Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Luận văn Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 118 trang )

Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài. ................................................................. 9
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ................. 9
6. Giả thuyết khoa học của đề tài .................................................................... 10
7. Đóng góp của đề tài..................................................................................... 10
8. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 10
9. Cấu trúc đề tài ............................................................................................. 11
NỘI DUNG..................................................................................................... 12
Chƣơng I: VẤN ĐỀ KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH
SỬ TRUNG HỌC CƠ SỞ: LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................... 12
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 12
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông ................ 12
1.1.2. Đặc trưng của bộ môn lịch sử ............................................................... 13
1.1.3. Đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh THCS ............................... 14
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý ................................................................................. 14
1.1.3.2. Đặc điểm nhận thức ........................................................................... 15
1.1.4. Yêu cầu đổi mới trong biên soạn sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông. 16
1.1.5. Quan niệm về kênh hình trong SGK ..................................................... 19
1.1.5.1. Cấu tạo sách giáo khoa sách lịch sử THCS ....................................... 19
1.1.5.2. Phân loại kênh hình ............................................................................ 21
1.1.5.3. Ý nghĩa của sử dụng kênh hình .......................................................... 24
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 33
1.2.1. Ở Việt Nam ........................................................................................... 33
1.2.1.1. Đối với giáo viên ................................................................................ 35


1.2.1.2. Đối với học sinh ................................................................................. 39


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

1.2.2. Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm biên soạn sách giáo khoa một số nước . 40
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 47
Chƣơng II: ĐỀ XUẤT KÊNH HÌNH TRONG VIỆC BIÊN SOẠN
SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ TRUNG HỌC CƠ SỞ SAU NĂM 2015
PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI (THẾ KỈ XVI – GIỮA THẾ KỈ XIX)
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ....................................................................... 49
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử các nước Âu – Mỹ (thế
kỉ XVI - giữa thế kỉ XIX) ............................................................................... 49
2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 49
2.1.2. Mục tiêu................................................................................................. 50
2.1.3. Nội dung cơ bản .................................................................................... 52
2.2. Đề xuất xây dựng cấu tạo sách giáo khoa lịch sử Trung học cơ sở sau
năm 2015 ......................................................................................................... 55
2.2.1. Định hướng cấu trúc biên soạn sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở 55
2.3.2 Đề xuất biên soạn cấu tạo sách giáo khoa sau 2015 ............................. 58
2.4. Đề xuất cách tiếp cận kênh hình trong sách giáo khoa THCS sau năm 2015 .... 84
2.4.1.Cách mạng Anh ...................................................................................... 84
2.4.2. Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ ................. 88
2.4.3. Cách mạng tư sản Pháp ......................................................................... 93
2.5. Thực nghiệm sư phạm ............................................................................ 107
2.5.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................ 107
2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ...................................................... 107
2.5.3. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm .............................. 107
2.5.4. Kết quả thực nghiệm ........................................................................... 108

2.5.4.1 Khảo sát trước khi thực nghiệm ........................................................ 109
2.5.4.2. Kết quả thực nghiệm về kết quả học tập .......................................... 110
KẾT LUẬN .................................................................................................. 113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển như vũ bão, đạt
nhiều thành tựu lớn lao trong mọi lĩnh vực, đặt ra vấn đề đầu tư phát triển giáo dục
làm giàu đất nước càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Bởi phát triển giáo dục
đào tạo chính là “ Một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con người
– yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững”
[4,3]. Mục tiêu của nền giáo dục đào tạo nước ta là “Xây dựng những con người và
thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt
Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa
học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khoẻ
là những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn
dặn của Bác Hồ" [77, 27, 28] Với những mục tiêu đó đòi hỏi ngành giáo dục, đặc
biệt giáo dục phổ thông phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy học nhằm đào

tạo ra những thế hệ thanh niên có trình độ, chuyên môn cao đáp ứng nhu cầu xã hội,
đưa đất nước phát triển.
Song hạn chế cố hữu của nền giáo dục nước ta là lý thuyết nhiều hơn thực hành,
gây trở ngại lớn cho việc đào tạo những lớp người đáp ứng được yêu cầu hiện nay của
xã hội. Học sinh chúng ta hiện nay chưa có một phong cách hoạt động độc lập, tự tin,
sáng tạo trong học tập. Những năm gần đây chương trình sách giáo khoa các môn học
ở trường phổ thông đã được đổi mới. Điều này đặt ra sự cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học, trong đó cần “Coi trọng thực hành, thực nghiệm ngoại khoá, làm chủ
kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, dạy chay”[78, 201] Hay nói khác đi, quá trình dạy
học là học và học dưới sự điều khiển của người thầy và dạy là dạy để mà học. Đây là
yêu cầu quan trọng nhất, là "chìa khoá" giúp nâng cao chất lượng dạy học.

1


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế với việc giáo dục tư tưởng đạo
đức cho thế hệ trẻ. Giáo dục lịch sử ở trường phổ thông nói chung giúp học sinh
nắm được bức tranh lịch sử quá khứ của dân tộc, thế giới, khiến các em thêm yêu
mến quê hương, đất nước mình, trân trọng những thành quả của cha ông, từ đó hình
thành lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, định hướng tốt cho tương lai, tin
tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy lịch sử phải góp
phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu của đất nước.
Hiện nay chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông nói chung,
đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp biên soạn. Việc tăng lên đáng kể
các loại kênh hình trong bài viết đã là một cố gắng lớn. Kênh hình cũng là một phần
kiến thức quan trọng của nội dung bài học. Những sự thay đổi cơ bản này đặt ra một
vấn đề quan trọng trong phương pháp dạy học của giáo viên là phải biết khai thác

và sử dụng các kênh hình, tổ chức cho học sinh làm việc với hệ thống kênh hình để
giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhẹ nhàng, sinh động mà sâu sắc, vững chắc.
Nhưng thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước đây cũng như hiện
nay, nhiều giáo viên và học sinh vẫn chưa hiểu hết nội dung kênh hình và tìm ra
những biện pháp sử dụng thích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ
môn. Hơn nữa, sau 2015 Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đổi mới toàn diện nền
giáo dục theo hướng phát triển toàn diện năng lực học sinh: năng lực nhận thức,
năng lực xã hội và năng lực thực hành. Để giúp giáo viên và học sinh thuận lợi
trong việc khai thác và sử dụng kênh hình theo hướng phát triển năng lực học sinh
và phục vụ cho việc dạy học của bản thân. Tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu, đề
xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử THCS sau 2015
phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Kênh hình trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan trong dạy học lịch
sử. Vì vậy khi tìm hiểu lịch sử vấn đề nghiên cứu, tôi tiếp cận các tài liệu nước ngoài
dựa vào tài liệu dịch, tài liệu trong nước theo 2 hướng: Phương pháp sử dụng đồ dùng
trực quan và phương pháp sử dụng sách giáo khoa.
2.1. Tài liệu nước ngoài

