Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

KỸ NĂNG THỤ lý PHÚC THẨM vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.59 KB, 24 trang )

BÀI TẬP THUYẾT TRÌNH
MÔN KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN VINH HƯNG

ĐỀ TÀI: KỸ NĂNG THỤ LÝ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

Hà Nội 3/2017


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Tình hình nghiên cứu của đề tài
III. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
V. Kết cấu của bài nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
1.1.2 Đặc điểm của thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
1.1.3 Ý nghĩa của việc thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
1.2. Chế định phúc thẩm vụ án dân sự
1.2.1 Về tính chất của xét xử phúc thẩm
1.2.2 Kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm
1.2.3 Về chuẩn bị xét xử phúc thẩm
1.2.4 Thủ tục xét xử phúc thẩm
1.2.5 Quyền hạn của hội đồng xét xử phúc thẩm

II.Nội dung và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp


luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự

2.1 Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý
phúc thẩm vụ án dân sự
2.1.1 Điều kiện thụ lý phúc thẩm
2.1.2 Trình tự thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
2.2 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án
dân sự.
2.2.2 Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự.
2.2.3 Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý phúc thẩm dân sự.

III. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự tại Việt Nam


3.1 Các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự.
3.2 Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ
lý phúc thẩm vụ án dân sự

KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS : Tố tụng dân sự
VKS : Viện kiểm sát



PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử là một hoạt động chuyên biệt của Tòa án. Để hoạt động xét xử
được đúng đắn thì ngoài việc yêu cầu Tòa án tuân thủ các quy định về
luật nội dung còn đòi hỏi phải tuân thủ các quy định về luật hình thức
hay còn gọi là luật tố tụng. Để các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến
hành tố tụng bảo đảm chặt chẽ, trong những năm trước đây Nhà nước
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về thủ tục giải quyết các
vụ việc dân sự như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996… Tuy vậy, đứng
trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các tranh chấp trong quan hệ
dân sự không ngừng phát sinh đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp
luật tố tụng dân sự (TTDS) để bảo đảm hiệu quả của việc giải quyết các
tranh chấp. Để cụ hóa các nội dung chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp
ở Việt Nam và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngày 15/06/2004 tại kỳ
họp thứ V, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng Dân
sự (BLTTDS) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu
bước phát triển mới của pháp luật TTDS Việt Nam. Theo quy định tại
Điều 17 BLTTDS, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: Cấp xét xử sơ
thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Mỗi cấp xét xử đều có một vị trí, ý nghĩa
riêng. Nếu như xét xử sơ thẩm là hoạt động đầu tiên của Tòa án cấp sơ
thẩm khi đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết và bản án, quyết định

của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được thi hành nếu các bên liên quan không
kháng cáo, kháng nghị thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bản án, quyết
định phúc thẩm có tính chất đặc biệt quan trọng vì bản án có hiệu lực
pháp luật ngay. Vì vậy, để bản án phúc thẩm được đảm bảo thi hành
ngay ngoài yêu cầu đúng luật thì bản án đó còn được coi là một "chuẩn
mực" cho Tòa án cấp sơ thẩm học hỏi thì một trong những công việc đầu
tiên đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn của
bản án của Tòa án cấp phúc thẩm là thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Thực tiễn xét xử cho thấy, những Tòa án cấp phúc thẩm nào coi trọng
việc thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì kết quả bản án được ban
hành khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Ngược lại, những Tòa
án cấp phúc thẩm nào chưa coi trọng việc thụ lý vụ án dân sự thì kết quả
là bản án, quyết định phúc thẩm được ban hành còn thiếu tính đúng đắn.
Ngoài ra, các quy định của pháp luật TTDS về thụ lý và vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập. Ngày 29/03/2011 tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa XIII đã
thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS trong đó có
8


những quy định sửa đổi, bổ sung về thụ lý vụ án dân sự nhưng chưa giải
quyết hết những bất cập này. Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
thụ lý vụ án dân sự để giải quyết những bất cập còn tồn tại trong lúc này
là cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: "Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự" nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phúc thẩm dân
sự, trong đó có đề cập đến thụ lý vụ án dân sự. Về đề tài nghiên cứu khoa

