Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Dạy cách học phần vi sinh vật sinh học 10 THPT cho học sinh miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 87 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
- Sự phát triển kinh tế xã hội đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo dục trên
nhiều phương diện. Việt Nam đang ở trong giai đoạn công nghiệp hóa nền
kinh tế xã hội . Mặt khác Việt Nam đã gia nhập WTO ngày 15.11.2006 (trở
thành thành viên chính thức ngày 11.01.2007). Điều đó có ý nghĩa là vấn đề
toàn cầu hóa và những yêu cầu của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng
trực tiếp tác động đến kinh tế, xã hội cũng như thị trường lao động của Việt
Nam [6]. Toàn cầu hóa đặt ra những yêu cầu mới đối với người lao động, giáo
dục cần đào tạo ra những con người đáp ứng những đòi hỏi mới của xã hội,
xu hướng cơ bản là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt
lao động có trình độ cao sẽ tăng nhanh trong tương quan với lao động nông
nghiệp, người lao động trong thời kì mới bên cạnh những năng lực chuyên
môn, người lao động cần có những năng lực chung, đặc biệt là năng lực hành
động, tính tự lực và trách nhiệm, tính năng động và sáng tạo, năng lực cộng
tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp. Khả năng học tập suốt
đời, khả năng sử dụng phương tiện mới đặc biệt là công nghệ thông tin, khả
năng sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và làm việc.[7,8,9]. Như vậy đòi hỏi
nền giáo dục nước nhà phải đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện.
- Nghị quyết BCH Trung ương Đảng lần thứ 8, (khóa XI) đã chỉ rõ: “Mục tiêu
của giáo dục đào tạo là đào tạo ra những con người có đủ phẩm chất, năng lực
để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, làm chủ tri thức khoa học công nghệ hiện đại,
có năng lực phát huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại,
có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi”. Để thực hiện được mục tiêu giáo
dục nói trên, vấn đề đặt ra đối với các trường học là cần không ngừng đổi mới
về nội dung, PPDH và tăng cường trang thiết bị dạy học. Những định hướng
đổi mới về phương pháp giáo dục trong THPT bao gồm các phương pháp

1



phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh, bồi dưỡng học
sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luỵên kĩ năng học vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú,
trách nhiệm học tập cho học sinh, gắn nội dung dạy học với thực tiễn cuộc
sống nghề nghiệp. Như vậy ngoài việc trang bị cho học sinh về kiến thức môn
học người giáo viên còn phải dạy cho học sinh cách học hay nói cách khác là
rèn luyện cho HS các kĩ năng học tập, tự học và kĩ năng thực hành các tri thức
học tập được, đặc biệt là với đối tượng học sinh dân tộc miền núi [11,12].
Nhấn mạnh : “Đổi mới phương pháp GD&ĐT, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm
điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Củng cố và phát
triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số.phấn đấu giảm sự chênh lệch về
phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.” [57]. Đây cũng là một trong
những yêu cầu nhằm phát triển giáo dục miền núi làm cho giáo dục miền núi
tiến kịp miền xuôi, đưa vùng dân tộc thiểu số tiến theo trình độ phát triển
chung của cả nước.
- Trong dự thảo của Bộ GD-ĐT “Mục tiêu và chuẩn trong chương trình giáo
dục phổ thông sau năm 2015”. Việt Nam đề xuất 9 năng lực chung chia thành
3 nhóm năng lực. Đối với dạy học Sinh học ở cấp THPT trong nhóm năng lực
chung thì năng lực tự học là năng lực quan trọng nhất và năng lực chuyên
biệt của bộ môn Sinh học [152-155].
- Hơn nữa khoa học công nghệ đang phát triển nhanh, mạnh với tốc độ cao.
Nội dung dạy học ở nhà trường phổ thông không thể trang bị được mọi tri
thức cần thiết cho mỗi người ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau sau này, vì
vậy phải coi trọng việc dạy phương pháp, dạy cách học, dạy cách đi tới tri
thức mà loài người đã tích luỹ được, tạo cơ sở để người học tiếp tục học tập
suốt đời.[27].

2



Xuất phát từ những yêu cầu đó, việc đổi mới PPDH được coi là mục tiêu
trọng tâm của đổi mới giáo dục phổ thông, chỉ có đổi mới căn bản PPDH mới
có thể tạo được sự đổi mới thật sự trong GD nhằm đào tạo được lớp người
năng động, sáng tạo, có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều
nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Điều đó cho thấy người
giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, đồng thời với việc trang bị cho học
sinh kiến thức về môn học còn phải trang bị cho học sinh phương pháp học
tập hay nói cách khác là dạy học sinh cách học để HS học tập tốt, phát triển
các năng lực chung và năng lực chuyên biệt bộ môn và khả năng học tập suốt
đời đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
- Sinh học phát triển rất nhanh đặc biệt trong 5 thập kỉ qua với những phát
hiện quan trọng đang phát huy tác dụng rộng rãi đối với nhiều lĩnh vực của
sản xuất và đời sống, đặc biệt là công nghệ Sinh học, vì vậy cần phải phát
triển chương trình và hiện đại hóa nội dung SGK Sinh học về khối lượng,
chiều sâu và hệ thống kiến thức sao cho phù hợp với từng cấp học, lớp học,
giải quyết tốt mối quan hệ giữa kiến thức Sinh học và kiến thức liên môn.
Chương trình SGK Sinh học THPT hiện nay được xây dựng theo tiếp cận
“Sinh học hệ thống” các cấp độ tổ chức sống (CĐTCS) theo hướng làm nổi
bật các đặc trưng sống qua từng CĐTCS từ cấp độ phân tử → Tế bào/cơ thể
đơn bào→ Cơ thể đa bào → Quần thể/ loài → Quần xã/ Hệ sinh thái→ Sinh
quyển theo hướng giảm bớt chức năng thông báo, tăng cường các hoạt động
tìm tòi độc lập hoặc hoạt động theo nhóm của học sinh với SGK và tài liệu
tham khảo để tự chiếm lĩnh kiến thức[7,8]. Cụ thể Sinh học 10 nghiên cứu cấp
độ tế bào và cơ thể đơn bào là cơ sở để HS tìm hiểu lên cấp độ cao hơn ở lớp
11 và 12. Cấu trúc nội dung chương trình Sinh học 10 gồm 3 phần, phần I:
giới thiệu chung về thế giới sống, phần II: Sinh học tế bào, phần III: Sinh học