2


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

2.1.1. Tài liệu giáo dục học
Jang Jac Rút Xô nhà giáo dục vĩ đại người pháp cho rằng “Sự kiện! sự kiện!
Tôi không bao giờ mệt mỏi nhắc lại rằng chúng ta gán cho lời nói ý nghĩa quá lớn;
bằng sự giáo dục ba hoa của chúng ta, chúng ta sẽ chỉ đào tạo ra những chàng ba
hoa” [13, 31]. Theo Rút xô, người thầy cần sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy

học nhằm giúp học sinh tự giác, tích cực tư duy và khi học sinh đã lĩnh hội kiến
thức thông qua các hoạt động thực hành, thực nghiệm khẳng định những tri thức
đúng từ đồ dùng trực quan thì nhất định sẽ bộc lộ nhân cách sáng tạo của mình.
Nhà giáo dục Johan Henric Pextalozi (1746-1827) nhìn thấy chỗ dựa cho quá
trình nhận thức của học sinh chính là sự trực quan “Nếu anh càng dùng nhiều giác
quan để nhận thức bản chất một hiện tượng hay một sự vật nào đó, thì những hiểu
biết của anh về nó lại càng đúng đắn”[13,40].
Nhà giáo dục người Nga K.Đ.Usinxki (1824-1870) khẳng định “Tính trực
quan phải là cơ sở quan trọng nhất của việc dạy học”[13,52] Usinxki đánh giá và
đề cao đồ dùng trực quan, là cái ban đầu và nguồn gốc của mọi tri thức, cảm giác,
cung cấp tài liệu cho hoạt động trí tuệ của con người.
B.P.Êxipop trong các công trình của mình đã khẳng định ý nghĩa của việc đọc
sách ngoài giờ lên lớp, ý nghĩa của làm việc với tranh minh hoạ trong sách “Giúp học
sinh hiểu sâu hơn và lĩnh hội rành mạch, vững chắc nội dung của lời văn, vì tranh
minh hoạ tạo ra ở học sinh những biểu tượng nhất định”[ 13,180] .
A.P.Primacopxki trong cuốn “Phương pháp đọc sách” nêu ra một số kinh nghiệm
đọc sách, tự nghiên cứu của nhiều nhà hoạt động xã hội lỗi lạc và nhà khoa học xuất
sắc, giúp giáo viên biết cách khai thác hợp lý kiến thức trong sách giáo khoa.
Không dừng ở đó, T.A.Ilina đã khái quát quá trình làm việc của học sinh với
sách giáo khoa thành qui tắc cơ bản.
Ở một khía cạnh quan trọng khác, tiến sĩ giáo dục Liên Xô I.F.Khalamop trong
cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào”, nhấn mạnh vai trò
của đồ dùng trực quan trong giảng dạy ở trường phổ thông.
J.A.Comenxki (1592 - 1670) nhà giáo dục Tiệp Khắc, coi nguyên tắc trực quan
là “nguyên tắc vàng ngọc” và được ông xếp lên hàng đầu trong các nguyên tắc dạy

3


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử

THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

học cơ bản.
2.1.2. Tài liệu giáo dục lịch sử
Do đặc trưng bộ môn, các nhà giáo dục lịch sử càng đề cao vai trò sách giáo
khoa, gắn chặt đồ dùng trực quan với quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông,
họ đều có chung quan điểm nhận thức rằng, không thể thiếu đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử.
Tiến sĩ giáo dục Xô viết N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như
thế nào” cho rằng “Bài giảng trên lớp không cần giống hệt như bài học trong sách
giáo khoa. Thế nhưng mặt khác nó lại phải bao gồm một phần nào đó của tài liệu
trong sách”[22,18]. Do vậy ông nêu ra sơ đồ sử dụng sách giáo khoa, khai thác
sách giáo khoa nhằm giải quyết mối tương quan giữa nội dung bài giảng của giáo
viên và nội dung của sách giáo khoa trong giờ học lịch sử. Ông đề cập tới 14 yêu
cầu quan trọng của một giờ học lịch sử, trong đó không thể thiếu yêu cầu “Trang bị
cho giờ học tất cả những phương tiện dạy học cần thiết; sử dụng tài liệu trực quan
như một nguồn nhận thức”[22,9]. Ông cho rằng “giáo dục, chứ không phải học thuộc
lòng”[22,30]. Muốn vậy, quá trình dạy học lịch sử phải qua các khâu gắn liền với
nhau: tài liệu thực (trong đó có đồ dùng trực quan)- hình tượng - ảnh hưởng giáo dục.
Ông nói tới vai trò của tài liệu thực “Nếu chúng ta lìa bỏ tài liệu thực thì điều đó sẽ
đưa tới kết quả là cố gắng vun xới một vụ thu hoạch dồi dào trên một mảnh ruộng
không có phân bón”[22,32] bởi hình tượng được nảy sinh trên tài liệu thực mang lại
kết quả giáo dục cho học sinh.
A.A.Vaghin trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông”
trình bày các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong đó có ý nghĩa của
việc sử dụng sách giáo khoa và tài liệu lịch sử.
Trong cuốn “Chuẩn bị cho học sinh lĩnh hội kiến thức”, Phedorenko luôn cho
rằng, muốn học sinh lĩnh hội kiến thức tốt thì bắt buộc phải sử dụng đồ dùng trực quan
và ông đề ra nhữg phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp, có hiệu quả.
Cụ thể hơn, V.X.Muazaep trong cuốn “Dạy học bằng bản đồ lịch sử ở trường

phổ thông 8 năm”, đã trình bày vai trò, ý nghĩa, phương pháp sử dụng bản đồ lịch
sử trong dạy học.

4


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1. Tài liệu giáo dục học
Thống nhất với các quan điểm lý luận trên, rất nhiều tài liệu của các nhà giáo
dục học Việt Nam đã chỉ rõ vai trò, phương pháp sử dụng sách giáo khoa và đồ
dùng trực quan trong dạy học.
Tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” nêu một cách
khái quát nhất và tương đối đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực
quan, các loại đồ dùng trực quan cơ bản được sử dụng trong dạy học, ưu nhược điểm
và biện pháp khắc phục nhược điểm của từng loại đồ dùng.
Trong cuốn “Giáo dục học tập I” của tác giả Trần Thị Tuyết Oanh (NXB Đại
học Sư phạm, 2007) đã đưa ra và phân biệt giữa các khái niệm: chương trình, SGK
và các tài liệu học tập khác dùng trong các trường học do Nhà nước quy định. Đồng
thời, trình bày cụ thể về chức năng của SGK đối với quá trình dạy học và đưa ra
những yêu cầu cơ bản đối với một cuốn SGK.
PGS.TS Thái Duy Tuyên cho rằng phương pháp dạy học trực quan có ưu điểm
rõ nét là “ Nâng cao hiệu quả bài học nhờ có những biểu tượng rõ ràng, phát triển
tư duy trục quan hình tượng, trí nhớ”[76,233]
Trần Bá Hoành trong “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình sách giáo
khoa” rất đề cao vai trò của sử dụng đồ dùng trực quan khi thực hiện dạy học tích cực
“Muốn thực hiện dạy học tích cực cần phát triển các phương pháp thực hành, các
phương pháp trực quan theo kiểu tìm tòi từng phần hoặc nghiên cứu phát hiện”[26,56]

