Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Luận văn Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 95 trang )

Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 6
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 7
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. ĐÔI NÉT VỀ NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ VỊ TRÍ NHÂN VẬT TRẺ EM
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ ...................................... 7
1.1. Về khái niệm “trẻ em”................................................................................ 7
1.2. Nhân vật trẻ em trong văn học trước cách mạng tháng Tám. .................... 8
1.3. Nhân vật trẻ em trong văn học từ Cách mạng tháng 8 đến năm 1975........... 10
1.4. Nhân vật trẻ em trong văn học từ sau 1975 ............................................. 12
1.5. Vị trí nhân vật trẻ em trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư. .. 15
1.5.1. Thế giới của người dân sông nước, miệt vườn Nam Bộ. ...................... 15
1.5.2. Trẻ em hiện diện trong mọi vấn đề của người lớn, của xã hội ............. 18
Tiểu kết ........................................................................................................... 23
CHƢƠNG 2. NHÂN VẬT TRẺ EM VÀ NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .................................... 25
2.1. Trẻ em: nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu...................................... 25
2.1.1. Hoàn cảnh chiến tranh ........................................................................... 25
2.1.2. Bi kịch cơm áo ...................................................................................... 27
2.1.2.1. Tuổi thơ bươn chải nhọc nhằn kiếm sống. ......................................... 27
2.1.2.2. Trẻ em khuyết tật ............................................................................... 31

1



Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư

2.1.3. Trẻ em chịu hệ lụy từ sai lầm của người thân và từ những bất cập của
xã hội ............................................................................................................... 35
2.2.Trẻ em: những vẻ đẹp trong sáng thánh thiện........................................... 44
2.2.1. Thiết tha yêu thương và được yêu thương ............................................ 44
2.2.3. Những rung động đầy chất thơ trước thiên nhiên ................................. 50
2.2.4. Khát vọng vươn lên vượt thoát số phận ................................................ 54
Tiểu kết ........................................................................................................... 56
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT KHẮC HOẠ NHÂN VẬT TRẺ EM
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ .................................... 57
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật. ................................................. 57
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. ........................................................ 59
3.2.1. Miêu tả tâm lý bằng lời trần thuật nửa trực tiếp. .................................. 60
3.2.2. Đặc tả tâm lí qua ngoại hiện.................................................................. 63
3.3. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật. ................................................. 64
3.3.1. Từ lăng kính trẻ em ............................................................................... 65
3.3.2. Phức hợp các điểm nhìn khác ............................................................... 69
3.4. Ngôn ngữ trần thuật ................................................................................. 72
3.4.1. Ngôn ngữ đời thường giản dị, giàu chất Nam Bộ, giàu tính biểu cảm ........... 74
3.4.2. Các biện pháp tu từ độc đáo, gần gũi với liên tưởng của trẻ em .......... 77
3.5. Giọng điệu nghệ thuật .............................................................................. 79
3.5.1. Giọng điệu trong sáng hồn nhiên .......................................................... 80
3.5.2. Giọng điệu ngậm ngùi cảm thương ....................................................... 83
3.5.3. Giọng điệu triết lý chiêm nghiệm ......................................................... 85
Tiểu kết ........................................................................................................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90


2


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hơn một thập kỉ qua, trong đời sống văn chương nước ta, Nguyễn Ngọc
Tư thuộc số những cây bút nhận được nhiều nhất cảm mến của độc giả. Chị nổi lên
như một “hiện tượng” văn học với nhiều giải thưởng uy tín trong nước. Khởi đầu là
giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học cho tuổi 20 lần II - tác phẩm Ngọn đèn
không tắt, năm 2000. Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc liên
hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Tiếp đó là giải B của Hội nhà văn Việt
Nam năm 2001. Một trong “Mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003” do Trung
ương đoàn trao tặng. Năm 2006, Hội nhà văn Việt Nam đã trao giải “Hiện tượng
văn học trong năm” cho truyện Cánh đồng bất tận. Nhiều cây bút có uy tín đã đánh
giá cao năng lực văn chương của Nguyễn Ngọc Tư: “Một tài năng văn học hiếm có
hiện nay của Việt Nam” [23]. Nguyễn Ngọc Tư không chỉ thành công rực rỡ với thể
loại truyện ngắn mà còn khẳng định cái duyên mặn mà ở tản văn và cũng đầy hứa
hẹn khi bước chân sang tiểu thuyết. Với hàng chục cuốn sách đã công bố, chị được
dư luận xa gần coi như nhà văn của sông nước, miệt vườn Nam Bộ, của những phận
người bé mọn nhưng mang chứa biết bao vẻ đẹp vừa thuần hậu, vừa lãng mạn,
phóng túng khiến nó không hiếm khi trở nên bí ẩn lạ lùng.
1.2. Văn học là ngành nghệ thuật nhân văn hướng tới đối tượng chính là con
người. Trẻ em là đối tượng được quan tâm đặc biệt của nhiều nhà văn Việt Nam từ
đầu thế kỉ 20 đến nay. Trẻ em như một thước đo trình độ nhân văn đầy mẫn cảm, lại
cũng là chỗ khẳng định quan niệm nghệ thuật độc đáo của một nhà văn. Mỗi nhà
văn có một cách nhìn nhận riêng về trẻ em do đó có sự chọn lựa lối viết riêng.
Không có tấm lòng thiết tha với trẻ, không nghiêm túc với ngòi bút, tác phẩm sẽ
không thể chinh phục được các em. Nguyễn Ngọc Tư nằm trong số những người
viết thành công, không chỉ được người lớn mà cả trẻ em yêu thích.

1.3. Đọc những gì Nguyễn Ngọc Tư viết về trẻ em, người đọc không khỏi trăn
trở trước những số phận bất hạnh, những mảnh đời côi cút, lưu lạc, đồng thời cũng
được hạnh phúc khi bắt gặp một vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện nơi trái tim trẻ thơ
thơm thảo. Chính thức cho tới nay mới chỉ có duy nhất một tập truyện viết cho thiếu
nhi với nhan đề Ông ngoại (nhà xuất bản trẻ, 2001), thế nhưng hình tượng trẻ em và

1


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
những vấn đề liên quan đến chúng thì bàng bạc ẩn hiện trong khắp các tập sách của
chị (Ngọn đèn không tắt, Biển người mênh mông, Giao thừa, Cánh đồng bất tận,
Khói trời lộng lẫy, yêu người ngóng núi, Gió lẻ và chín câu chuyện khác, Tạp
văn Nguyễn Ngọc Tư, Sông…. Với đối tượng này, nhà văn đã gửi gắm một tấm
lòng trìu mến, một ánh nhìn thật ấm áp đậm vẻ bao dung mẫu tính. Số phận của các
nhân vật trẻ em trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần thể hiện những
phương diện quan trọng trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
Tìm hiểu đề tài “Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư” giúp
chúng tôi hiểu sâu sắc thêm về một tác giả của nền văn học đương đại Việt Nam,
đồng thời là cơ hội bổ túc tri thức văn học sử, có cơ hội rèn các thao tác khoa học để
rút ra những điều bổ ích trong công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Là một nhà văn trẻ mới xuất hiện trên văn đàn khoảng hơn một thập niên trở
lại đây, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã chiếm được cảm tình của rất nhiều độc giả.
Người ta coi chị như là “Đặc sản miền Nam” [14]. Năm 2001, tập truyện ngắn
Ngọn đèn không tắt của chị đạt giải nhất văn học tuổi 20, giải B của Uỷ ban toàn
quốc liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngay lập tức, tác phẩm đã
dành được cảm tình của nhiều bạn đọc và các nhà nghiên cứu. “Nhiều tiếng khen,
nhiều bài báo trong Nam ngoài Bắc phát hiện về Nguyễn Ngọc Tư, một hiệu ứng

đọc ít thấy từ lâu” [32]. Nhà văn Dạ Ngân trong bài viết của mình từng có sự liên
tưởng đến lời khen dành cho Solokhov “Một con đại bàng non vừa cất lên đôi
cánh” [32] khi Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện trên văn đàn.
Tiếp sau đó Nguyễn Ngọc Tư cho ra đời 6 tập truyện ngắn: Ông ngoại (2001),
Biển người mênh mông (2003), Giao thừa (2003), Nước chảy mây trôi (2000),
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận (2005). Ngoài ra chị
còn sáng tác cả tạp văn, ký và bắt đầu thử nghiệm với tiểu thuyết Sông. Chị trở
thành một “hiện tượng” thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng. Xuất hiện rất
nhiều bài viết về chị. Đa số khẳng định tài năng dồi dào đầy sinh lực của một cây
bút trẻ: “Cô ấy như một cái cây mọc lên giữa những rừng tràm hay rừng nước Nam