học có công trình nghiên cứu cấp Bộ "Một số vấn đề về cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự" do Tòa án nhân dân
tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; công trình nghiên cứu cấp
Bộ "Những quan điểm cơ bản về Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" do
Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia thực hiện năm 2001; công trình nghiên cứu khoa học cấp
Bộ "Thực trạng hoạt động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động xét xử phúc thẩm của các Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao" do TANDTC thực hiện năm 2006. Về giáo trình, có
Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, 2011; Giáo trình Luật TTDS, của Học viện Tư
pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2007; Giáo trình Luật TTDS Việt
Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2011. Về các bài viết trên các báo, tạp chí
khoa học pháp lý gồm có: Bài "Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự",
của Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tạp chí Đặc san Nghề luật, số 10,
1/2005; bài "Chế định phúc thẩm vụ án dân sự", của Nguyễn Thị Thu Hà,
đăng trên Đặc san về BLTTDS Tạp chí luật học năm 2005; bài "Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết vụ án như thế nào khi tòa cấp sơ thẩm triệu tập
sai tư cách người tham gia tố tụng", của Nguyễn Đình Huề, đăng trên
Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Kỳ 2, số 5/2005; bài "Quan niệm về
nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS nước ta", của Tống Công Cường,
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số tháng 6/2006; bài "Thực hiện chế
độ hai cấp xét xử cơ chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự",
của Nguyễn Quang Hiền, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
v.v… Trong quá trình xây dựng và sau khi Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS
được ban hành đã có nhiều cuộc hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung
BLTTDS và các bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý có đề cập đến vấn đề
này như Hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự do
TANDTC tổ chức tại Sa Pa ngày 29 và 30/01/2010; bài "Những quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi, bổ sung được thể hiện trong

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ", của Phạm
Quý Tỵ, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 12/2011; bài "Thu thập chứng cứ
và chứng minh theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
9


Bộ luật Tố tụng dân sự ", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 12/2011 v.v… Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn còn nhiều vấn
đề về thụ lý và vụ án dân sự chưa được làm rõ.

III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận
về thụ lý vụ án dân sự; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về thụ lý vụ án dân sự và việc thực tiễn thực hiện chúng tại các
Tòa án. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý vụ án dân
sự và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án từ đó tìm ra nguyên nhân
và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao hiệu quả xét xử phúc
thẩm.
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc
nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về thụ lý
vụ án dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý vụ
án dân sự và khảo sát việc thực hiện các quy định này tại các Tòa án cấp
phúc thẩm Việt Nam.

IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân
sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý vụ án dân sự
và thực hiện các quy định này tại các Tòa án cấp phúc thẩm Việt Nam.

Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên việc nghiên cứu đề tài chỉ
tập trung vào những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về thụ lý vụ án dân sự
như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự; mối
quan hệ giữa thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự vụ án dân sự.
- Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự vụ án dân sự mà chủ yếu là các quy định của
BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về thụ lý
vụ án dân sự và Nghị quyết hướng dẫn thi hành các quy định của
BLTTDS về thụ lý vụ án dân sự của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Riêng đối với các quyết định được đưa ra trong thời hạn chuẩn
bị xét xử vụ án dân sự thì khóa luận chỉ nghiên cứu, phân tích về quyết
định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ, quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Còn quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được nghiên
cứu ở một công trình khoa học khác.
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về thụ lý
vụ án dân sự tại các Tòa án cấp phúc thẩm (chủ yếu là TAND thành phố
Hà Nội) trong những năm gần đây.
10


IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh v.v để thực hiện đề tài.


V. Kết cấu của bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự.
Chương 2: Nội dung và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý phúc thẩm vụ
án dân sự tại Việt Nam

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ PHÚC
THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thụ lý phúc thẩm vụ án dân
sự
1.1.1. Khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì "thụ lý" là "việc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận giải quyết vụ kiện…".
Theo cách giải thích này thì, thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là việc Tòa án
cấp phúc thẩm bắt đầu nhận trách nhiệm giải quyết lại vụ án dân sự theo
thủ tục phúc thẩm.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự có
thể được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau là thủ tục TTDS hay
hoạt
động TTDS.
Dưới góc độ thủ tục TTDS: Thủ tục tố tụng là "cách thức, trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã

được thụ lý hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật" .Từ đó, thủ tục
TTDS được hiểu là cách thức, trình tự tiến hành xem xét, giải quyết vụ
án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. Thủ tục TTDS bao gồm thủ
tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự,
trong đó thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là một thủ tục của thủ
tục phúc thẩm vụ án dân sự.
Thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự do tòa án cấp phúc thẩm tiến
hành nhằm tiếp nhận vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại
trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Điều này có nghĩa rằng, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự chỉ được
thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây là điểm khác biệt so với thủ
tục thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm tiến
hành thủ tục thụ lý vụ án dân sự khi việc khởi kiện vụ án dân sự tuân thủ
đúng và đủ các điều kiện khởi kiện (về nội dung, về hình thức khởi kiện
và tạm ứng án phí).
12


Phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai nên để kiểm tra được tính hợp pháp và
tính có căn cứ trong bản án, quyết định sơ thẩm thì phúc thẩm trước tiên
phải dựa trên hồ sơ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự bao gồm thủ tục nhận hồ sơ vụ án dân sự từ Tòa án
cấp sơ thẩm và thủ tục vào sổ thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự. Các thủ tục
này đều phải trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS.
Vậy, dưới góc độ thủ tục TTDS, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
là cách thức, trình tự Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ án dân sự
thuộc
thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhằm xét xử lại vụ án

dân sự. Dưới góc độ hoạt động TTDS: hoạt động TTDS là hoạt động của
các chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt
động này được thực hiện từ khi khởi kiện cho đến khi Tòa án ra được
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong đó, thụ lý phúc thẩm vụ
án dân sự là hoạt động tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ
án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại vụ án dân sự thuộc thẩm
quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động khởi điểm làm
phát sinh các quan hệ tố tụng trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm đồng thời chính thức ràng
buộc trách nhiệm của các chủ thể vào quá trình này. Đây là dấu hiệu để
phân biệt với hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Hoạt
động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp cơ thẩm là hoạt động tố tụng đầu
tiên của sơ thẩm dân sự, còn hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là
hoạt động đầu tiên của Tòa án cấp phúc thẩm.
Nếu như hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm là tiền đề
để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các hoạt động tiếp theo như chuẩn bị
xét xử sơ thẩm, xét xử sơ thẩm và ra bản án, quyết định sơ thẩm thì hoạt
động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm
tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo trong quá trình phúc thẩm vụ
án dân sự. Nếu không có hoạt động thụ lý vụ án của Tòa án cấp phúc
thẩm sẽ không có các hoạt động khác như chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ
án dân sự, xét xử phúc thẩm… Như vậy, để tạo tiền đề cho việc giải quyết
vụ án theo thủ tục phúc thẩm được nhanh chóng, chính xác và hiệu quả
thì hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự phải tuân theo thể thức,
trình tự do pháp luật TTDS quy định.
Vậy, dưới góc độ là hoạt động tố tụng thì thụ lý phúc thẩm vụ án dân
sự là hoạt động TTDS của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc tiếp nhận vụ
án dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp

pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
nhằm xét xử lại vụ án dân sự.
13


1.1.2. Đặc điểm của thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Trong phạm vi của luận vặn này tác giả tập trung nghiên cứu theo góc
độ về những quy định của BLTTDS về thụ lý vụ án dân sự và
thực tiễn thực hiện. Như đã phân tích ở trên, thụ lý vụ án dân sự là bước
đầu tiên của quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ
án dân sự. Thụ lý vụ án dân sự tạo tiền đề, điều kiện cần thiết
cho việc xét xử lại vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm.

Xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có những đặc điểm sau:
- Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ kiểm tra việc tuân theo pháp luật
trong khi xét xử của tòa án cấp dưới mà còn kiểm tra tính đúng đắn, tính
hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định của tòa án cấp sơ
thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xác định rõ nội dung tranh chấp, sự việc
liên quan, kiểm tra, xác minh chứng cứ có đầy đủ, chính xác không, thẩm
tra xem pháp luật liên quan được áp dụng có đúng không?
- Tòa án cấp phúc thẩm không bị ràng buộc, hạn chế bởi những nội dung
kháng cáo hoặc kháng nghị mà có thể kiểm tra những vấn đề khác có liên
quan đến kháng cáo, kháng nghị đối với tất cả các đương sự, kể cả những
người không kháng cáo và không bị kháng nghị.
- Những người tham gia tố tụng có quyền, nghĩa vụ tương tự như ở tòa
án cấp sơ thẩm. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, người kháng cáo,
kháng nghị có quyền xuất trình những tài liệu, chứng cứ mới chưa được
xem xét tại tòa án cấp sơ thẩm.
Việc thu thập chứng cứ tại cấp phúc thẩm còn gặp nhiều vướng mắc.
Phạm vi xét xử phúc thẩm chỉ xem xét các vấn đề có kháng cáo, kháng

nghị và vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ căn cứ vào các chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập
được để giải quyết vụ án mà không chú trọng đến việc xác minh, thu thập
thêm chứng cứ; nhận thức như vậy là cứng nhắc. Tòa án cấp phúc thẩm
khi tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ thường tiến hành theo hai
cách:
Thứ nhất, trước khi mở phiên tòa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực
hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ (xác minh, thẩm định tại chỗ, lấy
lời khai người làm chứng hoặc xác minh ý kiến của cơ quan chuyên
môn…)
14


Thứ hai, tại phiên tòa, trên cơ sở trình bày, tranh luận tại phiên tòa nếu
thấy cần thiết phải xác minh thu thập, chứng cứ thì hoãn phiên tòa để
xác minh, thu thập chứng cứ.
1.1.3 Ý nghĩa thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Về mặt pháp lý, thụ lý phúc thẩm dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự. Thông qua việc xét xử phúc
thẩm tại phiên tòa, Tòa án cấp trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của
Tòa án cấp dưới, sửa chữa được những sai lầm, vi phạm pháp luật của
Tòa án cấp dưới, bảo đảm bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên là hợp
pháp và có căn cứ.
1.2 Chế định phúc thẩm vụ án dân sự
1.2.1 Về tính chất của xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Dưới góc độ là một thủ tục tố tụng dân sự, phúc thẩm các quyết
định của tòa án là cách thức các đương sự thực hiện quyền của mình yêu
cầu tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, xét xử lại vụ án, bản án, quyết định
được đưa ra tại tòa án sơ thẩm trong thời gian pháp luật cho phép được
kháng cáo, kháng nghị.

Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, tòa án cấp phúc thẩm chỉ
xem xét lại những nội dung đã được xét xử sơ thẩm và có trong nội dung
kháng cáo, kháng nghị, phúc thẩm và những phần có liên quan đến nội
dung kháng cáo, kháng nghị.
1.2.2 Kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm
a. Khái niệm
Để đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên là hợp pháp và
có căn cứ trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên có
những điểm sai sót, bất hợp lý thì đương sự, trong thời gian bản án,
quyết định đã được công bố có quyền kháng cáo, kháng nghị, yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đó. Hoạt động này được gọi
là kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của đương
sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc chống lại
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật,
yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án dân sự.
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là hoạt động tố tụng của Viện
kiểm sát theo quy định của pháp luật trong việc phản đối bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, yêu cầu Tòa án
cấp trên xét xử lại vụ án dân sự.
Như vậy, kháng cáo, kháng nghị là hoạt động tố tụng của người có
thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến tòa án cấp có thẩm quyền
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa
15


án cấp sơ thẩm công bố trong thời gian bản án, quyết định chưa có hiệu
lực pháp luật.
b. Chủ thể
* Chủ thể kháng cáo:

Theo quy định Điều 271 BLTDS 2015 thì người có quyền kháng cáo
là: Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết
lại theo thủ tục phúc thẩm.
- Đương sự: Điều 68
* Chủ thể kháng nghị:
Điều 278 BLTTDS 2015 quy định về quyền kháng nghị của viện kiểm
sát đối với bản án sơ thẩm, quyết định sơ thẩm trong thời hạn được luật
pháp quy định: Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp
có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp
sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm.
c. Đối tượng kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại điều 271 và 278 bộ luật TTDS, người có quyền
kháng cáo, kháng nghị thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị đối với
những bản án sau, quyết định sau:
+ Các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật: những quyết định
trong bản án dân sự sơ thẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp
pháp của các đương sự, vì vậy, nếu đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện
và viện kiểm sát không đồng ý, phản đối bản án sơ thẩm thì có quyền
kháng cáo, kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án trong thời gian
quy định của pháp luật.
+ Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật: Là các quyết định ngừng hoặc tạm
ngừng quá trình giải quyết vụ án dân sự nên ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi hợp pháp của các đương sự, vì vậy, nếu đương sự, cơ quan, tổ
chức khởi kiện và viện kiểm sát không đồng ý, phản đối bản án sơ thẩm