Qua tác phẩm “Dạy học hiện đại: lý luận - biện pháp - kỹ thuật”, Đặng Thành
Hưng đã nêu lên kỹ thuật sử dụng và khai thác các phương tiện dạy học trên lớp
trong đó có đồ dùng trực quan.
Các nhà giáo dục lịch sử càng khẳng định rõ vai trò quan trọng đặc biệt của
sách giáo khoa cũng như kênh hình trong sách giáo khoa đối với việc nâng cao chất
lượng môn học
2.2.2. Tài liệu giáo dục lịch sử
Trong các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” xuất bản 1976, 1992 (do
Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị chủ biên) được tái bản trong các năm 1998, 1999,
2001 đặc biệt là cuốn giáo trình xuất bản năm 2002, tập 1 đã đề cập cụ thể vị trí, ý
5


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

nghĩa của sách giáo khoa trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, cấu tạo sách
giáo khoa cũng như cấu tạo bài viết nhằm giúp giáo viên biết cách sử dụng sách
giáo khoa một cách hiệu quả. Bên cạnh đó các tác giả cũng khẳng định vai trò của
đồ dùng trực quan “Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật không hạ thấp vai trò
của thầy giáo mà vẫn tăng hiệu quả bài học ở các mặt: thu nhận thông tin, tư duy,
ghi nhớ và vận dụng kiến thức”[41,61], đồ dùng trực quan còn là “Chỗ dựa để hiểu
sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là phương tiện rất có hiệu lực để hình thành
các khái niệm lịch sử quan trọng nhất, làm cho học sinh nắm vững các quy luật của
sự phát triển xã hội”[42,142]
Vấn đề này còn được công bố trên nhiều chuyên khảo, các tác giả đã khẳng
định vai trò của kênh hình trong sách giáo khoa, hướng dẫn cụ thể nội dung từng
kênh hình và nêu lên phương pháp sử dụng. Phan Ngọc Liên, Phạm Kỳ Tá trong tác
phẩm “Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông” cho rằng để
phù hợp với mức độ nhận thức lứa tuổi, đồ dùng trực quan cần thiết phải sử dụng để

dạy học cấp 2 nói riêng, dạy học cho học sinh phổ thông nói chung. Tác giả Phan
Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng trình bày cụ thể những biện pháp sử dụng sách giáo
khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong cuốn “Phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS”. Trong cuốn “Kênh hình trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông”, tập 1, trên cơ sở khẳng định vai trò của việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT GS.TS Nguyễn Thị
Côi nêu rất chi tiết nội dung từng kênh hình của phần lịch sử Việt Nam trong sách
giáo khoa THPT và đề xuất cụ thể khoa học các phương pháp sử dụng chúng.
Các chuyên khảo “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử
THCS” do PGS.TS Trịnh Đình Tùng, GS.TS Nguyễn Thị Côi viết, các tác giả đã
nêu cụ thể nội dung kênh hình phần lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam trong sách
giáo khoa lịch sử THCS. Đồng thời các tác giả định hướng phương pháp khai thác
kênh hình nhằm đạt hiệu quả cao trong giờ nội khoá.
Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy - học lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam tại Đà Nẵng, tháng 8/2012. Kỷ yếu gồm ba phần: phần thứ nhất là
các nhà khoa học tập trung tập trung đánh giá chương trình, SGK hiện nay nêu ra vị

6


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

trí ý nghĩa của SGK, nhận xét về chương trình SGK chỉ rõ các ưu và khuyết điểm
của SGK, đề xuất định hướng đổi mới chương trình, SGK sau năm 2015. Phần hai
là các bài viết tập trung phân tích những giải pháp nhằm đổi mới phương pháp dạy
học lịch sử ở trường phổ thông trên cơ sở học tập kinh nghiệm các nước trên thế
giới. Phần ba là các bài viết tập trung vào các vấn đề đào tạo giáo viên.
Ngoài ra vấn đề trên còn được đề cập đến trong các bài báo, đăng trên tạp trí
giáo dục, như bài viết của GS.TS Nguyễn Thị Côi “Kênh hình - một nguồn kiến

thức quan trọng”, Nguyễn Thanh Nhàn “Sử dụng tranh ảnh trong dạy học lịch sử”.
Mỗi bài viết tuy chỉ nghiên cứu sâu một khía cạnh của vấn đề, nhưng đều khẳng
định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa cũng như kênh hình trong
sách giáo khoa nhằm nâng cao chất lượng môn học.
“Kinh nghiệm Đairi với việc dạy học môn sử” của hai tác giả Lương Ninh và
Nguyễn Thị Côi đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 8, 1988.
“Về SGK Lịch sử ở trường phổ thông Trung học” (Chương trình cải cách) của tác
giả Nguyễn Thị Côi đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1993.
“Về cấu trúc và yêu cầu biên soạn SGK môn Lịch sử THCS” của tác giả
Nguyễn Hữu Chí đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 4, 2000.
“Một số vấn đề lí luận và thực tiễn biên soạn SGK lịch sử THCS” của tác giả
Nghiêm Đình Vỳ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 98, 2004.
“Một vài kinh nghiệm về đổi mới biên soạn SGK Lịch sử” của tác giả Phan
Ngọc Liên đăng trên tạp chí Giáo dục, số 7, 2004.
“Một số yêu cầu về xây dựng chương trình và biên soạn SGK Lịch sử” của tác
giả Phan Ngọc Liên đăng trên tạp chí Giáo dục, số 126, 2005.
Các luận án, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp của sinh viên cũng đề cập
tới các khía cạnh khác nhau của vấn đề qua các đề tài:
Luận án “SGK lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam từ 1954 đến nay”, Phạm
Thị Kim Anh, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999.
Luận văn “Sử dụng SGK nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học lịch sử lớp 10 trường trung học phổ thông tỉnh Lào Cai”, Lê Quý Toàn, Đại
học Sư phạm Hà Nội, 2003.