3


Vi sinh Vật. Kiến thức phần này tương đối trìu tượng và khó đối với học sinh
THPT và khó hơn đối với HS dân tộc miền núi.
Thực trạng dạy học phần Vi Sinh Vật- Sinh học 10 nói riêng đối với
giáo viên miền núi hiện nay còn nhiều hạn chế, đa số GV còn quá chú trọng
đến việc truyền tải cho hết nội dung kiến thức bài học mà chưa thực sự quan
tâm đến việc rèn cho HS cách học dẫn đến chất lượng giáo dục miền núi còn
ở mức rất thấp. Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy
học sinh cách học, tự học, tự nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức
Theo đánh giá của Ban Dân tộc tỉnh, Hòa Bình là tỉnh miền núi, dân số 82
vạn người, đồng bào dân tộc chiếm trên 73%, Hòa Bình có 95 xã đặc biệt khó
khăn và 116 thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư Chương trình 135
giai đoạn II. Như vậy có thể thấy HS miền núi chiếm đại đa số là người dân
tộc thiểu số sinh sống ở những vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, hẻo lánh,
kinh tế chủ yếu thu nhập từ làm nông nghiệp, kinh tế chậm phát triển. Tỷ lệ
hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số của tỉnh còn cao, kết quả giảm nghèo chưa
thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, trình độ dân trí còn thấp chính vì
vậy mà sự đầu tư về thời gian cũng như điều kiện vật chất của gia đình cho
các em học tập còn hạn chế, chưa thực sự nhận thức được ý nghĩa của việc
học tập kể cả gia đình cũng như bản thân các em, ngoài thời gian học tập trên
lớp các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình nên thời gian dành
cho việc học tập ở nhà rất ít. Phần lớn là con em của đồng bào dân tộc thiểu
số do vậy mà ngôn ngữ sử dụng hàng ngày là tiếng dân tộc, khả năng sử dụng
tiếng Việt chưa thành thạo, các kỹ năng cơ bản khác như đọc, viết, nói, nghe,
thuyết trình, báo cáo, hùng biện, hợp tác, giao tiếp… còn kém hơn so với các
em học sinh vùng đồng bằng và thành phố. Ưu điểm là có kiến thức thực tiễn
nhiều nhưng lại chưa biết sử dụng những tri thức khoa học vào việc giải quyết
những thắc mắc, những tình huống xảy ra trong thực tiễn cuộc sống và trong


4


lao động sản xuất có nghĩa là chưa có kĩ năng thực hành tri thức vì vậy Gv
cần phải dạy cho HS cách học gắn với thực tiễn địa phương.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn đề tài:“Dạy cách học phần Vi
sinh vật- Sinh học 10 THPT cho học sinh miền núi”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu quy trình và các biện pháp để dạy cách học phần Vi sinh vậtSinh học 10 THPT cho học sinh miền núi nhằm nâng cao hiệu quả lĩnh hội
kiến thức phần này
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình dạy học sinh học nói chung và dạy học phần Vi sinh vật- Sinh học
10 THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Cách học và quy trình tổ chức dạy cách học phần Vi sinh vật- Sinh học 10
THPT
4. Giới hạn đề tài nghiên cứu
Nghiên cứu dạy cách học phần Vi sinh vật- Sinh học 10 THPT cho học sinh
miền núi
5. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được quy trình tổ chức dạy cách học và thực hiện quy trình đó
dựa trên các hoạt động của từng chủ đề phù hợp với đặc điểm của học sinh
miền núi sẽ hình thành được các kĩ năng học, nâng cao được chất lượng học
tập cho học sinh miền núi
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về dạy cách học cho học sinh
Lược sử nghiên cứu về dạy cách học cho học sinh trên thế giới và Việt Nam
6.2. Xây dựng cơ sở lý luận về dạy cách học cho học sinh


5


6.3. Nghiên cứu thực trạng dạy cách học cho học sinh của giáo viên nói chung
và giáo viên miền núi nói riêng ở 3 trường THPT miền núi thuộc Sở giáo dục
và Đào tạo Hòa Bình
6.4. Phân tích cấu trúc phần Vi sinh vật-Sinh học 10 THPT làm cơ sở cho
việc dạy cách học cho học sinh và xây dựng các chủ đề học tập
6.5. Xây dựng qui trình dạy cách học cho học sinh miền núi phần Vi sinh vậtSinh học 10 THPT.
6.6. Xây dựng mức độ đánh giá các kĩ năng cần có của HS trong quá trình học
tập kèm theo bộ câu hỏi/bài tập để đánh giá kĩ năng học tập, kết quả học tập
của HS
6.7. Xây dựng các giáo án thực nghiệm theo qui trình để dạy cách học cho
học sinh
6.8. Thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả dạy cách học cho học sinh
theo qui trình.
6.9. Xử lí số liệu thực nghiệm sư phạm để phân tích định lượng và định tính
bằng phần mềm Microsof Excel 2010
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu những chủ trương của Đảng và Nhà nước, của Bộ giáo dục và
đào tạo về các chiến lược phát triển, đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới
cách học theo hướng tích cưc hóa người học nói riêng
- Nghiên cứu các công trình khoa học liên quan dạy cách học cho học sinh
- Nghiên cứu các lý thuyết học tập làm cơ sở để xây dựng qui trình dạy cách
học cho học sinh
7.2. Phương pháp điều tra thực trạng
Điều tra tình hình giáo viên dạy cách học cho học sinh và điều tra khả năng
tự học của học sinh miển núi theo các phương pháp sau:


6


- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu phương pháp hướng dẫn dạy cách học
cho HS trong DH sinh học của GV ở một số trường THPT miền núi thuộc Sở
giáo dục và Đào tạo Hòa Bình
- Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu phương pháp học tập môn sinh học 10
của HS THPT miền núi thuộc Sở giáo dục và Đào tạo Hòa Bình
- Trực tiếp dự giờ, thăm lớp, kiểm tra kết quả tự học của HS.
- Quan sát sư phạm để kiểm tra hứng thú, mức độ tích cực học tập của HS
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Chọn lớp thực nghiệm, phương pháp đạt thực nghiệm và triển khai thực
nghiệm.
7.4. Phương pháp chuyên gia
Trao đổi lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia về qui trình tổ chức dạy cách
học được xây dựng cho đối tượng học sinh miền núi để hoàn thiện qui trình
đưa vào thực nghiệm sư phạm.
7.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm Microsoft , exel và phần mềm SPSS 16.0 để xử lý số liệu
xác định các tham số thống kê làm cơ sở phân tích định lượng các kết quả
thực nghiệm sư phạm .
8. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phương pháp dạy cách học cho học sinh nói
chung và học sinh miền núi nói riêng
- Xây dựng qui trình tổ chức dạy cách học cho học sinh trong dạy học phần Vi
sinh vật - Sinh học 10 THPT. Cho đối tượng học sinh miền núi để góp phần
nâng cao chất lượng học tập
- Đề xuất các biện pháp tổ chức dạy cách học cho học sinh miền núi phần Vi
sinh vật- Sinh học 10 THPT.