2


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát rượi, tinh tế mà
chân chất, chân chất mà tinh tế, đặc biệt “Nam Bộ” một cách như không, chẳng
cần chút cố gắng nào cả như các tác giả Nam Bộ đi trước [41]; “Nguyễn Ngọc Tư
là cây bút đặc biệt của miền Tây Nam Bộ, một tài năng văn học hiếm có hiện nay
của Việt Nam” [23]; “Nếu được chọn người có tác phẩm văn học xuất sắc nhất Việt
Nam 2005, tôi sẽ chọn nữ nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư với “Cánh đồng bất tận”
[46]. Bước chân sang lĩnh vực tiểu thuyết, tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư
được đánh giá là độc đáo, đầy tính thời sự mà cũng giàu chất thơ.
Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận thường được xem là trội nhất của
Nguyễn Ngọc Tư lại đón nhận nhiều ý kiến trái chiều. Có những bài viết phê phán,
phản đối. Người ta cho rằng Cánh đồng bất tận không có tính giáo dục, bôi nhọ
người nông dân, viết về cái xấu, cái ác, về sex… Bài viết “Có một vũng bùn lầy bất
tận” của ông Vưu Nghị Lực (đăng trên báo Tuổi Trẻ) cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã
“giẫm đạp” và “phóng uế” lên cánh đồng quê hương. Có lẽ đây là cái nhìn “chưa
tới” của người viết khi đồng nhất giữa nhân vật, sự kiện trong tác phẩm này với con

người và sự kiện ngoài đời. Bùi Việt Thắng cho rằng “Nguyễn Ngọc Tư “non tay”
trong việc xây dựng biểu tượng văn chương và sử dụng ngôn ngữ”... Đó là “sự bối
rối, thiếu bình tĩnh của nhà văn. Sự bối rối này có nguyên căn từ sự non nớt chưa đủ
bản lĩnh nghệ thuật của một cây bút trẻ sớm thành danh - nhà văn sống trong hào
quang, thứ hào quang do dư luận tạo ra” [48].
Đối thoại với Bùi Việt Thắng, Trần Thiện Khanh đưa ra quan điểm của mình
“Tác phẩm văn học nào cũng thế thôi, muốn neo đậu vào cuộc đời thực, chạm tới những
vấn đề nhức nhối, bức thiết của xã hội, đặt ra vấn đề thân phận con người. Với một sức
viết dẻo dai, Nguyễn Ngọc Tư bứt ra từ cuộc sống một rừng quả đắng, hiến dâng cho
khách đọc đã quen với vị ngọt ngào. Chị đã phơi bày những góc khuất, tái hiện một môi
trường sống khắc nghiệt với biết bao con người tha hoá, băng hoại đạo đức, giải phẫu
những điều vô lý mà văn học phải chấp nhận một cách có lý nhất” [19]
Cùng quan điểm với Trần Thiện Khanh, có rất nhiều bài viết, ý kiến bênh vực,
khen ngợi tài năng của cây bút trẻ này. Trong bài tham luận tại Hội nghị lí luận,
phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp khẳng định: “Cánh đồng bất tận không chỉ là

3


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Ngọc Tư mà thực sự là một trong những truyện
ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại” [16;17]. Phạm Xuân Nguyên cho
rằng: “Cánh đồng bất tận là một truyện hay, nó chứng tỏ bút lực của Nguyễn Ngọc
Tư trong việc đào sâu vào thể hiện cuộc sống, khơi sâu vào thân phận con người...
Viết được một truyện như thế chứng tỏ Tư có tài năng văn chương và có lòng
thương người” [42].
Yêu mến tài năng và con người Nguyễn Ngọc Tư, một Việt kiều Mỹ - Trần
Hữu Dũng đã lập một thư viện điện tử Tủ sách Nguyễn Ngọc Tư trên trang web
của ông: “Tôi lập trang web với mục đích, trước hết, cho tôi thu thập vào một nơi
những bài của (và về) Nguyễn Ngọc Tư rải rác trên web, và sau đó chia sẻ với

những bạn thích văn Nguyễn Ngọc Tư như tôi”. Trang web này đã tạo điều kiện rất
thuận lợi cho bạn đọc trong và ngoài nước khi muốn tìm hiểu kĩ về tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư. Không chỉ lập trang web riêng về Nguyễn Ngọc Tư, Trần Hữu
Dũng còn viết một số bài về chị. Ở bài Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam, Trần
Hữu Dũng nhận xét: “Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một
chỗ đứng khu biệt cho mình. Nhiều người cho rằng cái độc đáo của Nguyễn Ngọc
Tư là sự chân chất mộc mạc tươm ra từ mỗi truyện cô viết. Đúng (...) Song, trước
hết, cái đầu tiên làm người đọc choáng váng là nồng độ phương ngữ miền Nam
trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư”, “Từ vựng Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay
độc sáng (như của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân
dã, lấy hẳn từ cuộc sống xung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác
phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe
và nhớ” [14]. Cuối cùng ông kết luận: “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”
Nghiên cứu về sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư còn có khá nhiều bài in rải rác
trên các sách, báo, tạp chí khác. Thí dụ: Người đọc “bắt được sóng của trái tim và
tài năng” (Hữu Thỉnh, Báo Tuổi Trẻ ngày 12/04/2006), Thảo luận về truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư “Cánh đồng bất tận” (Trần Văn Sĩ, Báo Văn nghệ, số 15,
ngày 15/04/2006)...Nguyễn Ngọc Tư nhanh chóng trở thành đối tượng nghiên cứu
của một số luận văn cử nhân, luận văn Thạc sĩ, báo cáo khoa học ở các khoa ngữ
văn đại học. Thí dụ: Thế giới truyện Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị Kiều Oanh,
ĐHSP HN, 2006; Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện Nguyễn Ngọc

4


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Tư của Phạm Thị Thái Lê, ĐHSP HN, 2007; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư của Bùi Thị Nga ĐHSP HN, 2008; Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị Bích, ĐHSP HN, 2009; Từ văn học
đến điện ảnh qua “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư của Trịnh Thị Thuỷ,

ĐHSP HN, 2011; Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư của Vũ Thanh Hằng ĐHSP HN, 2011;
Cảm thức cô đơn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Ngô Thị Thuý Hà,
ĐHSP HN, 2011… Ở các công trình này tuy nhân vật trẻ thơ không phải là đối
tượng nghiên cứu trực tiếp song đây đó người viết vẫn tìm được những gợi ý thú vị
về đặc điểm của loại nhân vật này.
2.2. Những nghiên cứu về nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy có rất ít bài viết đề cập đến vấn để
này. Trong bài viết Truyện thiếu nhi của Nguyễn Ngọc Tư những khắc khoải
nhân sinh của Nguyễn Thị Bình đã nhận định: “Với tôi, gương mặt trẻ em, tiếng
nức nở trẻ em, sự thơm thảo hồn nhiên, sự nhạy cảm tuyệt vời của trẻ em giữa một
thế giới quay cuồng dục vọng, tất bật mưu sinh, chai lì cảm xúc… Đấy mới là thước
đo trách nhiệm là điểm quy chiếu các giá trị nhân văn - thẩm mỹ quan trọng nhất
của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư”. Trong rất nhiều tác phẩm của chị “Dường như luôn
có một đôi mắt trẻ con mở to nhìn vào cách hành xử của người lớn, ngạc nhiên, đợi
chờ, thắc mắc… Chúng bắt người lớn phải trả lời về những nỗi buồn của chúng: sự
thất học, mặc cảm con hoang, mặc cảm bị bỏ rơi, bị sỉ nhục…” [8]. Phạm Xuân
Nguyên nhận xét: “Văn Nguyễn Ngọc Tư, có thể nói, là cách nhìn vào thế giới
người lớn ngổn ngang, phức tạp, đầy bất hạnh và bi kịch, từ những đứa trẻ ngây
thơ - già nua. Giọng điệu văn của chị, xuyên suốt, cũng là giọng kể, giọng nói,
giọng nghĩ từ phía những con người còn nhỏ này. Hoàn cảnh chung tạo nên cảnh
ngộ bất hạnh của chúng là sự tan vỡ của các gia đình, sự phản bội nhau của các
cặp vợ chồng” [44].
Tuy nhiên, đây đó ở đôi ba bài nghiên cứu khi đi tìm hiểu về quan niệm con
người, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, nhà nghiên cứu cũng
có dẫn ra nhân vật phụ nữ và trẻ em… Đó cũng là những gợi ý thú vị cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