7


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)


Luận văn “Chương trình SGK lịch sử bậc Trung học phổ thông của cộng hòa
Pháp và khả năng vận dụng vào Việt Nam qua nội dung: Các quốc gia cổ đại phương
Tây – Hi Lạp và Rôma”, Trần Quỳnh Chi, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2013.
Luận văn “Mô hình bài viết SGK lịch sử ở trường THCS nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Lương Thị Phương Liên, Đại
học sư phạm Hà Nội, 2013.
Vấn đề này cũng được một số luận án của nghiên cứu sinh, luận văn cao học,
khoá luận tốt nghiệp của sinh viên đề cập tới như: Dương Quỳnh Lưu “Khai thác
nội dung và phương pháp sử dụng kênh hình phần lịch sử thế giới lớp 11 PTTH”,
luận văn cao học, 1995. Bùi Thị Thu Huyền “Tìm hiểu nội dung và phương pháp sử
dụng hệ thống kênh hình trong giảng dạy phần lịch sử Việt Nam lớp 11 THPT”,
luận văn 1996...
Các tài liệu giáo dục học, phương pháp dạy học lịch sử đã nêu ở trên là những gợi
mở quí báu về lý luận cũng như các biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa
cho tác giả khi nghiên cứu đề tài. Song việc đúc kết thành hệ thống kênh hình để phục
vụ cho việc biên soạn sách giáo khoa sau 2015 theo hướng phát triển toàn diện năng
lực học sinh thì chưa có công trình nào đề cập tới. Do vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn vấn
đề trên làm đề tài nghiên cứu của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Chương trình SGK, hệ thống kênh hình và
đề xuất trong biên soạn SGK lịch sử THCS sau năm 2015 phần lịch sử thế giới (thế
kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chương trình SGK và đề xuất hệ thống kênh hình
phục vụ công tác biên soạn SGK lịch sử THCS sau năm 2015 phần lịch sử thế giới
(thế kỉ XVI – giữa thế kỉ XIX) với các nội dung là các cuộc cách mạng xã hội (cách
mạng Anh, chiến tranh của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, cách mạng Pháp), cách
mạng công nghiệp, phong trào công nhân nửa đầu thế kỉ XIX.
8



Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Trên cơ sở chương trình SGK hiện nay, định hướng chương trình SGK, học
tập kinh nghiệm trong biên soạn SGK Lịch sử nước ngoài đề tài đề xuất chương
trình mới trong biên soạn SGK Lịch sử THCS sau năm 2015 và tiến hành thực
nghiệm sư phạm để chứng minh tính khả thi của đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
4.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận về sách giáo khoa, đồ dùng trực quan
nói chung, kênh hình trong sách giáo khoa nói riêng để khẳng định vai trò - ý nghĩa
của hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa với việc phát triển toàn diện năng lực
học sinh, đề tài đi sâu vào tìm hiểu các loại hình kênh hình, đề xuất kênh hình phục
vụ trong biên soạn sách giáo khoa THCS theo hướng phát triển toàn diện năng lực
học sinh THCS.
4.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
- Tìm hiểu lý luận của các nhà giáo dục học và giáo dục lịch sử về vai trò, ý
nghĩa của dụng đồ dùng trực quan nói chung, kênh hình nói riêng trong các tài liệu
giáo dục, giáo dục lịch sử và các tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực tiễn việc sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa tại các
trường phổ thông hiện nay, chất lượng giảng dạy bộ môn, tình hình hứng thú học
tập lịch sử của học sinh phổ thông.
- Tìm hiểu chương trình, nội dung sách giáo khoa THCS để đề xuất kênh hình
cho việc biên soạn sách giáo khoa.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của các biện pháp
đưa ra.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về
nhận thức, giáo dục và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về giáo dục .
Lý luận về tâm lý, giáo dục học, PPDH lịch sử của các nhà giáo dục, giáo dục
lịch sử liên quan tới vấn đề.

9


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu giáo dục - giáo dục lịch sử, tài
liệu lịch sử liên quan tới đề tài và nghiên cứu chương trình, nội dung sách giáo khoa
lịch sử THCS.
- Nghiên cứu thực tiễn:
+ Tiến hành điều tra thực tế để đánh giá mức độ, thực trạng sử dụng kênh hình
trong dạy học chương trình sách giáo khoa lịch sử ở trường THCS thông qua các
phiếu điều tra giáo viên, học sinh một số trường THCS.
+ Soạn bài thực nghiệm theo những dự kiến về biện pháp mà luận văn đưa ra,
tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của các biện pháp đó.
6. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu việc đề xuất biên soạn kênh hình cho sách giáo khoa sau 2015, vận dụng
hợp lý các biện pháp sử dụng hệ thống kênh hình theo hướng phát triển toàn diện
năng lực của học sinh như luận văn đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
lịch sử ở trường phổ thông.
7. Đóng góp của đề tài
- Đề tài khẳng định rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kênh hình trong sách
giáo khoa lịch sử theo hướng phát triển toàn diện năng lực của học sinh nhằm nâng

cao chất lượng dạy học bộ môn.
- Đề tài góp phần đánh giá đúng thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông
về nhận thức và phương pháp khai thác, sử dụng kênh hình theo hướng phát triển
toàn diện năng lực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
8. Ý nghĩa của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về PPDH lịch sử nói chung, về
loại hình kênh hình, biện pháp sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử nói
riêng theo hướng phát triển toàn diện năng lực của học sinh để nâng cao hiệu quả
dạy học của bộ môn.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn

10


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp các nhà biên soạn, giáo viên
giảng dạy lịch sử trường phổ thông có thêm tài liệu tham khảo hệ thống, nội dung
kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử và có những định hướng cơ bản, khoa học về
biện pháp sử dụng chúng trong các giờ nội khóa.
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm hai
chương:
Chương I: Vấn đề kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử THCS: Lý luận và
thực tiễn.
Chương II: Đề xuất kênh hình trong việc biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới ( thế kỷ XVI- giữa thế kỷ XIX). Thực nghiệm
sư phạm.


11


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

NỘI DUNG
Chƣơng I
VẤN ĐỀ KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ
TRUNG HỌC CƠ SỞ: LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
Đảng, nhà nước và toàn xã hội ta ngày càng có cái nhìn đúng đắn hơn về vai
trò của bộ môn lịch sử đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Lịch sử cũng như các môn
khoa học khác ở trường phổ thông, góp phần “Hình thành đội ngũ lao động có tri
thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo
đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”[77,81]. Để giáo dục con
người toàn diện, chỉ có kiến thức Toán học, Vật lý, Hóa học, Văn học thôi thì chưa
đủ, mà còn phải hình thành cho học sinh bản lĩnh sống cơ bản, có tinh thần dân tộc,
để dù cho trong bất kì hoàn cảnh nào, mọi hoạt động, lao động, sáng tạo của họ luôn
luôn vì mục tiêu, lý tưởng trong sáng, phục vụ lợi ích Tổ quốc. Đây cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông. Học tốt
lịch sử sẽ giúp thế hệ trẻ biết nhìn nhận quá khứ để đánh giá hiện tại và định hướng
tương lai, tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng , Nhà nước.
Mục tiêu của việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông thể hiện qua ba nhiệm
vụ cơ bản: Kiến thức, thái độ, kỹ năng.
- Kiến thức: Học sinh phải biết, hiểu được:
+ Những sự kiện lịch sử quan trọng, những nội dung chính của lịch sử loài
người từ nguồn gốc đến nay, đặc biệt là những nội dung lịch sử có liên quan đến

lịch sử nước ta.
+ Những nét chính về quá trình phát triển của lịch sử dân tộc trên cơ sở hiểu
biết về những sự kiện nổi bật nhất của từng thời kỳ, hiểu được nội dung chủ yếu
của mỗi giai đoạn lịch sử nước ta.
+ Những hiểu biết về quan điểm lý luận đơn giản, những vấn đề về phương pháp
nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình độ học sinh.
- Tư tưởng, tình cảm: giáo dục cho học sinh