9. Cấu trúc luận văn

7


Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Dạy cách học phần Vi sinh vật- Sinh học 10 THPT cho học sinh
miền núi
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

8


PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Lược sử nghiên cứu về dạy cách học cho học sinh trên thế giới và Việt
Nam
1.1.1. Trên thế giới.
Khổng Tử (551- 479 TCN) trong quá trình dạy học cách dạy ông đòi hỏi học
trò phải cố gắng tự suy nghĩ, khi HS suy nghĩ sẽ làm bật ra những thắc mắc,
những câu hỏi để tìm cách giải quyết vấn đề. Ông nói: Học mà không suy
nghĩ thì mờ tối chẳng hiểu gì, nghĩ mà không học thì khó nhọc mất công
không, cần học cho rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng
rõ, làm cho hết sức. Do đòi hỏi học trò phải suy nghĩ trong lúc học nên ông
đánh giá cao việc đặt câu hỏi của học trò. Để tạo điều kiện cho người học tự
suy nghĩ trong dạy học ông chỉ gợi mở cho học trò tự giải đáp các vấn đề còn
lại. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không tự suy ra ba góc khác thì
không dạy nữa. Không dừng lại ở đó, ông đặt sự ham học hỏi của học trò

trong một phạm vi lớn hơn, đó là thái độ học tập: khiêm tốn, học ở mọi nơi, ở
mọi lúc, mọi người kể cả lúc đi trên đường "ba người cùng đi tất có một
người là thầy ta, chọn người hay mà bắt chước, nhìn người dở mà sửa
mình". Học đi đôi với hành, muốn học tập có hiệu quả thì phải tìm thấy vui
thú, có vui thú mới tiến ích, học mà cứ buổi buổi luyện tập luôn thì trong
bụng lại không thoả thích sao? cần thường xuyên luyện tập trong học tập, kết
quả cuối cùng của việc học, phải thể hiện ở hành. Giảng dạy phải phù hợp đối
tượng để làm được điều này trước hết cần tìm hiểu đặc điểm nhân cách từng
học trò, tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng. Ông nói: với
người có tư chất bậc trung trở lên thì mới có thể nói điều cao xa, đối với
người bậc trung trở xuống thì không thể nói điều cao xa.[2]

9


Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh việc đổi mới giáo dục, nhất là đổi mới
phương pháp dạy học, dạy cách học , tự học cho học sinh để giúp HS biết
cách học, tự học một cách hiệu quả, có khả năng học tập suốt đời đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống hiện đại thì việc tìm hiểu tư tưởng của Khổng Tử về
PPDH cho chúng ta thấy những giá trị tiến bộ của ông trong lĩnh vực giáo
dục, đặc biệt là những nguyên tắc giáo dục của ông vẫn còn nguyên giá trị
đáng để chúng ta học tập.
Hàng trăm năm trước, nước Nhật đã thực hiện cuộc Duy Tân Minh Trị,
trong đó có chủ trương “Hòa thần Dương khí” (Tinh thần Nhật Bản, Tinh hoa
phương Tây) nhằm đưa tất cả những quyển sách quý nhất của thế giới trong
hầu hết các lĩnh vực đến với mọi người dân. Những tinh hoa tri thức của loài
người đã phủ đều lên khắp nước Nhật với nhiều triệu bản in của mỗi tựa sách
đã được phát hành. Người Nhật, trước đó vốn không hẳn là một dân tộc mê
đọc sách, cũng không phải là một dân tộc sính ngoại, nhưng khát khao vươn
mình, khát vọng đua tranh cùng phương Tây đã làm cho họ hiểu và tin rằng,

sự học và tiếp nhận tinh hoa tri thức của phương Tây chính là con đường ngắn
nhất và khôn ngoan nhất đã giúp họ có đủ năng lực để thành công trong cuộc
đua tranh khó tưởng tượng này.Và chính khát vọng mãnh liệt của dân tộc đã
hun đúc cho hàng triệu công dân của đất nước mặt trời mọc, đã thổi bùng một
niềm tin, một động lực ghê gớm, và nhà trường là nơi dạy họ cách học, cách
đọc sách, cách tự học có hiệu quả nhất để để mỗi ngày, họ dốc sức cho sự
học, đọc sách, tự học, tự nghiên cứu để tiếp thu tri thức và văn minh của loài
người, cho sự phát triển của bản thân, cho sự phồn thịnh của quốc gia.
Thế kỉ 17 – 18, ở các nước châu Âu, các nhà GD nổi tiếng như Comenski,
J.J. Rousseau cũng đã có những quan điểm phải đưa ra những biện pháp DH
hướng HS tìm tòi suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, tích cực tự đánh giá kiến
thức. Những quan điểm này chỉ rõ, không nên cho HS kiến thức có sẵn mà