5



Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
3.1. Phạm vi tư liệu
Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư gồm:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện - Nxb Trẻ - 2000)
- Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi - Nxb Trẻ - 2001)
- Giao thừa (Tập truyện Nxb Trẻ -2003)
- Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (Tạp văn - Nxb Trẻ - Thời báo Kinh tế Sài
Gòn - TP Hồ Chí Minh - 2005)
- Gió lẻ và chín câu chuyện khác (Tập truyện Nxb Trẻ - 2008)
- Yêu người ngóng núi (Tản văn - Nxb Trẻ - 2009)
- Khói trời lộng lẫy (Tập truyện ngắn - Nxb Thời Đại - 2010)
- Cánh đồng bất tận (Tập truyện ngắn, tái bản - Nxb Trẻ-2012)
- Sông (Tiểu thuyết - Nxb Trẻ - 2012)
- Gáy người thì lạnh (Tản văn - Nxb Trẻ - 2012)
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
- Nhân vật trẻ em và những vấn đề nhân văn thẩm mỹ kết tụ xung quanh nhân
vật này trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn phối hợp những phương pháp sau đây để giải quyết đề tài:
4.1. Phương pháp phân tích tác phẩm: Luận văn sử dụng phương pháp phân
tích nhân vật để tìm ra những đặc điểm riêng về đời sống, tâm tư, tình cảm, khát
vọng, tính cách, chiều sâu tâm lí nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em
của nhà văn, từ đó làm sáng tỏ các luận điểm nghiên cứu.
4.2. Phương pháp so sánh: là một thao tác cần thiết, giúp nhận diện được vai
trò, vị trí của nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư trong tương quan
với nhân vật khác và với các tác phẩm của các tác giả khác cùng viết về nhân vật trẻ
em, thấy được những kế thừa và những độc đáo, riêng biệt của nhà văn.
4.3. Phương pháp phân loại, thống kê: Luận văn thực hiện việc khảo sát, phân
loại, thống kê với những con số cụ thể nhằm gia tăng sự chính xác, cụ thể, thuyết

phục cho những vấn đề lí luận mà chúng tôi đưa ra.
Phương pháp phân loại được sử dụng trong việc phân chia các chủ đề về nhân

6


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, từ đó giúp người đọc nhận thấy sự
phong phú đa dạng của nhân vật trẻ em trong sáng tác của nhà văn này.
5. Đóng góp của luận văn
Làm rõ vị trí của nhân vật trẻ em trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn
Ngọc Tư, trẻ em và những chủ đề chính trong sáng tác của Nguyễn Ngoc Tư,
nghệ thuật khắc họa nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Từ đó
có thêm cơ sở khoa học để đánh giá thấu đáo hơn tài năng, tấm lòng của nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn của chúng tôi gồm có 3 chương.
Chƣơng 1: Đôi nét về nhân vật trẻ em trong văn học Việt Nam hiện đại và
vị trí nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tƣ
Chƣơng 2: Nhân vật trẻ em và những chủ đề chính trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tƣ
Chƣơng 3: Nghệ thuật khắc họa nhân vật trẻ em trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tƣ

CHƢƠNG 1. ĐÔI NÉT VỀ NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ VỊ TRÍ NHÂN VẬT TRẺ EM
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƢ

1.1. Về khái niệm “trẻ em”
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em: “Trẻ em có nghĩa là những người

dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành

7


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
niên sớm hơn”. Luật pháp Liên bang Hoa Kì quy định: “Trẻ em là người dưới 18
tuổi”. Ở Việt Nam, pháp luật chưa có các quy định thống nhất về khái niệm trẻ em
trong từng ngành luật cụ thể. Theo luật bảo vệ, chăm sóc và giaó dục trẻ em năm
2005 thì: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” còn Bộ luật dân sự (2005) lại
ghi: “Trẻ em là những người dưới 15 tuổi”.
Ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào sự phát triển thể chất, tâm sinh lý của trẻ mà có
quy định riêng độ tuổi được gọi là “trẻ em”.
Trong các quy phạm pháp luật Việt Nam còn xuất hiện các khái niệm “vị
thành niên”; “người chưa thành niên”. Người thành niên là người trên mười tám
tuổi, người chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi. Trẻ “vị thành niên”
thường được dùng chỉ những người tuổi khoảng mười lăm đến dưới mười tám.
Trong thực tiễn sử dụng, khái niệm “người chưa thành niên” có khi bao gồm cả “trẻ
em”. Cũng có khi khái niệm “trẻ em” lại bao gồm cả trẻ “vị thành niên” (tức cả
người từ mười sáu tuổi đến mười tám tuổi).
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tạm quy ước đối tượng nghiên cứu là
những nhân vật dưới mười tám tuổi. Gọi là “tạm quy ước” vì thế giới nghệ thuật
không phải lúc nào mọi ranh giới, kể cả ranh giới về tuổi tác, cũng rành mạch. Hơn
nữa, không phải lúc nào tác giả cũng nói rõ tuổi tác của nhân vật mình đang mô tả.
Ở khu vực truyện thơ Nôm, có những nhân vật mười ba, mười bốn tuổi cả tác giả
lẫn độc giả nhưng không coi là trẻ em như (Thạch Sanh, Tống Trân, Cúc
Hoa...chẳng hạn).
1.2. Nhân vật trẻ em trong văn học trƣớc cách mạng tháng Tám.
Trẻ em là tương lai của nhân loại, hiện thân của sự sống trong trẻo, cái đẹp
thuần khiết, nguyên sơ, của sự yếu ớt mong manh cần được che chở. Trong văn

học, trẻ em là nhân vật dễ gây chú ý vì chúng cho thấy rõ nhất hoàn cảnh văn hóa xã hội, trình độ văn minh của một cộng đồng. Mỗi nhà văn hình như đều có một
cách nhìn nhận riêng về trẻ em. Xem việc viết về trẻ em như để gặp lại quá khứ
của chính mình, Lâm Thị Mỹ Dạ từng nói: “Với tôi, mỗi em bé là một thế giới lung
linh kì lạ. Tôi muốn viết về thế giới đó để được sống lại tuổi thơ trong sáng của

8


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
mình. Tôi rất yêu trẻ con, và tôi viết về các em bằng tất cả tình yêu của tôi. Nếu
trái đất này chỉ có toàn trẻ con hoặc những con người mang tâm hồn trẻ thơ thì
trái đất là một thiên đường” [47;174]
Về đại thể, văn học viết thời Trung đại hầu như không chú ý đến nhân vật trẻ
em. Đầu thế kỷ XX, khi ý thức cá nhân lên ngôi, văn học phát triển theo xu hướng
hiện đại hóa, nhân vật trẻ em mới bắt đầu được chú ý. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho
xuất bản loại sách: Hoa Hồng, Hoa Mai, Hoa Xuân, Tuổi xanh...với định hướng
phục vụ bạn đọc nhỏ tuổi, phục vụ học ngoại ngữ. Tuy nhiên phạm vi phản ánh của
loại sách này chỉ bó gọn trong những sinh hoạt của trẻ em thành thị, xa rời cuộc
sống khốn khó của trẻ em thôn quê.
Các nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Nam Cao, Ngô Tất
Tố… đã có ý thức viết về các em một cách hiện thực hơn. Trong Tấm lòng vàng
Nguyễn Công Hoan kể về một cậu học trò nghèo tên Đức, được thầy Chính bí mật
giúp đỡ tiền ăn học. Về sau, Đức đỗ đạt, làm nên, nhưng con của thày Chính tên
Phú lại không chịu học hành, ăn chơi, phá phách do đó thày bị vỡ nợ. Đức tìm được
Phú trong sòng bạc và làm mọi cách để giúp đỡ. Nhờ vậy Phú tu tỉnh, viết cuốn
“Việt Nam văn học sử” được giải thưởng. Với số tiền nhuận bút, Phú cùng Đức trả
hết nợ cho cha… Cốt truyện thật đơn giản, lối kể chuyện sinh động nhưng vẫn in
đậm khuynh hướng giáo huấn, đạo đức (ca ngợi sự cần cù, chịu khó, biết giúp đỡ
người xung quanh, biết vượt lên trên mọi hoàn cảnh để thành người có ích).
Truyện Nam Cao có khá đông nhân vật trẻ em. Đó là những đứa bé nhà nghèo

nhiều thua thiệt: Bảy bông lúa lép (1937), Người Thợ Rèn (1940), Mèo con mắt
ngọc (1942), Ba người bạn (1942), Những kẻ khốn nạn (1942), Trẻ con không
được ăn thịt chó (1942)... Nhân vật chính trong các truyện này là những đứa trẻ
nghèo khổ, bị vứt ra lề đường, sống đói rét, cơ cực, phải đi ăn xin, đi làm thuê làm
mướn mà vẫn không đủ sống, hoặc vẫn sống với mẹ cha nhưng bị hắt hủi, hờ hững.
Ngô Tất Tố đã phản ánh chân thực, xúc động cảnh sống nheo nhóc, đói khát
nhưng ngoan ngoãn, hiếu thảo của những đứa con chị Dậu, đặc biệt là cái Tí (Tắt
đèn). Những nhân vật nhỏ dại này đã khiến nhiều người phải rơi lệ

9

thương xót.