thì có quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu tòa án cấp
phúc thẩm xem xét lại căn cứ đình chỉ, tạm đình chỉ là đúng hay sai.
d. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
16


* Thời hạn kháng cáo: được quy định tại Điều 273 BLTTDS 2015:
1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15
ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt
khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ
ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Đối với trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên
án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ
ngày tuyên án.
2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày
quyết định được niêm yết theo quy định của Bộ luật này.
3. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi qua dịch vụ bưu chính thì
ngày kháng cáo được xác định căn cứ vào ngày tổ chức dịch vụ bưu
chính nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trường hợp người kháng cáo đang bị
tạm giam thì ngày kháng cáo là ngày đơn kháng cáo được giám thị trại
giam xác nhận.
* Thời hạn kháng nghị: được quy định tại Điều 280 BLTTDS 2015
1. Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của
Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là
01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia
phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp

nhận được bản án.
2. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết
định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ
thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ
ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
3. Khi Tòa án nhận được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát
mà quyết định kháng nghị đó đã quá thời hạn quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này thì Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
1.2.3. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
a. Thụ lý phúc thẩm VADS
17


Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài
liệu, chứng cứ kèm theo, Tòaa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm hoặc Chánh Tòa Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân
công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên Tòa.
b. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm

Điều 286. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
1. Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng
trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng,
trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết
định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 tháng.

2. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra
xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính
đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
3. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày quyết
định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
4. Thời hạn quy định tại Điều này không áp dụng đối với vụ án xét
xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước ngoài.
Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phúc thẩm ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Quyết định này phải theo Mẫu số 13
ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị sau khi Toà án ra quyết định, không phân biệt trong vụ án đó
Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà phúc thẩm hay không.
1.2.4. Thủ tục xét xử phúc thẩm
a. Thành phần tham dự phiên tòa phúc thẩm

+ Người kháng cáo, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên
18


Tòa.

+ Tòa án có thể triệu tập những người tham gia tố tụng khác tham
gia phiên Tòa nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng
nghị.
+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên Tòa

phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc đã tham gia
phiên Tòa sơ thẩm.
b. Thủ tục tiến hành phiên tòa

Về cơ bản, thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành giống như
thủ tục phiên tòa sơ thẩm, bao gồm các thủ tục: Bắt đầu phiên tòa, hỏi,
tranh luận, nghị án và tuyên án. Song, do phạm vi xét xử khác nhau nên
việc hỏi, tranh luận, nghị án tại phiên tòa phúc thẩm chỉ tập trung vào
giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và có một số
điểm khác biệt sau:
- Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, một thành
viên của HĐXX phúc thẩm công bố nội dung của vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
- Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối
đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện Kiểm sát về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc
thẩm.
1.2.5. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm
a. Quyền hạn của HĐXX

Do phúc thẩm là cấp xét xywr nhằm kiểm tra tính hợp pháp và tính
có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm nên theo quy định tại Điều 308,
thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm bao gồm:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ
sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ
thẩm;
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
5. Đình chỉ xét xử phúc thẩm;


19


6. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
văn bản trả lời Tòa án kết quả xử lý.
b. Quyết định phúc thẩm
Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định
phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm
cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp
pháp của họ.
Trong trường hợp Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xét xử
phúc thẩm thì thời hạn này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi
lăm ngày.