10


cần phải dạy cho học sinh cách HS tự phát minh ra, tự bồi dưỡng tinh thần
độc lập trong quan sát, đàm thoại và trong việc ứng dụng vào thực tiễn.[8]
Tác giả V.P.Xtơrozicozin trong tác phẩm “Tổ chức quá trình dạy học trong
trường phổ thông” cũng đã trình bày những nghiên cứu của mình về vai trò
của HS trong việc tự học, vị trí của tự học trong học tập, phương pháp tổ chức
tự học, những nguyên tắc, điều kiện đảm bảo cho tự học có hiệu quả.[30]
Từ năm 1990, ở Mỹ việc rèn luyện “Kĩ năng nghiên cứu tài liệu ” đã trở
thành một trong những nhiệm vụ đào tạo cực kì quan trọng trong nhà trường.
Trong các kì nghỉ hè và công tác hỗ trợ học tập, người ta thường thành lập rất
nhiều trung tâm “kĩ năng nghiên cứu tài liệu” đã giúp HS được học tập nhiều
cách thức đọc khác nhau, là nền tảng để phát triển việc đọc có tính chất
nghiên cứu .[36]
Albert Einstein nhà vật lý lý thuyết người Đức, được coi là nhà giáo dục
khai phóng nói “Óc tò mò của tuổi thơ luôn là động cơ của các khám phá, ủng

hộ một nền giáo dục nhằm khuyến khích hành động tự do và tính tự trách
nhiệm. Ông phê phán lối dạy nhồi nhét, hà khắc, người thầy tất cả đều là
đúng, HS là người cần phải lĩnh hội tất cả những gì thầy đã dạy, không có cơ
hội và điều kiện để tư duy, sáng tạo, ủng hộ cách dạy khuyến khích học sinh
bộc lộ những tiềm năng của mình, tích cực và sáng tạo và tự trách nhiệm [1].
Các nhà giáo dục nổi tiểng của thế kỉ 20 như Jean Piaget, J.A. Komenxki,
J.H.Petxtaloxi, JJ.Rutxo, A.Distevec....và nhiều nhà sư phạm khác sau này
đều có chung một ý tưởng thống nhất rằng trong dạy học cần đặt ra các câu
hỏi, vấn đề, tình huống thực tiễn để người học tự lực, tích cực, chủ động lập
kế hoạch, tìm kiếm thông tin để , tự khám phá để chiếm lĩnh tri thức [21].
Trên thề giới rất nhiều các công trình đã được thực hiện với mục đích khác
nhau nghiên cứu về việc dạy cách học cho HS như Nghiên cứu về các cách
thức học tập của Dansereau [ 67], Nâng cao chất lượng học tập của HS thông
qua tự học và nghiên cứu tài liệu của Chalmers(1995), Dạy để học hiệu qua

11


hơn của Tim McMahon (2004) [95].....các nghiên cứu đều đề cập đến dạy
cách học cho người học [22]
1.1.2. Ở Việt Nam
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh
Triết khi nghiên cứu về Đông Kinh nghĩa thục cho thấy về thực chất Đông
Kinh nghĩa thục chính là một cuộc vận động và thực hành cải cách giáo dục
rộng lớn, sâu sắc, cơ bản và sớm một cách đáng kinh ngạc. Đông Kinh nghĩa
thục đề cao chủ nghĩa “mở trí khôn” cho nhân dân, coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu; phổ cập giáo dục làm cho cả nước văn minh, đề cao một phương
pháp học tập văn minh, tiến bộ: “Đặt đề mà hỏi. Cho phép học trò bàn bạc tha
hồ, đối đáp tự do…” Có thể tìm thấy ở minh triết giáo dục của Đông Kinh
nghĩa thục những vấn đề cơ bản và thậm chí còn nóng hổi cho sự nghiệp giáo

dục của chúng ta ngày nay, từ triết lý giáo dục, mục tiêu đào tạo con người,
nội dung giáo dục, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục… .Các nhà
Đông Kinh nghĩa thục đã trăn trở về chủ đề này 105 năm trước. Từ bỏ triết lý
“giáo dục tĩnh” của Nho giáo, vốn chỉ tạo ra những thần dân bù nhìn, chuyển
sang “giáo dục động”, kết hợp Đông (đạo Nho nhân bản, văn hóa dân tộc) và
Tây (giáo dục Pháp). Toàn diện.. [1].
Như vậy có thể thấy vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và dạy cách học,
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh đã được nghiên cứu và thực hiện ở nước ta
đã có từ lâu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, trong nhiều bài
phát biểu, bài viết Bác cũng nhấn mạnh đến tác dụng của tự học. Tại hội nghị
toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 6
tháng 5 năm 1950, Bác đã khuyên học viên “Không phai có thầy thì học, thầy
không đến thì đùa. Phai biết tự học tập”. Ở tác phẩm “ Sửa đổi lối làm
việc”(1947) khi nói về công tác huấn luyện cán bộ bác cũng nhắc nhở “ Lấy
tự học làm cốt” [57].

12


Trong nghị quyết của bộ chính trị về CCGD (11/1/1979) đã viết “Cần coi
trọng việc bồi dưỡng hứng thú, thói quen và phương pháp tự học cho HS,
hướng dẫn HS biết cách nghiên cứu SGK, thảo luận chuyên đề, ghi chép tư
liệu, tập làm thực nghiệm khoa học ”[36 ].
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng một xã hội học tập với
phương hướng, con đường thực hiện là kết hợp đến trường, giáo dục từ xa và
tự học, trong đó tự học để trưởng thành là vô cùng quan trọng. Quan niệm tự
học và học tập suốt đời trong thời đại hiện nay nổi lên như một chìa khóa mở
cửa đi vào thế kỉ 21- thế giới của nền kinh tế tri thức.

Vì vậy mà vấn đề dạy cách học, dạy phương pháp học tập,dạy phương pháp
tự học cho học sinh đang là vấn đề được các nhà nghiên cứu giáo dục không
chỉ ở nước ngoài mà cả ở Việt Nam cũng rất quan tâm và có nhiều đề tài
nghiên cứu về vấn đề này để giúp nâng cao hiệu quả giáo dục của nước nhà
đạt được kết quả đầu ra đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế đất
nước như đề tài Nghiên cứu và phát triển tự học GS. TS. Nguyễn Cảnh Toàn
đưa ra khái niệm tự học, chu trình tự học, chu trình dạy và hệ phương pháp
dạy tự học.
Bài viết về Học và dạy phương pháp học theo cách tiếp cận của li thuyết
thông tin GS.TS. Trần Bá Hoành đã phân tích khái quát các đặc điểm của cơ
chế trong mô hình thông tin để từ đó đề xuất một số biện pháp dạy cách học
ứng với các giai đoạn của cơ chế học tập theo lí thuyết thông tin.
Tác giả Trần Bá Hoành với “Kĩ thuật dạy học sinh học” đã đề cập phải chú ý
đến rèn luyện phương pháp tự học[20]
Trong tác phẩm Dạy và học cách tư duy của tác giả Lê Hải Yến nhấn mạnh
đến “ Người thầy không chỉ là người dạy kiến thức mà điều quan trọng và cốt
lõi nhất là dạy học trò tư duy” đưa ra mô hình tự học có hiệu quả và một số
chiến lược để tự học