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyên Hồng được mệnh danh là “Nhà văn của phụ nữ và trẻ em”. Trẻ thơ trở
thành mối quân tâm sâu sắc của ông. Có thể kể tới các tác phẩm: Những ngày thơ ấu,
Mợ Du, Những mầm non... Mỗi trang viết của ông đều như tiếng thở dài đầy trăn trở,
xót xa trước những thân phận bé bỏng, thơ dại, khốn khổ. Những đứa bé chẳng được
học hành gì, đứa thì lê la đất bẩn, đứa lang thang trên phố, đứa làm những việc khó
nhọc, quá sức không kém người lớn. Bao nhiêu nguy cơ, cạm bẫy đang rình rập chúng.
Nguyên Hồng viết về trẻ thơ không chỉ bằng sự quan sát mà trước hết bằng sự trải
nghiệm. Từ chính cuộc đời cui cút, bất hạnh, thiếu tình yêu thương, thiếu thốn về vật
chất của mình, ông đã dồn cả tâm huyết, khát vọng vào nhân vật trẻ em bất hạnh, sớm
phải lang thang kiếm sống ở thành phố, phải lăn lộn giành giật miếng cơm manh áo (bé
Hồng trong Những ngày thơ ấu, thằng Minh trong Bỉ vỏ, cái Túc trong Những mầm
non). Mỗi đứa trẻ là một số phận, một mảnh đời - đau đớn, côi cút. Chúng cất lên tiếng
nói tố cáo thống thiết xã hội Việt Nam trước Cách mạng.
Về cơ bản, nhân vật trẻ em trong văn học thời kì này xuất hiện như nạn nhân
của hoàn cảnh bất công, phi lí. Chúng được các nhà văn ý thức như những thân

phận đáng thương, những cá nhân cần được bảo vệ, những bằng chứng hùng hồn
kết án xã hội phi nhân tính đến tàn bạo.
1.3. Nhân vật trẻ em trong văn học từ Cách mạng tháng 8 đến năm 1975
“Làm cho thiếu nhi biết yêu Tổ Quốc, thương đồng bào, chuộng lao động, giữ
kỉ luật, biết vệ sinh, học văn hoá…Lúc học cũng cần vui, lúc vui cũng cần học” là
phương châm sáng tác của bộ phận văn học thiếu nhi nói riêng, của hình tượng nhân
vật trẻ em trong văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám nói chung. Với trẻ
em, tính giáo dục của văn học được đặc biệt đề cao. Do vậy khi đề cập đến nhân vật
trẻ em, các tác phẩm văn học giai đoạn này thường ưu tiên chú ý đến mục đích nêu
gương những tấm gương thiếu nhi dũng cảm trong kháng chiến, những em “tuổi
nhỏ chí cao” trong cuộc đấu tranh chiến thắng hoàn cảnh. Khuynh hướng sử thi
cũng in dấu ấn đậm nét ở những hình tượng trẻ em mang tầm vóc thời đại, tầm vóc
lịch sử. Đó là những em bé giao liên, những em bé tham gia diệt ác trừ gian, sẵn
sàng hy sinh vì lí tưởng Cách mạng. Đọc các tác phẩm Chiến sĩ ca nô của Nguyễn
Huy Tưởng, Dưới chân cầu mây của Nguyên Hồng, Chú Giao làng Seo của

10


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Tuân, Thiếu niên anh hùng của Phong Nhã,... ta dễ nhận ra ở những cuốn
sách được coi là tiêu biểu này, hình thức nghệ thuật tuy còn khá thô sơ nhưng ý
tưởng bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm yêu nước, chống đế quốc xâm lược cho các em
vẫn đem lại sự đánh giá tích cực của người đọc. Trong truyện ngắn của Nam Cao
(Mò sâm banh), của Xuân thu (Ông lão chăn bò trên núi Thắm), trong tiểu thuyết
của Nguyễn Đình Thi (Xung kích),... trẻ em được khắc họa như nạn nhân của đế
quốc, phong kiến, hoặc như những thiên thần trong sáng của chủ nghĩa anh hùng.
Chặng tiếp sau, với tác phẩm Đất rừng phương nam (1957) của Đoàn Giỏi, Đội du
kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách, Đội tình báo thiếu niên Bát sắt của
Phạm Thắng,... ấn tượng nổi bật mà các tác giả dụng công tạo dựng vẫn là chân

dung các anh hùng nhỏ tuổi. Các em đều có hoàn cảnh gia đình bất hạnh, hoặc bị
chiến tranh làm li tán, được Cách mạng dang rộng vòng tay đón nhận, cưu mang.
Quá trình trưởng thành của các em là quá trình phấn đấu trở thành những tấm
gương “thiếu niên anh hùng”, “tuổi nhỏ chí cao”, khiến bạn đọc xa gần truyền tụng.
Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xuất hiện khá nhiều chuyện về
sinh hoạt của trẻ em ở các đội Măng non, liên đội Thiếu niên tiền phong... nhưng để
lại dấu ấn đậm nét nhất vẫn là hình tượng những cô bé, cậu bé mang

nặng thù nhà

nợ nước, sớm nối chí cha anh dẫn bước vào cuộc kháng chiến để khẳng định hùng
hồn chân lí “tre già măng mọc” như: Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà
của Nguyễn Thi, Chú bé Cả Xên của Minh Khoa, Út Tám của Ngô Thông, Em bé
sông Yên của Vũ Cận, Đất rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi, Thằng Mỹ của Anh
Đức, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang
Sáng,... Trẻ em vừa đi học vừa đào hầm, đắp lũy, vừa đi sơ tán, vừa tải đạn cứu
thương... Đó là hình ảnh đầy kiêu hãnh của một dân tộc ở thời đại “ra ngõ gặp anh
hùng”. Cái gian khổ ác liệt không phủ bóng đen u ám lên gương mặt trẻ thơ, trái lại,
làm chúng bừng sáng một ngọn lửa sống mãnh liệt bất khuất.
Tuy nhiên, do thiên về mục đích tuyên truyền cổ vũ, văn học Việt Nam thời kì
này bị chi phối mạnh mẽ bởi khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, nên khi
viết về nhân vật trẻ em, hầu hết các tác phẩm đặt đối tượng dưới nhãn quan đạo đức
Cách mạng, nhân vật luôn được lí tưởng theo khuôn mẫu người công dân xã hội chủ

11


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
nghĩa. Tính chất hồn nhiên, ngây thơ, giảm thiểu đáng kể, nhân vật trẻ em thường bị
“già hóa”, “người lớn hóa”. Chúng thường hoàn hảo quá, khôn ngoan quá, rất

chững chạc so với lứa tuổi. Sự mô tả tâm lí, ngôn ngữ trẻ em không mấy khi có
được sự sống động tự nhiên.
1.4. Nhân vật trẻ em trong văn học từ sau 1975
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước hòa bình
thống nhất.Vừa khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh nhân dân ta vừa tiến
hành công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Cuộc sống thời bình khiến ý thức về
giá trị cá nhân ngày càng có vai trò chi phối văn hóa cộng đồng. Con người quan
tâm nhiều hơn đến nhu cầu đa dạng của cá nhân. Văn học viết về trẻ em giai đoạn
này sẽ chịu ảnh hưởng chủ yếu từ những chuyển động ở bề sâu văn hóa đó. Không
chỉ văn học thiếu nhi mà ở cả văn học viết cho người lớn, nhiều tác phẩm cũng lấy
trẻ em làm nhân vật trung tâm. Trẻ em được đặt vào nhiều mối quan hệ: gia đình, xã
hội, tự thân... để nhà văn khám phá quá trình hình thành nhân cách cá nhân, để nhận
thức lại những giá trị nhân văn cốt lõi, nền tảng. Từ các mối quan hệ gia đình, nhà
trường, xã hội, quá khứ, hiện tại, tương lai..., nhân vật trẻ em như một trục quy
chiếu lịch sử xã hội độc đáo. Đặc biệt hầu hết các tác giả chú ý đến việc khắc họa
đời sống nội tâm của các em, với tư cách một thực thể tâm - sinh lí phức tạp, một
con đường tự ý thức giữa rất nhiều tương tác tất yếu và không tất yếu của văn hóa văn học với thời cuộc, thời sự. Điều này khiến cho nhân vật trẻ em bớt hẳn mầu sắc
lí tưởng hóa của văn học giai đoạn trước. Nếu như giai đoạn trước, cảm hứng sử thi
khiến nhà văn nhìn nhận trẻ như những nhân cách đã hoàn thiện - sản phẩm hoàn
hảo của một môi trường nhân ái, tiến bộ, tuyệt đối hợp lí (những tấm gương của
lòng dũng cảm, những hành vi yêu nước anh hùng) thì nay trẻ em sẽ được nhìn nhận
như những tính cách đa diện, tốt có, xấu có, vừa soi chiếu thế giới người lớn vừa
giữ tính độc lập riêng với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi. Những tác phẩm viết về kí
ức tuổi thơ nở rộ: Miền thơ ấu - Vũ Thư Hiên, Hành trình ngày thơ ấu - Dương
Thu Hương, Cô bé nhìn mưa - Đặng Thị Hạnh, Tuổi thơ im lặng - Duy Khán,
Dòng sông thơ ấu - Nguyễn Quang Sáng, Tuổi thơ dữ dội - Phùng Quán ...Dường
như tuổi thơ không chỉ là chất liệu hiện thực độc đáo mà còn là một cách nhìn, một