CHƯƠNG II. NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ THỤ LÝ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
2.1.1 Điều kiện thụ lý phúc thẩm
Căn cứ Điều 270 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: “Xét xử phúc
thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,

quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.”
20


Như vậy, có hai điều kiện cơ bản để một vụ án dân sự được thụ lý là:
-

Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp

-

luật
Bản án, quyết định đó bị kháng cáo, kháng nghị

2.1.2 Trình tự thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm dân sự được quy định tại Điều 285 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 , theo đó:
1. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,
chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải
thông báo bằng văn bản cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và
thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
2. Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm
và phân công một Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa .
2.2 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
2.2.1 Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc

thẩm vụ án dân sự
Với sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự 2004, thủ tục tiến hành phiên
tòa phúc thẩm đã được quy định chung cho tất cả các loại vụ án dân sự.
Trong những năm qua ngành Tòa án đã đạt được những kết quả nhất
định trong công tác xét xử. Căn cứ vào báo cáo tổng kết ngành Tòa án,
tình hình giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp phúc thẩm trong những
năm gần đây như sau:
Năm 2008, tổng số vụ án về: dân sự, hôn nhân và gi đình, tranh chấp kinh
doanh thương mại và tuyên bố phá sản; tranh chấp về lao động mà các
tòa án cấp phúc thẩm thụ lý để xét xử phúc thẩm là 17.681 vụ, trong đó
tòa án phúc thẩm đã giải quyết được 16.780 vụ án, đạt 94.9%.
21


Năm 2009, tổng số vụ án về: dân sự, hôn nhân và gi đình, tranh chấp kinh
doanh thương mại và tuyên bố phá sản; tranh chấp về lao động mà các
tòa án cấp phúc thẩm thụ lý để xét xử phúc thẩm là 16.649 vụ, trong đó
tòa án phúc thẩm đã giải quyết được 15.893 vụ án, đạt 95,5%.
Năm 2010, tổng số vụ án về: dân sự, hôn nhân và gi đình, tranh chấp kinh
doanh thương mại và tuyên bố phá sản; tranh chấp về lao động mà các
tòa án cấp phúc thẩm thụ lý để xét xử phúc thẩm là 13.718 vụ, trong đó
tòa án phúc thẩm đã giải quyết được 13.032 vụ án, đạt 95%.
Nhìn chung, có thể thấy, tỉ lệ số vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục
phúc thẩm đạt tỉ lệ cao và có sự biến đổi theo hướng tích cực. Tỉ lệ số vụ
án được đưa ra xét xử phúc thẩm năm 2009 là 95,5% tăng 0,6% so với
năm 2008; tỉ lệ số vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm năm 2010 là
95%, giảm 0,5% so với năm 2009. Tuy nhiên, có thể thấy trong năm 2010
thì số vụ án được đưa ra giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là 14.718 vụ,
thấp hơn rất nhiều so với số liệu các năm trước đó, điều này chứng tỏ
phần nào giảm bớt gánh nặng xét xử cho Tòa án cấp phúc thẩm. Từ khi

các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc
thẩm dân sự được quy định cụ thể, rõ ràng Tòa án cấp phúc thẩm đã
hoàn thành tốt hơn công tác xét xử, góp phần vào việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển bền vững đất nước.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-012005 và được sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo Luật số 65/2011/QH12
(có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-2012) đã tạo ra một khung pháp
lý về các hoạt động tố tụng dân sự, góp phần nâng cao chất lượng giải
quyết các vụ việc dân sự.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành cơ bản tháo gỡ
được những khó khăn vướng mắc của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2011), góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, đến nay qua quá trình triển khai thực hiện cũng
còn một số quy định chưa rõ ràng, khó khăn trong quá trình giải quyết
đối với các vụ án riêng biệt, cần có các văn bản hướng dẫn để áp dụng
thống nhất

22


2.2.2 Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc thẩm vụ án
dân sự.
- Về thời hạn kháng nghị, thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm
sát
Có ý kiến cho rằng, các quy định về thời hạn kháng nghị, thời hạn nghiên
cứu hồ sơ của Viện kiểm sát để thực hiện quyền kháng nghị hiện nay là
quá ngắn, không đảm bảo thời gian để Viện kiểm sát nghiên cứu, có biện
pháp thu thập chứng cứ theo quy định nhất là trong các trường hợp có