12


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

+ Lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, trân trọng với những di
sản lịch sử trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Trân trọng đối với các dân tộc, các nền văn hóa thế giới, có tinh thần quốc tế
đúng đắn.
+ Có niềm tin về sự phát triển từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn minh của
lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc.
+ Có thái độ và phẩm chất công dân: tích cực vì cộng đồng, yêu lao động, sẵn
sàng đi vào khoa học kỹ thuật, sống nhân ái, có kỷ luật tuân theo pháp luật.
- Kỹ năng: Dạy lịch sử ở trường THCS cần:
+ Bước đầu hình thành các kỹ năng cần thiết trong học tập bộ môn: kỹ năng sử
dụng SGK và làm việc với các nguồn tư liệu lịch sử, kỹ năng trình bày nói và viết,
sử dụng đồ dùng trực quan nhất là khai thác và sử dụng kênh hình trong SGK từ đó
phát triển được năng lực hoạt động độc lập, sáng tạo của học sinh.
+ Rèn luyện kỹ năng hợp tác, thảo luận nhóm và bước đầu biết vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống.

Như vậy, dạy học lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh
về kiến thức, mà còn giáo dục tư tưởng, tình cảm đúng đắn, và phát triển toàn diện
cho các em. Điều này phụ thuộc phần lớn vào công tác dạy học của người giáo viên
lịch sử, nhất là trong giai đoạn chuẩn bị đổi mới toàn diện nền giáo dục nước ta sau
2015. Việc biên soạn, khai thác và sử dụng kênh hình cho SGK sau 2015 sẽ góp
phần thực hiện tốt mục tiêu môn học.
1.1.2. Đặc trưng của bộ môn lịch sử
Lịch sử mang tính quá khứ, bao gồm những sự kiện, hiện tượng đều đã xảy ra,
nó tuân theo tiến trình thời gian. Tất cả những sự kiện mà chúng ta nhắc đến là
những chuyện đã xảy ra và nó mang tính quá khứ. Do đó, con người không thể quan
sát trực tiếp được các hiện tượng lịch sử mà chỉ nhận thức được chúng một cách
gián tiếp thông qua tài liệu được lưu lại. Để khôi phục lại bức tranh quá khứ đúng
như nó diễn ra, học sinh cần có phương pháp học tập khoa học, phát triển năng lực
độc lập suy nghĩ từ đó biết, hiểu, tự đánh giá, nhận xét, khái quát các sự kiện hiện
tượng lịch sử.

13


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Mặt khác, kiến thức kịch sử mang tính cụ thể: lịch sử là khoa học nghiên cứu
tiến trình lịch sử của các nước, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Lịch sử
của mỗi nước, mỗi dân tộc đều có nét riêng do những điều kiện về thời gian, không
gian, điều kiện tự nhiên… quy định. Hơn nữa, tri thức lịch sử mang tính không lặp
lại cả về thời gian và không gian. Học sinh muốn nắm vững được các sự kiện hiện
tượng lịch sử, khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách cụ thể chân thực đòi hỏi
các em phải tư duy, phải rèn các kỹ năng quan sát, thu thập tư liệu, phân tích, so
sánh, đánh giá… để chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tích cực.

Khoa học lịch sử bao gồm các sự kiện hiện tượng về cơ sở kinh tế, đấu tranh
xã hội… Nội dung lịch sử như vậy phong phú, đề cập đến mọi lĩnh vực của đời
sống như kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kĩ thuật… Kiến thức lịch sử
mang tính hệ thống, có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại với nhau. Kiến thức lịch sử
bao gồm phần “sử” và “luận”. Phần “sử” là kiến thức về lịch sử đã xảy ra trong xã
hội loại người: sự kiện, thời gian, địa điểm, nhân vật, diễn biến , kết quả… Phần
“luận” là giải thích, đánh giá về sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử đó. Do đó
trong quá trình học tập, giáo viên cần rèn cho học sinh các kỹ năng tri giác tài liệu,
phân tích, so sánh, đánh giá sự kiện hiện tượng.
1.1.3. Đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh THCS
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lý
Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11-15 tuổi, các em được vào
học ở trường THCS (từ lớp 6-9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng
trong thời kì phát triển của trẻ em, vì nó là thời kì chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi
trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như “thời kì quá độ”,
“tuổi khó bảo”. “tuổi bất trị”…Đây là bước có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh
thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao
hơn (người trưởng thành), tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt
phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức…. Trong thời kì này những cơ sở
phương hướng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách
được hình thành, chúng sẽ được phát triển trong tuổi thanh niên.

14


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Tuy nhiên, quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và phụ
thuộc điều kiện sống, hoạt động của các em. Nên sự phát triển tâm lí ở lứa tuổi này

diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Vì thế thái độ học tập của học sinh THCS cũng
khác nhau. Tất cả các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học
tập, nhưng thái độ biểu hiện không giống nhau.
Tuổi thiếu niên là giai đoạn bản lề cho việc học tập cao nhất. Đối với các em ý
nghĩa của hoạt động học tập dần dần được xem như là hoạt động độc lập hướng vào
sự thỏa mãn nhu cầu nhận thức. Do đó việc biên soạn hệ thống kênh hình phong
phú, đẹp, chất lượng, phù hợp, biết khai thác, hướng dẫn học sinh sử dụng kênh
hình sẽ để lại ấn tượng khó quên trong các em, tạo hứng thú học tập bộ môn.
1.1.3.2. Đặc điểm nhận thức
Nhận thức lịch sử là một quá trình đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí
tính, từ nhận thức lí tính qua kiểm nghiệm thực tiễn và cuối cùng là nhận thức chân
lí khách quan. Trong đó giai đoạn nhận thức cảm tình là điều kiện xây dựng lên lâu
đài nhận thức, bởi tất cả những hiểu biết của con người đều bắt nguồn từ kinh
nghiệm, cảm giác, tri giác.
Trong học tập lịch sử, nhận thức của các em đi từ cơ sở ban đầu là nắm vững
các hiện tượng lịch sử, nhưng do dặc trưng của bộ môn học sinh không thể trực tiếp
quan sát các sự kiện hiên tượng lịch sử được. Vì vậy, nhận thức lịch sử không thể
bắt đầu từ cảm giác mà từ tri giác các tài liệu sự kiện. Thực tiễn cho thấy tài liệu
cảm tính càng chân thực, đa dạng, phong phú bao nhiêu thì càng tạo cơ sở thuận lợi
bấy nhiêu cho nhận thức lí tính. Ở lứa tuổi thiếu niên, các em đã có khả năng phân
tích, tổng hợp các sự vật, hiện tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng.
Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở lên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện
hơn. Đặc biệt, trí nhớ của các em cũng được thay đổi về chất. Trong thời kì này
năng lực ghi nhớ có chủ đích của các em được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ
được cải tiến, hiệu suất ghi nhớ được nâng cao.
Trên cơ sở tri giác ghi nhớ tài liệu, học sinh bắt đầu xử lí những gì đã tri giác
và ghi nhớ bằng việc phân tích và so sánh, qua đó học sinh nắm được bản chất của
sự kiện hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm lịch sử, rút ra bài học, nêu quy luật