12



Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
tiêu điểm để đánh giá lại nhiều vấn đề trong quá khứ và hiện tại. Dù viết về chuyện
của quá khứ song ý nghĩa thời sự vẫn dồi dào, thu hút sự quan tâm của đông đảo
độc giả. Nhiều người đã nói đến mầu sắc tự truyện của các tác phẩm này, chúng
khiến cho ngay cả một số cuốn được in ở nhà xuất bản Kim Đồng nhưng lại thực sự
chuyển tải thông điệp về xã hội người lớn (thí dụ: Chó Bi, đời lưu lạc, Côi cút giữa
cảnh đời của Ma Văn Kháng).
Cùng với sự chuyển dịch về tư tưởng là sự đổi mới trong nghệ thuật. Dư luận
dành nhiều quan tâm cho một số trường hợp khá mới mẻ về lối viết như Nguyễn
Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Thị Vàng Anh...
Nếu như viết về tuổi mới lớn Nguyễn Nhật Ánh tập trung vào những rung
động đầu đời của các em thì khi viết cho tuổi học sinh cấp một, cấp hai, ông lại đi
vào chủ đề chính là chuyện trường lớp (Bài vở và các mối quan hệ với thầy cô, bạn
bè, mọi người xung quanh). Đặc biệt ông nói nhiều hơn đến tình bạn. 45 tập Kính
vạn hoa xoay quanh tình bạn của bộ ba Quý Ròm - Tiểu Long - nhỏ Hạnh ở tập thể
lớp 8A4 trường Tự Do nhưng không hề nhàm chán, trái lại luôn hấp dẫn bạn đọc,
lôi kéo họ qua từng trang truyện. Với cảm hứng thế sự dồi dào, bộ truyện được hoàn
thành trong bẩy năm đã chinh phục được tình cảm nồng nhiệt của các bạn đọc nhỏ
tuổi, và tác giả trở thành một hiện tượng “ăn khách” hiếm có. Bằng phong cách viết
vừa tinh tế, vừa hóm hỉnh, hướng theo cách nhìn trẻ thơ, khai thác chất liệu sinh
hoạt đời thường, chuyện trường lớp được tái hiện chân thực, sinh động, tự nhiên
(không phải lối tô vẽ các gương điển hình tích cực dễ dãi) có thể coi Kính vạn hoa
là tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Nhật Ánh, là bộ truyện đạt được nhiều kỉ
lục nhất về độ dài, số nhân vật, số trang in và số lần tái bản.
Xuất hiện sau Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần thuộc thế hệ nhà văn
trẻ trưởng thành trong những năm đầu của thể kỉ XXI. Ba tác phẩm văn chương đầu
đời là Giăng tơ nhện, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Một thiên nằm mộng lần
lượt đem đến cho tác giả ba giải thưởng: Giải 3 cuộc vận động sáng tác văn học tuổi
20 lần II, giải A cuộc thi văn học thiếu nhi vì tương lai đất nước lần II và giải A

cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi của nhà xuất bản Kim Đồng. Vừa nhắm mắt
vừa mở cửa sổ là một truyện dài theo kết cấu chương hồi. Các sự kiện diễn ra tuần

13


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
tự kiểu tuyến tính. Chất keo kết dính chuỗi các sự kiện là những bí mật mà ai cũng
muốn tò mò. Dũng - nhân vật chính của truyện trong quá trình “Vừa nhắm mắt vừa
mở cửa sổ” đã phát hiện ra một chuỗi những bí mật đầy thú vị. Giữa Dũng và bố
mẹ, cô giáo, những người láng giềng, bạn bè có sự giao cảm lớn. Cậu bé hồn nhiên,
chân thực trong cảm xúc ấy đã có lúc hành xử như người lớn nhờ sự am hiểu lạ lùng
về thế giới, về thần linh. Em hiểu được nỗi buồn của một người không còn đầy đủ
thân thể như ông Tư, chú Hùng và đã tình nguyện làm bàn tay cho ông Tư. Đến
trường, Dũng giành tình yêu cho cô giáo Hà. Dũng quan tâm đến từng chi tiết nhỏ
nhặt nhất của cô như cái mũi hồng, đôi guốc màu xanh. Em thấm thía nỗi đau khổ
của cô giáo khi đánh mất bé Thương. Vẻ đẹp tâm hồn và những hành động đầy tình
yêu thương, vị tha của Dũng như là những câu chuyện cổ tích giữa đời thường.
Trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, nhân vật bé Hon là một cô bé đặc biệt
“một thiên sứ pha lê” lạc bước xuống “cõi trần gian u xám lạnh lùng”, thừa toan
tính vụ lợi mà thiếu thốn cảm thông, thương xót. Cô khao khát yêu thương và chỉ
chăm chăm đi ban phát yêu thương, đi đâu, gặp ai bé cũng tặng nụ cười trẻ thơ và
lời mời chào thơm ngậy mùi sữa: “thơm nào”. Thế nhưng thiên sứ đã bị chối từ
ngay trong gia đình của mình. Ban đầu họ còn hào hứng, dần dần cảm thấy khó chịu,
cau có, bực dọc, không ai đón nhận nụ cười và môi hôn bất tận của bé, cô đành chia
sẻ cho chú mèo. Rồi cô vĩnh viễn từ giã cuộc đời với đôi môi đỏ cháy vẫn “đòi vô tận
những nụ hôn”. Nhân vật bé Hon - thiên sứ pha lê trong cuốn tiểu thuyết rất ngắn này
hoàn toàn khác các nhân vật trẻ em trong văn chương truyền thống. Đây là huyền
thoại tự giải thiêng, là lời cảnh tỉnh xót xa mà nghiêm khắc trước tình trạng con người
ngày càng cạn kiệt nhân tính, ngày càng để cho thói vụ lợi thống trị.

Các nhân vật trẻ em xưng “tôi” trong Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Hành
trình ngày thơ ấu của Dương Thu Hương, Côi cút giữa cảnh đời của Ma Văn
Kháng, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, Mảnh đất tình yêu, Hương và Phai của
Nguyễn Minh Châu cũng như trong hầu hết tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh,
Nguyễn Ngọc Thuần, Phạm Thị Hoài,... đều có điểm chung: chúng không phải
những nhân cách hoàn hảo, không già dặn như những “người lớn thu nhỏ” thường
thấy ở văn học giai đoạn trước. Chúng sống với thế giới đời thường, tham gia vào

14


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
những sinh hoạt đời thường. Chúng có thể khôn ngoan hay khờ dại, hiền lành hay
hiếu động... nhưng chúng không xuất hiện như những kẻ coi mục đích sống là nêu
gương sáng cho người khác. Chúng đầy khiếm khuyết nhưng luôn đáng yêu. Chúng
xét nét người lớn để tỏ ra độ lượng. Và chúng bao giờ cũng mang bản năng hướng
thiện. Có nhân vật tính cách, có nhân vật số phận, có nhân vật tư tưởng... nghĩa là
các nhà văn đối xử với nhân vật trẻ em như đối xử với một nhân cách độc lập.
Có thể nói sau năm 1975, văn học viết về trẻ em đã trưởng thành lên rất nhiều
trong ý thức thẩm mĩ. Đề tài và hướng tiếp cận đời sống phong phú hơn trước. Tại
các mối quan hệ nhân nhân sinh đa dạng, phức tạp đều có mặt nhân vật trẻ em. Trẻ
em được đặt trong cái nhìn đa chiều chứ không thuần khiết một chiều lí tưởng đầy
tinh thần giáo huấn hay minh họa. Nhân vật trẻ em trong các truyện sau 1975 hiện
lên như những con người với những số phận, những cảnh đời có sức ám ảnh. Từ
bọn trẻ con đi trọ học xa trong Miền xanh thẳm của Trần Hoài Dương đến nhóc
con thành phố trong Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh, từ những em bình
thường lành lặn đến những em phải suốt đời mang khuyết tật như cô bé liệt chân
con nhà thổi bóng đèn trong Mảnh vỡ (Lê Cảnh Nhạc), từ những cô bé, cậu bé được
sống giữa sự đùm bọc của gia đình đến những em bé bị đẩy ra ngoài vỉa hè, lang
thang nay đây mai đó, nếm chải đủ mùi cay đắng của cuộc đời, như Nương và