13


Trong đề tài Nghiên cứu, biên soạn tài liệu cách học cho sinh viên đại học sư
phạm GS.TS Đinh Quang Báo và cộng sự đã trình bày và hướng dẫn một số
cách học cơ bản cho sinh viên sư phạm như cách đọc sách, cách ghi chép,
cách thu thập thông tin để giải thích một số vấn đề, cách học bằng lập bản đồ
tư duy,, cách học so sánh, cách dùng ẩn dụ, cách tự định nghĩa khái niệm,
cách thuyết trình, cách nghiên cứu khoa học , cách sử dụng và khai thác công
nghệ thông tin trong QTHT, cách quan sát giờ học, cách học nhóm, cách lập
kế hoạch học tập [18], có thể tham khảo và vận dụng để dạy cách học cho HS

ở cấp THPT
1.2. Cơ sở lí luận.
1.2.1. Khái niệm về học.
Những thách thức mới của thời đại mới đặt Việt Nam vào tình thế cần có
nhiều hơn những doanh nhân tạo ra được những sản phẩm cho thế giới dùng,
những nhà văn viết ra được những quyển sách cho thế giới đọc, những nhạc sĩ
sáng tác ra được những bản nhạc cho thế giới nghe, những họa sĩ vẽ ra được
những bức tranh cho thế giới xem, những nhà khoa học đưa ra được những
phát kiến cho thế giới ứng dụng…, cần có nhiều hơn những nhân sự có khả
năng sống một cách đàng hoàng và làm việc thành công ở bất cứ môi trường
nào trên thế giới này. Để làm được điều này cần có sự nỗ lực trong học tập
của mỗi người. Vậy học là gì? Đây là một khái niệm mà chúng ta cần hiểu rõ
để dạy và học có hiệu quả.
Khái niệm học luôn là khởi nguồn cho mọi cuộc cách mạng về giáo dục và
điều quan trọng nhất hiện nay là nỗ lực tạo nhận thức cho người học để mỗi
người hiểu rằng họ mới chính là “ông chủ” của quá trình giáo dục, là “nhà
quản trị” sự học của bản thân với tâm thế “ Ta là sản phẩm của chính mình”.
Đồng thời với quá trình chịu tác động của hệ thống giáo dục, con người còn là
“sản phẩm” của chính mình, của một quá trình “giáo dục tự thân”. Người học
cần phải biết nắm lấy sự chủ động cao nhất, phải biết “làm chủ” trong toàn bộ

14


quá trình này. Và mọi sự đổi thay, mọi sự cải cách hay mọi cuộc cách mạng
về giáo dục đều bắt đầu từ khái niệm học[2].
Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và
những phương thức hành vi mới. Như vậy học chính là hoạt động nhằm tạo ra
sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội con người có nhiều cách thức chiếm lĩnh khác nhau có thể

do người khác truyền thụ hoặc do tự quan sát, đúc kết từ lao động, môi trường
sống....Học có thể diễn ra ngẫu nhiên trong cuộc sống hằng ngày,diễn ra ở
mọi nơi mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành lao động sản xuất, qua
hoạt động vui chơi....không có chủ định sẵn, như vậy kết quả tri thức người
học thu được sẽ rời rạc, không hệ thống, ở người học chỉ hình thành những
năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại. Nhưng ngoài việc lĩnh hội những
tri thức mang tính kinh nghiệm ra con người cần phải nắm bắt những tri thức
khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà cách học ngẫu nhiên không tạo ra
được, để có năng lực đó con người cần tiến hành hoạt động hướng vào để
thực hiện mục tiêu đó là hoạt động học- học có chủ định [11].
Như vậy với hoạt động học có chủ định thì khái niệm “học” là một khái
niệm chủ đạo trong dạy học và giáo dục, có nhiều cách diễn đạt khái niệm học
khác nhau:
- Học là hiểu và truyền đạt.
- Học là sự tiếp thu thông tin, tạo năng lực.
- Học là hội nhập những dạng tri thức mới vào cấu trúc nhận thức.
- Học là biến đổi cách trình bày tư duy
- Học là một hoạt động có mục đích với đối tượng, trong đó học sinh là chủ
thể, khái niệm khoa học là đối tượng
- Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới
sự điều khiển sư phạm của giáo viên

15


Như vậy theo các cách giải thích trên thì khái niệm học có nội hàm rộng, học
còn liên quan đến “tự học” và phát triển năng lực “tự học” để học suốt đời.
Do đó “phương pháp dạy” phải hướng vào “phương pháp học” [6].
1.2.2. Khái niệm về cách học
Trong kỉ nguyên thông tin bùng nổ, kiến thức nhân loại được tăng lên gấp

đôi cứ sau mỗi mười năm thì dạy gì? Và dạy bao nhiêu kiến thức là đủ?
Những kiến thức mà HS tiếp thu trong nhà trường có thể trở nên lỗi thời
khi ra trường trong khi quá trình toàn cầu hóa với sự biến động ngày
càng nhanh và tính cạnh tranh ngày càng gay gắt dãn đến những yêu cầu
ngày càng cao đối với người lao động. Trong hoàn cảnh đó con người
muốn thành công cũng phải thay đổi theo hướng không ngừng hoàn
thiện bản thân mình vì những điều học được ở trường chỉ là những kiến
thức cơ bản ít ỏi so với yêu cầu của xã hội. Do đó càng lớn thì yêu cầu tự
học càng trở nên quan trọng hơn vì nó là yếu tố quyết định sự thành công
của con người trong cuộc sống hiện đại khi mà yêu cầu của xã hội không
ngừng thay đổi và ngày càng cao thì chỉ bằng con đường tự học, tự hoàn
thiện bản thân để không bị tụt hậu. Những người thành công trong cuộc
sống là những người có phương pháp tự học, tự hoàn thiện bản thân
mình tốt. Ví dụ như giáo sư Toán học Việt Nam, Nguyễn Cảng Toàn là
một trong những tấm gương tự học thành tài.
Chính vì vậy mà yêu cầu trong dạy và học hiện nay có những thay đổi căn
bản để để đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống hiện đại, trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay và với những phương tiện nghe nhìn ngày càng hiện
đại thì con người có thể tự học ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Như vậy
trong dạy học người GV cần tích hợp giữa dạy nội dung với dạy cách
học cho HS, hướng dẫn người học cách tiếp cận và sàng lọc thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau, nhiều đối tượng khác nhau, với ý thức tư duy
phân tích sâu rộng, phê phán và sáng tạo, biết lập kế hoạch tự học, biết