thời gian trùng vào các ngày nghỉ lễ.
- Về gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị
Khoản 2 Điều 283 của Bộ luật tố tụng dân sự có quy định Tòa án cấp sơ
thẩm phải gửi hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm trong vòng 5 ngày làm
việc kể từ ngày người kháng cáo nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều
trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm xong đương sự kháng cáo và nộp biên
lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nhưng vẫn còn trong hạn kháng
cáo của đương sự khác và trong hạn kháng nghị của Viện kiểm sát. Vậy
trường hợp này cấp sơ thẩm có phải chuyển hồ sơ cho cấp phúc thẩm
ngay hay không? Trường hợp sau khi Tòa án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ
lên cho Tòa án cấp phúc thẩm, thì đương sự khác có kháng cáo hoặc Viện
kiểm sát có quyết định kháng nghị, thì việc thông báo kháng nghị của
Tòa án cấp sơ thẩm phải thực hiện như thế nào? Thời điểm thụ lý vụ án
được tính ra sao cần phải được quy định rõ.
- Về thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
Điều 284 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định trước khi bắt đầu phiên tòa
phúc thẩm VKS ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung
kháng nghị được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu nhưng tại phiên
tòa phúc thẩm Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi,
bổ sung kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị
ban đầu. Quy định này là không khả thi, bởi thực tế quyết định kháng
nghị phúc thẩm phần lớn là của Viện kiểm sát nhân dân cấp sơ thẩm, khi
xét xử phúc thẩm thì vụ án thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp trên trực tiếp, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị không tham
gia phiên tòa phúc thẩm nên không thể có quyền thay đổi, bổ sung kháng
nghị tại phiên tòa phúc thẩm như quy định của điều luật nêu trên. Do đó,
cần sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp với thực tiễn hơn, bảo
đảm Viện kiểm sát thực hiện vai trò của mình và việc giải quyết vụ án
được hiệu quả.

- Về quy định kháng nghị quá hạn

23


Tại quy định tại Khoản 3 Điều 280 Bộ luật TTDS 2015: "Khi Tòa án nhận
được quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát mà quyết định kháng nghị
đó đã quá thời hạn quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này thì Tòa án
cấp sơ thẩm yêu cầu Viện kiểm sát giải thích bằng văn bản và nêu rõ lý
do". Tuy vậy, Bộ luật TTDS lại không quy định khi đã hết thời hạn nhưng vì
lí do khách quan, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị hay không, nếu Bộ
luật TTDS quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị khi đã hết thời hạn
trong trường hợp vì lí do, trở ngại khách quan thì quy định như trên là
hợp lý. Nếu quy định đã hết thời hạn Viện kiểm sát không có quyền kháng
nghị thì quy định như trên là không cần thiết, sẽ nảy sinh nhiều khó khăn,
bất cập trong quá trình giải quyết vụ án.
- Về thủ tục nộp tiền tạm ứng phí
Hiện nay, chưa có hướng dẫn thủ tục nộp tiền tạm ứng phí như thế nào
và chưa có quy định hình thức của phiếu báo. Thực tiễn tố tụng cho thấy
các Tòa ấn có nhiều cách vận dụng khác nhau. Thông thường các Tòa án
viết giấy báo yêu cầu người khởi kiện đến Tòa án nhận thông báo nộp
tiền tạm ứng án phí rồi đi nộp. Cách làm này gây khó khăn cho người
khởi kiện nếu họ ở xa sẽ phải đi lại nhiều lần, các đương sự khi đọc thông
báo thường hiểu lầm là phải nộp tạm ứng án phí tại Tòa án… Một số Tòa
án ghi ngay số tiền tạm ứng phí mà người khởi kiện phải nộp và ghi rõ
nơi nộp tiền tạm ứng án phí vào thông báo cho người khởi kiện để họ có
thể chuẩn bị tiền đi nộp, sau đó nộp lại biên lai nộp tiền tạm ứng phí cho
Tòa án. Cách làm này đã giảm bớt khó khăn trong việc đi lại cho người
khởi kiện và tiết kiệm được thời gian.
2.2.3 Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định của