Điền trong Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư),... chúng đều được diễn tả
bằng cảm quan hiện thực của thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế. Chúng vừa cho
người đọc gặp lại kinh nghiệm văn chương của Thạch Lam, Nguyên Hồng, Ngô
Tất Tố thời tiền chiến, vừa khá rõ dấu ấn của những kinh nghiệm mới mẻ đến từ
mảng sáng dịch mà chỉ từ đầu thập kỉ 80 độc giả Việt Nam mới có cơ hội tiếp cận
rõ ràng.
1.5. Vị trí nhân vật trẻ em trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tƣ.
1.5.1. Thế giới của người dân sông nước, miệt vườn Nam Bộ.
Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ, “một hiện tượng văn học” trong khoảng
một thập niên trở lại đây. Văn chương của chị đậm chất Nam Bộ, giản dị, không
hoa hòe, hoa sói, không chạy theo thời thượng, tân kì mà vẫn thu hút biết bao sự
quan tâm của độc giả. Dù chị chưa được gọi là “nhà văn của trẻ em”, song đọc các

15


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
sáng tác của chị ta thấy hình ảnh trẻ em và vấn đề trẻ em trở đi trở lại qua nhiều
cảnh ngộ, số phận khác nhau, đặc biệt ám ảnh là những đứa trẻ nơi làng xã.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở Cà Mau - vùng đất cực
Nam của Tổ Quốc, một trong những tiền đề quan trọng góp phần hình thành nên
quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư là những yếu tố văn hóa mang đặc
trưng riêng của vùng đất và con người nơi đây. Bao trùm các sáng tác của chị là
hiện thực cuộc sống con người trên mảnh đất Nam Bộ với đồng ruộng mênh mông,
những con sông, con kinh, con rạch chằng chịt và vô số những đầm, đìa, rạch, xẻo,
những chợ nổi ghe xuồng tấp nập, những câu hò, điệu hát lên xuống theo từng con
nước. Các câu chuyện chị kể thường được triển khai trên nền bức tranh văn hóa
làng quê Nam Bộ độc đáo ấy. Nói như nhà văn Nguyên Ngọc đó chính là “không
gian của Nguyễn Ngọc Tư”. Tác giả Huỳnh Công Tín nhận xét “Người đọc sẽ được
cảm nhận chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm” [52].

Tác phẩm của chị có một không gian Nam Bộ với những loại cây thật điển hình
mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, trầm, choại, quao, ô rô, dừa nước...mọc trên những
vàm kinh, rạch, xẻo, chằng chịt, mà mỗi tên gọi đều đậm đặc tính địa phương: vàm
Cỏ Xước, vàm Mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch
Rãng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, gò Cây Quao... Những tên ấp, tên làng, tên chợ Nam Bộ
thật khó lẫn Xóm Xẻo, xóm Rạch, xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, đất
Cháy, Mút Cà Tha....
Trên cái nền không gian đặc trưng ấy, ta bắt gặp hình ảnh những con người
Nam Bộ thật thà chất phác, trọng nhân nghĩa, hào phóng, hiếu khách, chân tình, cởi
mở. Thế giới nhân vật của chị thật phong phú. Luận văn Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của Nguyễn Thị Bích nhận xét rằng đó là nhân vật
của những công việc nhọc nhằn, khắc nghiệt và cuộc sống nghèo khổ. Mỗi nhân vật
đều có một nghề để kiếm sống song đa số họ không sao thoát khỏi cái nghèo. Vì
nghèo, muốn chữa bệnh cho con, ông Chín (Nhớ Sông) phải bán cả ruộng vườn,
nhà cửa, đất đai, để rồi gia đình phải lênh đệnh trên một con thuyền nay đây mai đó.
Để có tiền chữa bệnh cho vợ, chú Đời trong Đời như ý phải bán đi một đứa con.
Thậm chí cùng quẫn quá, Nhâm trong Một trái tim khô phải đi giết người thuê, sau

16


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
khi đâm người ta còn kèm theo lời tạ lỗi: “Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán
chồng bà” [67;157]. Cuộc sống khó khăn vất vả, con người phải bươn chải mưu
sinh, nghề nào cũng cực nhọc nhưng họ vẫn cố gắng vươn lên chống chọi với số
phận. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường sống với các mối quan hệ ngang trái
ngay trong gia đình (sự hiểu lầm giữa các thành viên trong gia đình, sự đổ vỡ tình
cảm vợ chồng, mặc cảm con hoang, bị phụ bạc...). Ông già Năm (Cải ơi) bỏ nhà bỏ
cửa suốt hơn mười hai năm đi khắp nơi để vừa kiếm sống vừa tìm con. Thậm chí
ông còn cố tình đi ăn trộm để được lên ti vi, vì đó là cơ hội để ông nhắn đôi lời tìm

con. Ông Tư Nhớ (Đau gì như thể) lại vướng vào một nỗi éo le khác, bị nghi ngờ
làm cho con riêng của vợ là Nga mang bầu, bị mọi người đàm tiếu, xa lánh, khinh
thường, chỉ có Nga là hiểu nỗi oan trái của cha dượng nhưng lại im lặng vì toan tính
riêng. Những cuộc đời lận đận của Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), Xuyến (Duyên
phận xo le), Diệu (Làm mẹ)... vì đam mê ca hát, đam mê tình ái, mà thành bất hạnh,
phải sống nghèo khổ, trong sự giày vò, dằn vặt lương tâm, trong mặc cảm có lỗi với
con cái. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư mang nặng cảm thức cô đơn, cảm thức lưu
lạc, sống giữa đồng loại đông đúc ồn ào mà như lạc lõng bơ vơ. Cuộc sống nay đây,
mai đó lênh đênh trên sông nước của ông già Chín cùng hai cô con gái (Nhớ sông)
khiến họ đau đáu khao khát, thèm muốn được gắn bó với một mảnh đất thân thuộc.
Ba cha con Nương, Điền trong Cánh đồng bất tận phiêu bạt hết nơi này đến nơi
khác, chẳng nơi nào dung thân được đôi ba tháng.
Từ truyện ngắn đến tạp văn, thế giới hiện thực của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu
là một thế giới đang tàn héo phôi pha. Những dòng sông đang mỗi ngày một đục
bẩn (Tắm sông), những bờ sông lở mãi do tàu ghe cao tốc chạy nhiều, những đầm
tôm, bè cá chết bệnh khiến chủ nhân méo mặt (Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Chờ đợi
những mùa tôm, Đi qua những cơn bão khô), những đồng ruộng nhiễm phèn
nhiễm mặn (Cánh đồng bất tận, Thư từ quê), những ngôi nhà cổ hư nát không giữ
được con người thủy chung (Nhà cổ, Thổ Sầu), những tình yêu trái ngang, phụ bạc
vì nghèo thiếu, vì lầm lẫn (Duyên phận so le, Một trái tim khô, Nửa mùa)...Nhưng
đấy cũng là thế giới của tình sâu nghĩa nặng giữa con người với con người, giữa
người với nghề (Cuối mùa nhan sắc, Dòng nhớ, Đau gì như thể...), Giữa người
với đất đai, cây trái (Nhớ đất, Quán nhớ, Một mái nhà, Ngủ ở Mũi)...Thế giới ấy
17