16


vận dụng tri thức để giải quyết tình huống trong bối cảnh thực tiễn, biết
tự kiếm tra đánh giá kết quả tự học của mình và tự điều chỉnh. Khi mà
HS rèn luyện được các kĩ năng đó và sử dụng thành thạo các kĩ năng đó

thì có thể gọi là biết cách học và có khả năng học tập suốt đời.
Dạy cách học là yêu cầu quan trọng nhất trong dạy học và học cách học cũng
là yêu cầu quan trọng nhất trong việc học, quá trình dạy học không chỉ
dừng ở việc truyền thụ một kiến thức nào đó mà quan trọng hơn là
khuyến khích hướng dẫn người học tích cực chủ động tự tìm kiếm, tự
khám phá và chiếm lĩnh tri thức và vận dụng tri thức đó trong cuộc sống
đó là cách tạo động lực, sự hứng thú mạnh mẽ trong học tập và hình
thành ở người học tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự trách nhiệm và
bản lĩnh trong cuộc sống.
Với hệ thống câu hỏi: “Why- Tại sao học, học để làm gì?” (mục tiêu học);
“What- Học cái gì để đạt được mục tiêu đó?” (nội dung học) và “How Học như thế nào?” (phương pháp học).
Người học mới chính là người quyết định mình vì sao mình học, từ đó
chuyển tải thành nội dung và cách thức để họ có thể đạt đến mục tiêu học tập
một cách hiệu quả nhất. Khi hiểu rõ vai trò “làm chủ” và “nhà quản trị” trong
quá trình học, thì mọi thông tin, mọi kiến thức từ sách, từ kinh nghiệm…, từ
mọi tiết học, môn học, khóa học, lớp học, cấp học, bậc học…, từ mọi người,
mọi nơi và mọi lúc… sẽ được người học tích hợp và sắp xếp lại theo đúng tư
duy, đúng hệ thống và đúng logic của bản thân mình sao cho đạt được những
mục tiêu học tập mà cá nhân mình đã đặt ra . Như vậy người học đã sử dụng
tất cả các cách thức làm việc và tư duy của mình để tổ chức và thực hiện quá
trình học tập một cách hiệu quả nhất.
Vậy cách học là gì? Cần có một định nghĩa hoàn chỉnh và chính xác về cách
học hay còn gọi là phương pháp học tập để tác động điều chỉnh cách học sao
cho hiệu quả nhất.

17


Theo thuyết nhận thức ( Piagie, Vưgotski, Leontev..) thì cách học là bao
gồm tất cả các cách thức làm việc và tư duy mà HS sử dụng để tổ chức và

thực hiện quá trình học tập của mình một cách có hiệu quả [40].
Khi người học biết cách tổ chức, thu thập, xử lí thông tin và tự kiểm tra, tự
điều chỉnh khi làm việc với các nguồn tri thức khác nhau nghĩa là đã
nắm được phương pháp học để học trên lớp và tự học.
1.2.3. Khái niệm tự học
Tự học là một hình thức học.Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động
học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến.
Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so
với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà
cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường
nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự
học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Có thể
khẳng định vai trò to lớn của tự học đối với mỗi cá nhân trong xã hội hiện đại.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tự học:
- Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn thì: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp….), và có khi
cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả
động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách
quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say
mê khoa học…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”. [43]
- Theo tác giả Lưu Xuân Mới: “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của
cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính bản thân người

18


học tiến hành ở trên lớp hoặc ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và
SGK đã được qui định ”. [29]

- Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà
trường trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS.TSKH Thái Duy
Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so
sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm
lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã
hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Như vậy tự học là hoạt động nhận thức của người học nhằm chiếm lĩnh tri
thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành kĩ năng, kĩ xảo
thông qua cách dạy, cách tổ chức hướng dẫn của GV. Tự học giúp người học
tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản
thân mình. Tự học hình thành nên những con người năng động, sáng tạo.
Các mức độ của tự học bao gồm:
- Tự học có hướng dẫn: Là hình thức tự học để chiếm lĩnh tri thức và hình
thành kĩ năng dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV.
Có 2 mức độ:
+ Người học có SGK và có thầy giáp mặt, hướng dẫn cách học để tự khám phá
kiến thức, kĩ năng mới thông qua đó người học học học được cách học để từ đó có
thể tự học và có khả năng học tập suốt đời
+ Người học có SGK và có thêm những người thầy ở xa hướng dẫn, nghĩa là
vẫn có các quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò dưới dạng phản ánh
thắc mắc, làm bài, chấm bài….
- Tự học hoàn toàn (học với sách, không có thầy bên cạnh)
Là hình thức tự học, tự mình hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện
kĩ năng thực hành không có sự hướng dẫn của GV. Tuy nhiên vẫn có sự liên
hệ giữa người học và thầy – tác giả của sách một cách gián tiếp thông qua

19



sách. Do đó, biết cách đọc sách chính là biết “hỏi sách”, những chỗ còn thắc
mắc chưa hiểu thì biết tìm thêm những loại sách nào nữa để đọc. Khi đọc
sách, người học phải biết lựa chọn những chương nào, trang nào đó để đọc,
sau đó tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng, ghi chép lại những điều cần
thiết, biết viết tóm tắt, lập dàn ý, đề cương từ những phần mình đã đọc được.
Biết cách tự học sách là điều kiện không thể thiếu để tự học hoàn toàn, tự học
suốt đời. Đây là một hoạt động đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và
kiên trì cao thì mới đạt được kết quả. Do đó, tự học rất gắn bó với quá trình tự
GD để có được những nét tính cách trên.Vì vậy phải học một cách hệ thống
với thầy, rồi với sách.
1.2.4. Các thành tố của tự học
* Động cơ học tập: Người học tự cảm thấy môn học là hữu ích và yêu thích
môn học từ đó khiến cho người học luôn tự giác say mê, học tập với những
mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận.
* Có những hiểu biết nhất định về quá trình học tập trong mỗi bản thể
* Biết cách tự học: Trong đó bao gồm:
- Xác định mục tiêu, nội dung, kế hoạch học tập
- Đọc- hiểu SGK thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so
sánh, lập sơ đồ tư duy…
- Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa
học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí
các tình huống, viết bài thu hoạch, giải quyết các tình huống liên quan đến
thực tiễn cuộc sống
- Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức thông qua các hình thức: báo cáo, thảo luận, thuyết trình, tranh luận…
Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kĩ năng trình
bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự
tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt.