15



Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

đây chính là mục đích hình thành kiến thức trong dạy học lịch sử cho học sinh. Ở
tuổi thiếu niên, thành phần của tư duy hình tượng- vẫn chiếm ưu thế lớn trong cấu
trúc của tư duy và tiếp tục được phát triển. Lúc này các em đã hiểu bản chất của đối
tượng, nhưng không phải bao giờ cũng phân biệt được những tan vỡ những dấu hiệu
đó trong mọi trường hợp. Ở tuổi này tính phê phán của tư duy cũng được phát triển,
các em biết lập luận giải quyết vấn đề có căn cứ. Các em không dễ tin như lúc nhỏ,
đã biết vận dụng lí luận vào thực tiễn, biết lấy những điều quan sát được, những
kinh nghiệm của riêng mình để hiểu, minh họa kiến thức. Việc có hệ thống kênh
hình đẹp, chất lượng, đúng, phù hợp trong sách giáo khoa, không chỉ giúp học sinh
có biểu tượng lịch sử mà còn là cơ sở các em phân tích, so sánh, đối chiếu nhằm
phát triển năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, óc thẩm mỹ…Nếu giáo viên
có phương pháp khai thác sử dụng kênh hình hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn ở trường phổ thông.
1.1.4. Yêu cầu đổi mới trong biên soạn sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông.
Từ những thập niên gần đây, sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kĩ thuật,
của khung cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa đã tác động mạnh đến giáo dục. Các cuộc
cải cách giáo dục được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới. Ước tính hiện nay
cứ sau 10 đến 12 năm khối lượng tri thức lại tăng lên gấp đôi. Khoa học và công
nghệ là động lực chính cho sự tăng trưởng này. Các tri thức ngày càng xâm nhập
vào mọi mặt của cuộc sống. Sự nhào luyện, hợp nhất tri thức và việc ứng dụng tri
thức cho phép sản sinh nhiều trí thức hơn, nhiều ứng dụng hơn. Các bước ngoặt lớn
trong quá trình tiến hóa của xã hội loài người được đánh dấu bằng những tri thức
mới. Những bước phát triển có tính cách mạng trong vài thập niên vừa qua đã làm
xuất hiện các xã hội dựa vào tri thức. Sự giàu có và thịnh vượng của các quốc gia
ngày càng phụ thuộc vào tri thức và kỹ năng. Thế giới tràn ngập những sản phẩm và

dịch vụ mới dựa trên sức mạnh chất xám và sự sáng tạo của loài người. Nước ta
đang phải đối mặt với thách thức tìm ra con đường để tiếp cận với xu thế của cách
mạng tri thức. Giáo dục đòi hỏi phải có những bước nhảy vọt để phát triển con
người, tạo ra con người có tư duy sáng tạo, có năng lực nắm bắt và vận dụng khoa
học vào cuộc sống.

16


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội, những nhu cầu về nguồn lực
lao động có trình độ cao đòi hỏi và thúc đẩy giáo dục phải thay đổi. Mặt khác nền
kinh tế của từng quốc gia đang chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa
qua sự chia sẻ sản xuất mang tính quốc tế, qua sự phân bố lại lao động và các
nghành công nghiệp trên quy mô toàn cầu, qua sự thông tin liên lạc tức thời ở mọi
thời điểm trên thế giới. Giáo dục phải chuẩn bị hành trang cho con người của tương
lai tham gia vào quá trình toàn cầu hóa này, sẵn sàng thích nghi với sự thay đổi
mạnh mẽ của kinh tế - xã hội. Hơn nữa giáo dục phải tập trung vào con người và
phát triển cuả con người. Đổi mới giáo dục không phải chỉ nhằm thực hiện những
mục tiêu do xã hội đặt ra mà phải chú ý tới nhu cầu của cá nhân người học. Điều
này đòi hỏi một cách nhìn tổng thể về quá trình giáo dục và sự biến đổi định tính
của giáo dục liên quan đến nội dung, phương pháp và kết quả cần đạt được. Vấn đề
chủ yếu trong quá trình biến đổi định tính đó là việc do người học làm chủ, chủ yếu
tính sáng tạo trong quá trình học, tới việc hình thành các giá trị cần thiết cho con
người thích ứng với xã hội đương đại.
Đối mặt với những thay đổi của xã hội , nhiều nước trên thế giới tiến hành cải
cách giáo dục hướng tới sự phát triển một nền giáo dục nhân văn, phát triển khả
năng công nghệ, tinh thần công dân, tinh thần dân tộc và hướng tới sự phát triển

một tương lai bền vững. Chương trình giáo dục phải được thiết kế sao cho người
học vừa có vốn kiến thức chắc chắn, biết xem xét và thực hiện sự lựa chọn, biết
cách giải quyết vấn đề, vừa biết nhận thức sâu sắc về tương lai và hành động một
cách phù hợp . Những vấn đề đặt ra của xã hội yêu cầu cải cách chương trình giáo
dục phải đảm bảo giúp học sinh thích nghi với xã hội, xác định được vai trò của
mình trong quá trình biến đổi đó; giúp học sinh chuyển hóa những điều kiện học tập
ở nhà trường thành trách nhiệm trong tương lai. Nội dung học vấn trong nhà trường
bao gồm cả tri thức, kỹ thuật, thái độ... Nhưng môn học mới được tạo lập với đầy đủ
quan niệm về tương lai, phương pháp dạy học thích hợp được phát triển và ứng dụng
nhằm giúp học sinh thích ứng với xã hội đương đại và được chuẩn bị cho xã hội
tương lai. Các nội dung và phương pháp dạy học sẽ nhằm vào các mục tiêu như: bồi
dưỡng tư duy mạch lạc (logic, phương pháp dự đoán, tư duy sáng tạo..) bồi dưỡng

17


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

những kỹ năng thông báo có hiệu quả gồm trình bày trước đông người, sử dụng ngôn
ngữ thuần thục.., tìm hiểu con người và môi trường sống, tìm hiểu con người và xã
hội , hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực (ý thức trách nhiệm, tính tích cực,
chủ động, năng lực sáng tạo, phát triển cá tính, bản sắc của người học).
Xuất phát từ một chương trình giáo dục phù hợp với kinh tế- xã hội, khoa học,
văn hóa đương đại thì đặc điểm của chương trình giáo dục ấy phải hướng vào việc
học suốt đời, giáo dục nhằm hình thành năng lực phát triển và học thông qua các
hoạt động. Trên cơ sở đó Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định:
“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu

then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam”[71]. Từ đó xác định mục tiêu đến năm 2020
nền giáo dục nước ta đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng
cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo,
năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực nhất
là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và xây dựng nền kinh tế tri thức, đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và
cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
Trong khi đó, mặc dù nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, công tác thi,
kiểm tra đánh giá đã được đổi mới nhưng vẫn chậm. Nội dung chương trình còn
nặng nề về lý thuyết, phương pháp dạy học lạc hậu, chưa phù hợp với đặc thù vùng
miền và đối tượng người học, chưa chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát huy tính
sáng tạo, năng lực thực hành cho học sinh. Sách giáo khoa lịch sử và phương pháp
giảng dạy lịch sử vẫn còn nhiều bất cập; kiến thức mang tính hàn lâm, nặng về số
liệu, kênh hình và nguồn sử liệu chưa phong phú. Phương pháp giảng dạy chưa linh
hoạt, nặng vể cung cấp sự kiện mà chưa kích thích tư duy độc lập của học sinh, sự
tìm tòi, khám phá để các em tự chiếm lĩnh tri thức..