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
thật mộc mạc, thân quen với những bà má bỏm bẻm nhai trầu, tài kho cá, làm mắm
(Lời cho má, Chợ của má, Thuộc về má); với những người đàn ông áo cánh khăn
rằn, rề rà cuộn thuốc hút và nhâm nhi nước để hóng gió chướng lồng lộng

thổi...Trong thế giới ấy, trẻ em là một “tụ điểm”. Chúng là phần trong trẻo rạng rỡ
nhất (Ba bé Ngoan về, Bà cô, Người mẹ vườn cau, Áo tết, Ông ngoại, Giàn bầu
trước ngõ, Những con mèo bé nhỏ, Tết của cô, Xa xóm mũi...) cũng là phần u ám
bi đát nhất (Ấu thơ tươi đẹp, Những cánh đồng bất tận, Cỏ xanh, Cảm giác trên
dây...). Chúng không chiếm số đông nhưng có thể nói chúng tạo ra sức ám ảnh
mạnh nhất trong thế giới nhân vật đông đúc của Nguyễn Ngọc Tư.
1.5.2. Trẻ em hiện diện trong mọi vấn đề của người lớn, của xã hội
Có khoảng gần 50 tác phẩm (chưa kể Đảo - do đây là tập ruyện ngắn mới xuất
bản, người viết chưa có điều kiện khảo sát) của Nguyễn Ngọc Tư có nhân vật trẻ
em, nhưng xét về tỉ lệ thì trẻ em xuất hiện với tần số nhiều hơn ở tác phẩm của
những cây bút tiêu biểu sau 1975 như Chu Lai, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Huy Thiệp, Nguyễn Bình Phương, Ma văn Kháng, Nguyễn Minh Châu,... (Khảo sát
trên 40 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật trẻ em xuất hiện trong khoảng
20 tác phẩm. Trong 25 truyện của Nguyễn Minh Châu viết sau 1980 được khảo sát,
có 8 truyện xuất hiện nhân vật trẻ em.Trong tác phẩm của Tạ Duy Anh, nhân vật trẻ
em chiếm 1/3 trong thế giới nhân vật của ông...).
Bằng trái tim phụ nữ nhân hậu, nhạy cảm, Nguyễn Ngọc Tư đã giành cho trẻ
em tình yêu thương và sự trìu mến đặc biệt. Chúng làm cho trang viết của chị thêm
một sắc thái trữ tình thi vị. Tập truyện Ông ngoại gồm mười một truyện mà trẻ em
là những nhân vật chính - những đứa trẻ Nam Bộ hồn nhiên trong sáng và thơm
thảo. Ở các tập truyện khác: Khói trời lộng lẫy, Biển người mênh mông, Ngọn đèn
không tắt, Gió lẻ và chín câu chuyện khác, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Cánh
đồng bất tận, Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, Tiểu thuyết Sông,... nhân vật trẻ em luôn
hiện diện trong mọi vấn đề của người lớn, của xã hội: trong mối lo cơm áo, trong
những cuộc truy tìm hạnh phúc, trong nhu cầu tự hoàn thiện nhân cách và môi
trường văn hóa (cộng đồng xã hội): trách nhiệm các cơ quan đoàn thể, chính sách,
tập quán văn hóa...
Lớn lên cùng với những người nông dân chân lấm tay bùn, Nguyễn Ngọc Tư

18



Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
không khỏi xót xa khi chứng kiến cảnh tôm chết trắng đồng, những đàn vịt bị chôn
sống vì bệnh dịch kéo theo những món nợ chồng chất. Cuộc sống của họ trở nên bấp
bênh, bất trắc và cái nhìn lo âu của họ rốt cùng dừng lại nơi con trẻ. Trong Ngậm
ngùi Hưng Mỹ, Đã qua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm, Cánh đồng
bất tận,... cái nghèo thành nỗi ám ảnh thường trực đối với người dân vùng sông nước
Nam Bộ: “Tôi có cảm giác cái nghèo đã giăng ra ẵn những cái bẫy mà bà con nông
dân mình đi luẩn quẩn thế nào vẫn quay về ngay trân chỗ ấy” [59;50].
Mảnh đất Hưng Mỹ (Ngậm ngùi Hưng Mỹ) một địa danh nổi tiếng - căn cứ
địa thời kì chống Pháp, chống Mĩ, người dân nổi tiếng về sự trung kiên, các em nhỏ
cũng là “con nít giết giặc”, vậy mà giờ đây “ba mươi tháng tư này nữa là tròn hai
chín năm hòa bình” rồi, con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “đường
chỉ đẹp khi còn dang dở. Xã có 3.911 hộ ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi
chưa có lưới điện” [59;43]. Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, “cái nghèo lừa mị
người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lí ưa kiểm tra lớt lớt” [59;44]. Cái nghèo
cứ bầy ra trước mắt: nhà chị Nga, ba năm chuyển dịch, tôm chết triền miên, nợ hơn
mười triệu ngân hàng. Anh chị có bốn đứa con nhưng “ba đứa đã thôi học” [59;44];
Nhà Chú Bảy Chà nghèo nhất ấp - một căn nhà nhỏ rách đến tả tơi, mấy đứa nhỏ, con
chú “không ai biết chữ”. Trang hơn hai mươi tuổi “thân hình như mười ba mười bốn”.
Dương mười một tuổi mà “thua cậu bé lên năm” [59;46]. Thị Tường cả ấp có 365 hộ
có tới 105 hộ nghèo. Môi trường nước mặn quá khắc nghiệt. Trồng cây cây chết, nuôi
con gì cũng hỏng. Tôm mất mùa ba vụ liên tiếp, vịt bị chôn sống vì bệnh dịch. “Học trò
từ cấp hai trở đi bắt đầu bỏ học, đi làm mướn” [59;47].
Truyện ngắn Cánh đồng bất tận, bày ra nhức nhối thảm trạng của nông thôn
Nam Bộ: những cánh đồng thiếu nước, khô cằn vì nhiễm mặn, những xóm làng xác
xơ, những đàn vịt bệnh tật, những con người tơi tả vật vã, giãy giụa với nỗi lo thất
bát, phải “treo nồi” mùa giáp hạt...Cuộc sống tạm bợ của cha con Nương, Điền
(Cánh đồng bất tận) tưởng đã quá khổ, hóa ra Nương còn phải mủi lòng trước

những gia đình cùng khổ hơn mình: “ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang.
Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng, (như chúng tôi đi trên đất dằng

19


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến
bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra
ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp
thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau,
rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng chạy ra
vườn đái vô chậu ớt, chậu hành [báo hại cây rụi lá]. Ở đó, người con trai bảo, “ước
làm sao trước lúc má tôi chết bà được tắm một bữa đã đời” [67;170]. Hiện tại đã
vậy, tương lai thế nào cho những đứa trẻ? Một vòng luẩn quẩn của đói khổ tăm tối
là khả năng lớn nhất.
Cái nghèo trong Đời như ý tương phản sâu sắc với nhan đề của truyện. Chú
Đời mù nên phải ca cải lương, bán vé số để nuôi sống gia đình gồm một người vợ
nửa tỉnh nửa điên và hai đứa con gái nhỏ xinh xắn. Chú mơ ước đời như ý nên chú
đặt tên hai đứa con là Như và Ý. Nhưng rồi đến một ngày không còn khả năng bảo
bọc cho người phụ nữ mà mình yêu thương, chú Đời đành phải bán cả đứa con gái
nhỏ ngoan ngoãn. Hoàn cảnh nghiệt ngã đã khiến gia đình chú phải xẻ nghé tan đàn,
chia cắt tình thương. Liệu rồi những đứa trẻ có hiểu lòng chú mà tha thứ? Liệu số
phận chúng sẽ ra sao?
Lại còn một tai họa nữa rình rập con trẻ ở ngay mái ấm gia đình chúng. Đó là
thói nông nổi, ích kỉ, những đam mê lầm lạc của các bậc làm cha làm mẹ lắm khi đã
đẩy trực tiếp đẩy con mình vào cuộc sống khổ đau.
Đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), chị Diệu (Làm má đâu có dễ) là những
người nhẹ dạ, lụy tình rồi đều bị bỏ rơi. Họ sinh ra những đứa trẻ không cha. Chị
Diệu vì muốn nổi tiếng, được giao đóng những vai chính nên bỏ con cho má. Đào

Hồng bận đi lưu diễn nay đây mai đó, cũng cho đứa con của mình đi. Khi nghiệp
cầm ca tàn, thời xuân sắc qua đi, họ thấy cô đơn, họ cần đứa con như cần một chỗ
dựa, một niềm an ủi thì những đứa con quay lưng từ chối họ, bởi chúng đã quen
sống thiếu họ. Chúng lớn lên trong mặc cảm côi cút âm thầm, hờn giận âm thầm mà
mẹ chúng không bao giờ bận tâm đến. Ai có thể đo được những tổn thương sâu xa
trong tâm hồn những đứa trẻ này!
Trong Ấu thơ tươi đẹp, có những ông bố bà mẹ rất vô trách nhiệm. Họ vì thói