20



- Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập: Việc nhìn nhận kết quả học tập được
thực hiện bằng nhiều hình thức như dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu
cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua
thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu.
1.2.5. Cốt lõi của việc dạy học là dạy cách học
Theo hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học. Ngày
nay lí luận dạy học đi sâu vào nghiên cứu về dạy phương pháp học và học
phương pháp học. Xuất phát từ quan niệm học tập tốt nhất là tự khám phá.
Việc dạy chỉ đạt hiệu quả cao khi người thầy biết khơi dậy và phát huy tiềm
năng vốn có ở mỗi học sinh. Dạy phương pháp học trở thành một mục tiêu
dạy học và ngày càng được chú trọng. Trong lớp học hiện đại, bài học được tổ
chức thành một chuỗi hoạt động phù hợp với năng lực của từng đối tượng học
sinh trong đó giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho các
hoạt động tranh luận, tìm tòi, phát hiện kiến thức mới. HS được khuyến khích
chủ động tự chiếm lĩnh kiến thức mới, rèn luyện khả năng hoạt động độc lập,
sáng tạo của mỗi người. Nâng cao tính tự giác và tính vững chắc trong việc nắm
kiến thức của HS. Rèn cho HS kĩ năng, kĩ xảo được qui định trong chương
trình của mỗi bộ môn. Dạy cho HS biết cách áp dụng các tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo đã thu nhận được vào cuộc sống và lao động. Phát triển khả năng nhận
thức của HS (tính quan sát, tính ham hiểu biết, khả năng tư duy logic, tích cực
sáng tạo). Tự đánh giá kết quả học tập của mình. Luyện cho HS khả năng lao
động có kết quả, biết say mê vươn tới mục đích đặt ra.Trên cơ sở đó HS biết
cách học và có năng lực tự học có khả năng học tập suốt đời, hoàn thiện nhân
cách, thích ứng nhanh nhạy với những thách thức mới của cuộc sống trong
bối cảnh hội nhập quốc tế, nền kinh tế tri thức.[11]
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra khối lượng kiến thức tăng
một cách “siêu tốc” mâu thuẫn với quỹ thời gian học tập ở nhà trường có hạn,
nên giáo dục phải dựa trên nguyên tắc “ Học tập thường xuyên, suốt đời”. Do


21


đó cùng với việc dạy kiến thức đã lựa chọn cẩn thận, cập nhật thường xuyên
thì phải hướng vào dạy người học phương pháp học hay còn gọi là dạy cách
học cho người học trong mối quan hệ với nội dung kiến thức, phải coi việc
dạy phương pháp học là quan trọng và được xem như là vấn đề cốt lõi của
dạy học giúp người học có khả năng tự học để học tập suốt đời.
Như vậy có thể thấy Cốt lõi của việc dạy học là dạy cách học, dạy phương
pháp học tập hiệu qua
1.2.6. Quan hệ tuyến tính giữa cách dạy và cách học.
Sản phẩm đầu tiên của nhà khoa học được sáng chế, phát minh bởi nhà khoa
học. Những sản phẩm của nó khi đã có mặt trên thị trường thì không mang
tính bác học nữa, vì thế bất kì người nào khi biết được quy trình tạo sản phẩm
đó thì sẽ làm nên sản phẩm đó nhanh hơn và có khi tinh khiết hơn những sản
phẩm trước đây. Giáo dục là lặp lại các công trình nghiên cứu khoa học,
người giáo dục giúp học sinh tự mình làm lại công trình đó với QTCN học
sinh có thể làm lại sản phẩm đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên . Theo quan
niệm cổ điển thì giáo viên đến lớp dựa vào kinh nghiệm của mình làm lại sản
phẩm theo những nguyên tắc và biện pháp khác nhau hướng dẫn cho học sinh
quan sát , nghe diễn thuyết ghi nhớ. Đối với cách dạy cổ truyền người giáo
viên không kiểm tra được năng lực thực hành của người học mà điều này là
cái thiết yếu cốt lõi là dạy cách học, cách làm cho người học. Vì vậy khi ra
trường người học rất vất vả lăn lộn với thực tiễn cuộc sống học phải học hỏi
kinh nghiệm và tạo ra sản phẩm đó rất tốn thời gian và công sức, họ thường là
người tụt hậu với thực tiễn luôn luôn phát triển. Các nhà khoa học giáo dục
nhận thấy ở các nước chậm phát triển trình độ văn minh thấp thường đi theo
phương pháp trên (trong đó có Việt Nam) vậy thế hệ trẻ khó tiến những bước
đi đầu tiên về nhận thức văn minh, văn hóa của chính thời đại đang sống.

Theo quan điểm hiện đại thì dạy học là dạy chính sản phẩm mà nhân loại và
các nhà khoa học đã làm tức là dạy QTCN. Hiện nay dạy học theo hướng giáo