18


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

Tất cả những vấn đề nêu trên khẳng định việc đổi mới chương trình giáo dục
nói chung, biên soạn sách giáo khoa lịch sử, phương pháp giảng dạy lịch sử nói
riêng là cần thiết.
1.1.5. Quan niệm về kênh hình trong SGK

1.1.5.1. Cấu tạo sách giáo khoa sách lịch sử THCS
Hiện nay vấn đề SGK sau 2015 được viết như thế nào, đã và đang được bàn
luận rất sôi nổi. Có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này, tuy nhiên một
số chuyên gia về SGK khẳng định: SGK sau 2015 sẽ được thiết kế theo hướng phát
triển năng lực người học, không chạy theo khối lượng tri thức mà chú ý khả năng
vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm… vào giải quyết các tình huống
trong cuộc sống hàng ngày của học sinh. Chỉ lựa chọn một số nội dung cơ bản,
thiết thực, gần gũi với học sinh thay vì nặng kiến thức hàn lâm. Các chuyên gia
cũng khẳng định tri thức khoa học làm tâm, kỹ năng người học làm tham chiếu
trong việc biên soạn nội dung SGK, không lấy logic môn học mà lấy logic phát triển
năng lực học sinh làm chính, hai cái này có giao thoa nhưng không chồng khít. Đó
là những ý kiến xoay quanh vấn đề SGK sau 2015 sẽ được biên soạn thế nào, quan
niệm nào đi chăng nữa thì nội dung SGK phải thể hiện sự tích hợp giữa khoa học cơ
bản và khoa học giáo dục. SGK nói chung, SGK lịch sử nói riêng là tài liệu học tập
cơ bản để học sinh tự học có hướng dẫn. Khi giảng dạy giáo viên không được lặp lại
bài viết trong sách , nhưng cũng không thoát ly hoàn toàn sách. Do vậy, SGK phải
được biên soạn theo yêu cầu sư phạm: ngắn gọn, rõ ràng, phong phú, đẹp giúp học
sinh tích cực học tập dưới sự tổ chức hợp lý của giáo viên. Hiện nay tồn tại 2 quan
niệm cơ bản về cấu tạo SGK:
Quan niệm thứ nhất: Từ lâu, nhiều nhà giáo dục lịch sử nước ta cũng như
nước ngoài thường phân chia nội dung SGK ra 2 phần “kênh chữ” và “kênh hình”.
“Kênh chữ”, chỉ tất cả những phần có chữ viết, bao gồm bài viết chính cho tiết
học và những phần khác như câu hỏi, tóm tắt mở đầu, tư liệu tham khảo, chú
thích… là những thông tin thành văn chủ yếu được dùng trong SGK để trình bày
nội dung tri thức của môn học, chỉ dẫn về phương pháp học tập, đánh giá, kiểm tra
kết quả học tập của học sinh.

19



Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

"Kênh hình" bao gồm các ảnh chụp, tranh vẽ, hình vẽ, sơ đồ, đồ thị,… theo
chức năng hoặc mục đích sử dụng. Kênh hình được chia ra làm 5 loại: minh họa,
cung cấp thông tin, vừa minh họa vừa cung cấp thông tin, rèn kỹ năng thực hành,
kiểm tra kiến thức.
Cách phân chia cấu tạo SGK theo quan niệm này mới chỉ nhấn mạnh ý nghĩa
về mặt thông tin để học sinh nhận thức nội dung bài học chứ chưa làm rõ chức năng
nhiệm vụ mỗi phần trong SGK lịch sử.
Quan niệm thứ hai: quan niệm này được các nhà giáo dục lịch sử tán thành,
SGK phải có hai phần: “bài viết” và “cơ chế sư phạm”.
Bài viết là nội dung cơ bản của chương trình, được trình bày ngắn gọn trong
một số trang cho mỗi tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của SGK mà học sinh phải
nghiên cứu, nắm vững các kiến thức cơ bản, được lựa chọn phù hợp với yêu cầu
học tập. SGK chia “bài viết” thành các phần, chương, bài, tiết. Thông thường mỗi
phần gồm một số chương, mỗi chương gồm một số bài, mỗi bài gồm từ 1 đến 3 tiết.
Cơ chế sư phạm: là chỉ tất cả những thành tố trong SGK, trừ bài viết, dành cho
một tiết học, bao gồm các câu hỏi, bài tập, tư liệu tham khảo, bài đọc thêm, phần
minh họa dùng đồ dùng trực quan quy ước khác như (sơ đồ, biểu đồ, đồ thị…). Nội
hàm cơ chế sư phạm rộng hơn “kênh hình”. Cơ chế sư phạm là một nội dung đặc biệt
quan trọng của SGK, không chỉ dùng để minh họa, hỗ trợ cho bài học mà còn là
nguồn kiến thức cung cấp cho học sinh trong học tập.
Kênh hình là một bộ phận của cơ chế sư phạm, có vị trí vai trò rất quan trọng
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, phát triển toàn diện học sinh. Kênh
hình biên soạn trong SGK lịch sử rất đa dạng, phong phú, tùy theo chức năng và
mục đích sử dụng được chia làm 5 loại: loại minh họa để cụ thể hóa nội dung 1 sự
kiện quan trọng, loại cung cấp thông tin, loại vừa cung cấp thông tin vừa minh họa
cho kênh chữ, loại dùng để rèn luyện năng lực thực hành, kiểm tra kiến thức (loại
bài tập, thực hành). Điều đó có nghĩa việc biên soạn kênh hình trong SGK khai

thác, sử dụng kênh hình trong giờ giảng là điều không thể thiếu. Giáo viên có nhiệm
vụ sử dụng cả hai thành phần này (kênh chữ và kênh hình) để làm rõ nội dung kiến
thức lịch sử trong SGK, có biện pháp khai thác và sử dụng kênh hình hợp lý nhằm