20


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
ích kỉ mà phá tan cái gia đình hạnh phúc - tổ ấm yêu thương của những đứa trẻ. Họ
sống buông thả, mỗi người chạy theo một đam mê để mặc gia đình tan vỡ, những
đứa con của họ phải sống khổ sở, thiếu thốn hơi ấm tình thương cha mẹ. Chúng sớm
mang những vết thương sâu hoắm trong tâm hồn, nguy cơ lớn lên thành những nhân
cách khuyết tật.
Xuyến (Duyên phận so le) đến với tình yêu quá sớm để rồi lỡ dở. Đứa con mà
cô đứt ruột đẻ ra đành đem cho người ta nuôi vì sợ sống với cô, con sẽ đói khát.
Nhìn bé Bi ngây thơ lon ton chạy nhảy cô không khỏi đau đớn xót xa vì cô không
còn là mẹ chính danh của bé. Cô tìm mọi cách để được ở bên con nhưng rồi chợt
nhận ra mình chính là người gây ra đau khổ thiệt thòi cho đứa nhỏ.
Ở Một chuyện hẹn hò, người mẹ vì không chống lại được đam mê xác thịt,
một phút xao lòng, chị đã bỏ mặc những đứa con của mình trong đêm mưa bão
khủng khiếp, với nỗi hoảng loạn tinh thần. Dù tỉnh ngộ nhờ bản năng làm mẹ nhưng
người mẹ ấy đã chết khi không kịp trở về với con. Lời của người kể chuyện nặng
trĩu xót xa trách móc “Đứa con sẽ đi qua cơn bão này gọn ơ vì gói mì đang có sẵn.
Nhưng có một cơn bão khác mà cả đời nó không đi khỏi, nó sẽ nhớ hoài chuyện mẹ
nó cùng một người đàn ông xa lạ ở trong căn chòi giữa Đầm Sầu, khi ai nấy đều về
nhà(...), nhưng hai người đó không về, họ ở ngoài đầm, để làm gì thì không nói ra

cũng biết” [64;113]. Còn nhiều những ông bố bà mẹ khác như cha mẹ của Lụm
(Lụm “Còi”), của Miên (Cỏ xanh)..vì đủ thứ lí do nào đó mà bỏ rơi con cái, để
những đứa con của họ phải sống lang thang đầu đường, xó chợ đến tội nghiệp .
Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, chúng luôn lấy cha mẹ làm hình mẫu để noi
theo. Chúng có thể trở thành người tốt nếu cha mẹ là tấm gương sáng. Ngược lại
những tâm hồn non nớt sẽ dễ bị hoen ố nếu gặp nhiều thương tổn do chính cách
hành xử sai lầm của các bậc phụ huynh.
Gia đình trong Núi Lở là một điển hình. Cả cha và mẹ cậu bé đều là những
đứa con bất hiếu. Họ kiếm sống bằng nghề cái dơ bẩn: nuôi ổ điếm trong nhà, làm
trái lời ông nội. Khi mưa bão làm sạt lở quả núi cạnh nhà họ, họ cứu cô gái điếm để
khỏi bị đi tù, mang theo con nhồng vì nó giúp họ sinh ra tiền. Còn người cha, họ sẵn
sàng bỏ mặc: “Ba già rồi còn để con nhỏ đó chết ở đây anh sẽ ngồi tù” [64;80].

21


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Chứng kiến cha mẹ “đang rú lên mừng thoát nạn mà đã - chết - rồi” cậu bé thấy trái
tim tan vỡ. Cậu kêu gào thảm thiết vì thương ông nội mà cũng là vì khủng khiếp
trước cái chết của nhân tính.
Ở Cánh đồng bất tận vì ham tấm lụa đẹp, người mẹ đã ngã vào vòng tay gã
lái buôn. Út Vũ quá hận vợ trở nên tàn nhẫn, lầm lì, lạnh lùng với các con. Anh đày
đọa chúng, đốt bỏ căn nhà trú ngụ của chúng, bắt chúng phiêu bạt, đánh đập chúng vì
chúng có nét mặt giống mẹ. Út Vũ trả thù đời bằng những cuộc tình chóng vánh, vô
cảm mà anh “tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vưa đủ bẽ bàng,
và bỏ rơi họ đúng lúc” [67;176]. Anh không bao giờ để tâm đến nỗi bất hạnh của con
cái anh. Anh tước đoạt cái quyền được nhớ, được yêu thương của chúng. Không bạn
bè, không người thân thích, chúng trở nên lạc loài xa lạ giữa thế giới con người. Cuộc
sống với Nương, Điền là một chuỗi ngày lênh đênh bất định. Họ không có nhà cửa,
không ai chờ đợi, thế giới riêng tư khép kín, không gian tù túng một con thuyền nhỏ,

không bạn bè, lối xóm. Họ kiếm tìm đồng cảm ở bày vịt chạy đồng. Chơi với người
quá hiểm nguy nên chuyển qua chơi với vịt, học cách yêu thương đàn vịt, chuyện với
người thấy buồn nên chuyển qua trò chuyện với vịt.
Nhân vật Di trong Khói trời lộng lẫy, để trả thù cha - người đã bỏ rơi chị em
cô đi với người đàn bà khác - Di đã cướp mất đứa con riêng của cha để chạy trốn.
Cô đã đóng vai mẹ nó trong suốt mười bốn năm, và cách li nó khỏi thế giới đông
vui nhộn nhịp đến Xóm Cồn hoang vu, một nơi không trường học, không bạn bè.
Đến khi sự thật vỡ lở, Di phải thú nhận với em một sự thật phũ phàng: người trong
ảnh là “cha tụi mình”. Thằng Phiên khi ấy quá shock, phản ứng giống như một đứa
trẻ “khiếm khuyết, tật nguyền”, nó “gần như không biểu lộ sự giận dữ, bàng hoàng,
đau đớn... dù trong nó có tất cả cảm giác đó, bị chúng quăng quật trong lòng”
[66;161]. Đã quá muộn khi Di nhận thức được tội lỗi của mình. Cô đã tước đoạt của
đứa em trai tội nghiệp: “một mái nhà yên ấm đông đúc với người cha hết lòng cưng
chiều, những ngôi trường, những món đồ chơi hấp dẫn, những đứa con gái dễ
thương, một cuộc sống tiện nghi hiện đại với những quán nét, tiệm game dập dìu
trên đường”. Cô tự thú: “cái thế giới bên kia sông mà Phiên đã bỏ lỡ mười bốn năm
đó mới thật sự là thiên đường.Và tôi đã đánh cắp” [66;162]. Di sẽ phải trả giá cho

22


Luận văn: Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
những sai lầm của cô bằng sự phản kháng, buông thả của Phiên.
Những vụ bạo hành của người lớn, những dục vọng tăm tối được buông thả
đến mức đánh mất hết lương tri, tình trạng lạm dụng sức lao động của trẻ nhỏ, thói
thờ ơ vô trách nhiệm của một số người trong xã hội và sự buông lỏng của pháp
luật đều là những nguyên nhân khiến trẻ em trở thành bất hạnh. Với trái tim nhạy
cảm, nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư luôn đứng về phía những đứa trẻ có số phận thiệt
thòi, kém may mắn để bênh vực chúng. Chị luôn nghe thấu


tiếng kêu cứu khẩn

thiết của các em trong cơn tuyệt vọng.Chị day dứt không nguôi với nỗi đau tê dại
của nhân vật “em” trong Gió lẻ, của “núm ruột” trong Chỉ là ghi lại một trưa vô
tình, của Mí trong tiểu thuyết Sông, của những đứa trẻ ăn xin trong Có còn người
không và rất nhiều nhân vật trẻ em khác.
Tiểu kết
Trẻ em là một phần quan trọng trong thế giới nhân vật của văn học. Trước
năm 1945, nhân vật trẻ em chưa được các nhà văn chú ý nhiều. Từ 1945 đến 1975,
trẻ em trở thành nhân vật chính trong mảng văn học thiếu nhi nhưng chưa được
quan tâm một cách toàn diện. Trẻ em chỉ được khám phá chủ yếu ở khía cạnh con
người công dân nhỏ tuổi mà anh dũng với mục đích nêu gương để cổ vũ công cuộc
kháng chiến. Sau 1975, đất nước được hòa bình, cùng với lời kêu gọi đổi mới toàn
diện, trẻ em được văn học khai thác ở nhiều phương diện. Các em vừa là chất liệu
thẩm mĩ độc đáo trong những tác phẩm mà hồi ức tuổi thơ trở thành điểm nhìn quy
chiếu biến thiên lịch sử, vừa là những thân phận, những tính cách mang chứa nhiều
thông điệp về con người, về xã hội. Chúng không chỉ là nhân vật trung tâm của văn
học thiếu nhi mà còn là lựa chọn để nhiều nhà văn bộc lộ quan niệm nghệ thuật, thái
độ can dự vào thực tại. Trẻ em được nhìn nhận, khám phá trong mối quan hệ đa
chiều, đó không còn là những nhân vật được lí tưởng hóa một chiều. Trẻ được đặt
trong mối quan hệ với gia đình, bạn bè, nhà trường, thầy cô, xã hội, quá khứ hiện
tại, tương lai. Chúng trở nên góc cạnh hơn, chân thực hơn, gần gũi hơn với bạn đọc.
Trong thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật trẻ em chiếm một vị trí
quan trọng, được đặt dưới nhiều góc nhìn, trong nhiều mối quan hệ và có khả năng
đặt ra nhiều vấn đề nghiêm túc.
23


×