22


viên đưa ra tình huống bằng hệ thống câu hỏi logic học sinh tự làm theo thiết
kế của của thầy sai đâu thày hướng dẫn sửa chứ thày không làm thay. Bản
thân mỗi người học có một QTCN riêng “ Mẹo vặt kinh nghiệm” trên cơ sở
quá trình này giáo viên đánh giá được năng lực của trò , lúc này trò đã phân
hóa được năng lực, giáo viên tiếp tục bổ xung những khiếm khuyết để tạo ra
một QTCN cuối cùng, hoàn chỉnh và hợp với thời đại
Quá trình vừa học vừa hành theo hướng tự học có hướng dẫn để phát huy toàn
bộ nội lực người học. Nhờ đó mà ở các nước phát triển trẻ con luôn tự tin và
vận động thích nghi trong xã hôi biến động từng giây, từng phút.Ở những đứa
trẻ này có tính sáng tạo rất cao vì ngay từ bé chúng đã được huy động nội lực
bản thể kết hợp với khả năng thích nghi theo hướng dạy học đổi mới không có
sự can thiệp sâu vào nội dung nhận thức của thày giáo. Trong quá trình dạy
học giáo viên giúp học sinh học theo hướng tích cực, dạy cho học sinh cách
học để bắt được nguồn tri thức cần có từ chính việc làm của mình trên cơ sở
đó tiếp xúc với thực tiễn người học có thể từ sản phẩm cũ tạo ra sản phẩm
mới chưa từng có. Đây là nhiệm vụ cua người học cũng là nguyên lí phổ biến
và mang tính bắt buộc đối với người học [1,2,3,4].
Như vậy có thể thấy với phương pháp dạy học cũ hay nói cách khác là với
cách dạy học theo hướng nội dung, có khái niệm trong đầu thày, giáo viên
truyền khái niệm đó từ đầu mình sang học sinh nguyên vẹn bằng nhiều biện
pháp mà chủ yếu là giảng giải cặn kẽ, sau đó kiểm tra lại mức độ ghi nhớ của
học sinh. Yêu cầu đối với học sinh ở trường ghi là nhớ lời thày dạy một cách
dành mạch và nói lại suôn sẻ, thầy tuyên dương bằng điểm số và như thế họ
chỉ nhìn thấy cái bên ngoài mà không nhìn thấy cái đích thực bên trong của

sản phẩm đó vì vậy người học ở giai đoạn đầu “học một biết một” nhưng càng
ngày học nhiều nhưng không biết gì, không có thời gian tư duy, tự tìm kiếm
ra một QTCN để nhận thức ra một sự vật, tức là không tự mình tìm ra cách
thức hay phương pháp để tiếp cận nhận thức sự vật hiện tượng, với cách dạy

23


này người học khó tồn tại trong xã hội vì xã hội luôn vận hành theo tri thức
công nghệ mới mà những điều người học tiếp thu được trong nhà trường lại
mơ hồ, không bản chất, khi ra cuộc sống họ phải làm lại từ đầu để tồn tại, phù
hợp và phát triển thì học phải tự mày mò tự học lấy trong thực tiễn cuộc sống.
Phương pháp dạy học mới là phương pháp xác định được đối tượng hoạt
động theo bản chất của nó, trên cơ sở đó mới đề ra phương thức giáo dục để
tổ chức cho bản thân người học chủ động , trực tiếp tác động đối tượng để tìm
ra con đường ngắn nhất, thuận tiện nhất, ít tốn kém nhất để nhận ra nó và và
chuyển vào bản thể của mình để sử dụng trong suốt thời kì tồn tại và phát
triển. Người giáo viên khi dạy học với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn
học sinh tìm tòi QTCN để xây dựng nên khái niệm. Tổ chức cho học sinh từ
hình thái vận động bên ngoài bằng thao tác tư duy kinh nghiệm , bằng những
vận động logic trong quá trình nhận thức để đi sâu vào bản chất bên trong của
sự vật hiện tượng và bộc lộ ra khái niệm. Trong quá trình đó người học vừa
tìm kiếm vừa học vừa rút ra kinh nghiệm để tìm ra logic trong quá trình nhận
thức và biện chứng của sự phát triển khái niệm của sự vật, hiện tượng và tìm
ra khái niệm đó bằng những dấu hiệu điển hình. [8].
Tóm lại: Với PPDH truyền thống người học thụ động trong việc tiếp thu
kiến thức, chủ yếu là ghi nhớ và tái hiện tri thức, ít sáng tạo. Với PPDH tích
cực giúp người học sử dụng các cách thức làm việc và tư duy (phương pháp
học tập), tích cực, chủ động sáng tạo tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức, vận
dụng thực hành các tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn

cuộc sống và học được cách học để có khả năng học tập suốt đời.
Như vậy phương pháp giảng dạy của giáo viên (Cách dạy) và cách học của
HS có mối quan hệ tuyến tính với nhau, phương pháp giảng dạy của giáo
viên sẽ thúc đẩy và có ý nghĩa quyết định đến tích tích cực chủ động, sáng tạo
trong nhận thức của học sinh và cách thức học tập, tự học, tự nghiên cứu, sự
tập trung chú ý trong giải quyết các nhiệm vụ học tập, ý trí, khả năng linh

24


hoạt để đáp ứng lại những tình huống khác nhau, giải quyết vấn đề của người
học
1.2.7. Phân loại các cách học
Trong tác phẩm Học và dạy cách học, các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê
Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo đã đưa ra quan niệm về cách học là cách tác động
của chủ thể đến đối tượng học vì vậy cách học rất đa dạng gồm:
+ Tác động trực tiếp: Cách thu nhận thông tin và xử lí thông tin, cách giải
quyết vấn đề...
+ Tác động qua hợp tác: Phương pháp hợp tác
+ Tác động qua thông tin phản hồi: tự kiếm tra, tự điều chỉnh, rút kinh
nghiệm.
Các tác giả Đinh Quang Báo, Nguyễn Văn Đản, Trịnh Nguyên Giao, Vũ
Thị Sơn, Phạm Thị Kim Anh trong đề tài Nghiên cứu, biên soạn tài liệu cách
học cho sinh viên đại học sư phạm đã đưa ra phân loại các cách học như sau:
+ Phân loại cách học theo các mục tiêu học: Cách học để biết-hiểu; cách học
phân tích-tổng hợp; cách học vận dụng
+ Phân loại cách học theo mô hình lí thuyết thông tin: Cách thu nhận thông
tin; cách ghi nhớ, lưu trữ thông tin; cách xử lí thông tin; cách vận dụng thông
tin để giải quyết vấn đề; cách diễn đạt tri thức thu được từ việc xử lí thông tin
+ Phân loại cách học theo tính chất nội dung học: Cách học kiến thức lí

thuyết; cách học kĩ năng thực hành
+ Phân loại cách học theo nguồn cung cấp thông tin: cách học từ bài giảng
của thầy;học từ ấn phẩm; học từ mẫu vật; học từ mô hình mô phỏng; học từ
Internet;phim, băng, đĩa CD....
+ Phân loại cách học theo tính xã hội của việc học: Cách học cá nhân, cách
học theo nhóm nhỏ, cách học theo cặp, cách học trong lớp đông..

25


×