20


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

rèn luyện kỹ năng bộ môn, phát triển các thao tác tư duy thông qua quá trình lĩnh
hội sáng tạo kiến thức của học sinh.
Như vậy phần cơ chế sư phạm không phải là phần phụ mà là một thành tố
quan trọng của nội dung SGK lịch sử và luôn luôn gắn với bài viết. Do đó, khi biên
soạn SGK cần chú ý đến mối quan hệ gắn bó mật thiết này.
Trên thực tế cách phân chia bài viết và cơ chế sư phạm tỏ ra dễ tiếp nhận vì nó
thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai phần cơ bản của SGK với nhau. “Bài viết”
là bộ phận chủ yếu mà học sinh nắm vững , còn “cơ chế sư phạm” giúp học sinh
hiểu sâu sắc bài viết, kiểm tra nhận thức , kết quả học tập của mình, phát triển năng
lực tư duy độc lập, thông minh sáng tạo.
1.1.5.2. Phân loại kênh hình
Kênh hình bao gồm: ảnh chụp, hình vẽ, bản đồ, sơ đồ, đồ thị.., kênh hình
trong sách giáo khoa lịch sử có tác dụng tạo hình ảnh giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức một cách sinh động. Kênh hình còn có thể thay thế cho kênh chữ, cụ thể
hóa, minh họa cho nội dung kênh chữ , gây hứng thú học tập cho học sinh. Nó
còn góp phần làm nội dung sách giáo khoa thêm sinh động, hấp dẫn. Thực tế
giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông cho thấy, nếu giáo viên chỉ giúp học sinh
khai thác nội dung kênh chữ một cách đơn thuần thì tiết học trở nên nặng nề,
kém hấp dẫn, không tạo được hiệu quả của bài học..Tuy nhiên đối với các loại
kênh hình : tranh vẽ, hình ảnh, bản đồ, sơ đồ, đồ thị…nếu học sinh được hướng

dẫn khai thác thì các em hoàn toàn chủ động trong quá trình học tập, phát triển
năng lực tư duy độc lập, trí tưởng tượng phong phú, hình thành và phát triển
những kĩ năng quan sát, miêu tả, tường thuật, phân tích, giải thích , so sánh…
Hình ảnh, tranh ảnh lịch sử (bao gồm: tranh ảnh minh họa đương thời,
tranh ảnh mi nh họa hiện thời và ảnh tư liệu). Ảnh lịch sử là ảnh chụp lại những
sự kiện, biến cố lịch sử…ngay ở thời điểm diễn ra, nên có tính chân xác cao và
có giá trị rất lớn.
Hình ảnh lịch sử khôi phục lại sự kiện hiện tượng, biến cố lịch sử khi nó đã
xảy ra. Tuy không được vẽ lại ngay tại thời điểm diễn ra sự kiện, hiện tượng nhưng
nếu tách bỏ yếu tố nghệ thuật, hình vẽ vẫn có giá trị lịch sử rất lớn. Tranh ảnh lịch

21


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

sử có tác dụng tạo biểu tượng rất cao trong quá trình dạy học, nó phản ánh được các
lĩnh vực của lịch sử (kinh tế, chính trị, quân sự) đặc biệt những bức ảnh, hình vẽ
chân dung những nhân vật lịch sử. Loại tranh ảnh để đề xuất biên soạn sách giáo
khoa phải là tranh ảnh khắc họa kiến thức theo nội dung bài học, phải là tranh ảnh
trực tiếp (tư liệu sao chép từ bản gốc, hoặc minh họa vào thời điểm gần với việc xảy
ra sự kiện..). Tùy vào nội dung bài mà sử dụng tranh ảnh để giới thiệu, khai thác nội
dung hoặc củng cố bài, tùy theo mục đích sử dụng mà giới thiệu các vấn đề để học
sinh hiểu rõ.
Bản đồ lịch sử, đồ thị, sơ đồ, niên biểu là những kênh hình được xếp vào loại
đồ dùng trực quan quy ước. Loại đồ dùng trực quan này tạo cho học sinh những
hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình
lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế, chính trị-xã hội
của đời sống. Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện mà còn là cơ sở

hình thành khái niệm cho học sinh.
Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không
gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện
tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá
trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học. Bản đồ lịch sử
không cần có nhiều chi tiết về điều kiện thiên nhiên mà cần những ký hiệu về biên
giới các quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, địa điểm xảy ra biến cố quan trọng
nên thường được gọi là “lược đồ”.
Lược đồ có thể chia làm hai loại chính: lược đồ tổng hợp và lược đồ chuyên
đề. Lược đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước
hay nhiều nước có liên quan ở một thời kỳ nhất định, trong những điều kiện tự
nhiên nhất định. Lược đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một
mặt của quá trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một
nước trong một giai đoạn lịch sử.
Trong biên soạn sách giáo khoa và dạy học lịch sử rất cần thiết sử dụng hai loại
lược đồ bởi nó đem lại kết quả giáo dưỡng, giáo dục và phát triển rất cao.
Niên biểu: Hệ thống hóa các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời gian, đồng
thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều nước trong
22


Luận văn: Nghiên cứu, đề xuất hệ thống kênh hình để biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS sau 2015 phần lịch sử thế giới (thế kỷ XVI – giữa thế kỷ XIX)

một thời kỳ.
Niên biểu được chia ra mấy loại sau: niêu biểu tổng hợp, niên biểu chuyên đề,
niên biểu so sánh.
Niên biểu tổng hợp là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời gian
dài. Loại niên biểu này không những giúp học sinh ghi nhớ những sự kiện chính mà
còn nắm được các mốc thời gian, đánh dấu mốc quan hệ của các sự kiện quan trọng.

Niên biểu tổng hợp còn trình bày những mặt khác nhau của một sự kiện xảy ra ở một
nước trong một thời gian hay nhiều thời kỳ.
Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng nổi bật
nào đấy của một thời kỳ lịch sử nhất định, nhờ đó mà học sinh hiểu được bản chất
sự kiện một cách toàn diện.
Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện xảy ra cùng một lúc
trong lịch sử, nhằm làm nổi bật bản chất đặc trưng của các sự kiện ấy, hoặc để rút ra
một kết luận khái quát có tính chất nguyên lí.
Bảng so sánh là một dạng của niên biểu so sánh, nhưng có thể dùng số liệu và
tài liệu sự kiện chi tiết để làm rõ bản chất, đặc trưng của các sự kiện cùng loại hay
khác loại.
Đồ thị: dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch
sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Đồ thị có thể biểu
diễn bằng một mũi tên để minh họa sự vận động đi lên, sự phát triển của một hiện
tượng lịch sử, hoặc được biểu diễn trên các trục hoành (ghi thời gian) và trục tung
(ghi sự kiện).
Sơ đồ: nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những hình học dơn giản, diễn
tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện
lịch sử.
Như vậy có thể nói, việc phân loại kênh hình là rất rõ ràng, mỗi loại kênh hình
có đặc trưng riêng qua đó nó phù hợp với từng sự kiện hiện tượng lịch sử. Là đồ
dùng trực quan có tính tạo biểu tượng rất cao. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kiến
thức, giáo dục tư tưởng, thái độ mà còn phát triển kỹ năng cơ bản cho học sinh
trong quá trình học tập lịch sử. Với loại hình phong phú, ý nghĩa toàn diện như vậy,

23


×