huế mộng và thơ. Tác giả có lối so sánh thật độc đáo, trữ tình,
nhờ đó sông Hương hiện lên với vẻ đẹp tình tứ, thơ mộng, vừa cổ kính đậm
màu sắc lịch sử, hồn thiêng dân tộc, lại vừa trẻ trung tràn đầy sức sống và
viên mãn. Ông đã tìm thấy ở dòng sông một vẻ đẹp bình dị nhưng không tầm
thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn sức mạnh
của đất đai, của dòng sông, đời người xứ Huế. Dòng sông ấy không chỉ hiền
hòa chảy giữa thành phố Huế mà nó đã phải vượt qua cuộc hành trình dài và
chuyển dòng liên tục, có lúc nó “mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy

như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn và có lúc nó trở nên dịu dàng và say
đắm”. Sông Hương có vẻ đẹp tràn đầy sức sống, lúc thì “phóng khoáng,”man
dại”, “mãnh liệt”, có lúc là vẻ đẹp cổ kính, huyền ảo, trầm mặc, chảy qua
những đồi thông, những lăng tẩm, có khi là một vẻ đẹp của một thiếu nữ mơ
màng nên thơ, khi dời thành phố về Vĩ Dạ mướt xanh. Tác giả như hòa nhập
tâm hồn mình để hành trình cùng sông Hương.
Sông Hương mang tâm hồn Huế, bản sắc Huế “bản chất huyễn hoặc,
quyến rũ”. Sông Hương về đến Huế đã mang được linh hồn của mảnh đất, của
con người nơi đây. Nó duyên dáng, kín đáo, dịu dàng biết bao. Có thể nói
rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn Huế, ông không chỉ nhìn sông
Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt

24


Luận văn: Dạy học bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho học sinh lớp 12 theo đặc trưng thi pháp thể loại
trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ
Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh
thần lịch sử.
Hình ảnh những dòng sông vẫn miên man chảy suốt chiều dài lịch sử,
thơ văn, bởi đó là những hình ảnh đẹp, thân thương và tiêu biểu cho mỗi vùng
đất, miền quê, là linh hồn xứ sở. Thơ ca Việt Nam đã xuất hiện vẻ đẹp hùng
tráng của sông Bạch Đằng, vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng của dòng sông Hương
trong Đây thôn Vĩ Dạ, rồi vẻ trầm ngâm, u buồn của dòng sông Hồng trong
Tràng Giang. Ngoài ra còn có sông Lô, sông Thao anh hùng trong những năm
kháng chiến chống Pháp.
Từ xưa, nói tới Huế là nói tới sông Hương, ta mải mê nhìn ngắm cái
đẹp của nó mà không biết rằng sông Hương chính là một sự khởi nguồn, một
sự bắt đầu của không gian văn hóa Huế. Sông Hương vẫn âm thầm bồi đắp

phù xa, nhưng dường như sông Hương không muốn bộc lộ công lao của
mình, nó cứ âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến nhiều thế kỉ qua.
Sông Hương trong sự đối sánh với các dòng sông nổi tiếng khác trên
thế giới, góp phần nâng tầm vóc của dòng sông. Để làm nổi bật vẻ đẹp và sức
hấp dẫn kì diệu của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo so sánh
sông Hương với những dòng sông đẹp nổi tiếng trên thế giới. Giống như sông
Xen chảy qua thủ đô (Pa - ri) ở Pháp, sông Đa – nuýp chảy qua thủ đô (Bu đa - pét) của Hung ga zi, sông Nê - va của Nga, sông Hương “nằm ngay giữa
lòng thành phố của mình”. Đó không chỉ là vị trí địa lí của dòng sông xứ Huế
mà còn là dáng vẻ của một người con gái mang tên Hương Giang khi ở bên
người tình mong đợi của mình.
Cái nhìn so sánh tinh tế của nhà văn cũng phát hiện ra nhiều vẻ đẹp độc
đáo của sông Hương, khác nhiều với những dòng sông nổi tiếng khác, hình
như chỉ “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Với Hoàng Phủ

25


×