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý phúc thẩm dân sự.
Hiện nay, ở một số Tòa án còn tồn tại tình trạng bỏ sót người tham gia tố
tụng nên tòa án cấp trên phải hủy bản án hoặc kháng nghị bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật để giải quyết lại các sai lầm thường gặp là
việc tòa án không đưa ra đầy đủ người tham gia tố tụng trong trường
hợp giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi của một người
nào đó mà không ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tình trạng Tòa án giải quyết vượt
quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. Pháp luật tố tụng dân sự đã quy
định rõ về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, nội dung, hình thức đơn
khởi kiện…của đương sự. Tại phiên tòa thì người khởi kiện vẫn có quyền
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng viậc bổ sung, sửa đổi của họ
không được vuợt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Trong thực tế, có một số
trường hợp người khởi kiện đã thể hiện rõ yêu cầu, nhưng khi xét xử thì
24


Tòa án phúc thẩm lại buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ vượt quá yêu
cầu của nguyên đơn.
Trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa
phúc thẩm vụ án dân sự còn nhiều tồn tại bất cập như việc Tòa án cấp
phúc thẩm phát hiện một số sai lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp sơ
thẩm, nhưng không hủy bản án sơ thẩm mà lại kiến nghị Giám đốc thẩm
bản án.

25


CHƯƠNG III: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ
lý phúc thẩm vụ án dân sự tại Việt Nam

Xã hội đang ngày càng phát triển hiện đại, đem đến những lợi ích đáng
kể nhưng đi cùng với đó là những tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều
và có tính chất phức tạp hơn. Để cho việc thụ lý phúc thẩm vụ án đạt
được hiểu quả cao nhất thì việc phát huy ưu điểm phải đi đôi với khắc
phục khuyết điểm , sau đây là một số kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự .
3.1 Các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự.
Công nghệ giờ đã là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng
ngày , việc kết hợp công nghệ vào quá trình thụ lý vụ án có thể mang đến
rất nhiều lợi ích , củ thể là :
+ Trong trường hợp đương sự , người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
hay phía cơ quan tiến hành tố tụng không thể có mặt tại phiên tòa đúng
ngày giờ , địa điểm ghi trong giấy mời ( giấy triệu tập đương sự ) thì có
thể thay thế bằng hình thức xuất hiện khác thông qua phương tiện điện
tử ( ví dụ : dùng video call của facebook , viber hay zalo ). Hình thức này
giúp giảm bớt chi phí đi lại , thời gian tham dự phiên tòa , bên cạnh đó
giúp việc giải quyết nhanh chóng , hiệu quả vụ án .
+ Về việc nộp án phí , tiền tạm ứng án phí thì luật nên quy định thêm thủ
tục , cách thức nộp án phi , tiền tạm ứng án phí bên cạnh phương thức
truyền thống là đến Tòa án nộp thì đương sự có thể thông qua ngân hàng
thực hiện hình thức giao dịch trực tuyến mà ở đây ngân hàng là trung
gian giúp cho việc nộp án phí , tiền tạm ứng án phí trở nên thuận lợi .
3.2 Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Bên cạnh việc không ngừng xây dựng , hoàn thiện BLTTDS thì việc nâng
cao , phát triển đội ngũ cán bộ ngành Tư pháp cũng như cơ sở hạ tầng
phục vụ cho ngành là điều không thể thiếu để đạt được hiệu quả cao
trong quá trình thụ lý phúc thẩm vụ án nói riêng cũng như lĩnh vực Tư
pháp nói chung .

+ Thứ nhất: Cần tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn của các bộ ngành
Tòa án và Viện kiểm sát. Đặc biết là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
thẩm phán vì thẩm phán có vai trò quan trọng trong hoạt động chuẩn bị
26


xét xử vụ án dân sự . Bên cạnh đó không ngừng đẩy mạnh việc đào tạo ,
đào tạo lại , bồi dưỡng nâng cao trình độ cho thẩm phán , cán bộ tư pháp
về mặt chính trị , pháp luật nghiệp vụ xét xử và các kiến thức bổ trợ khác
như : xã hội , kinh tế , ngoại ngữ , tin học … nhưng kiến thức bổ trợ này là
cần thiết cho việc xét xử một cách khách quan nhất , chính xác nhất , đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân , tổ chức được bảo vệ
+ Thứ hai: Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ
cán bộ trong ngành Tòa án , Viện kiểm sát nhằm hạn chế tình trạng tiêu
cực như tham nhũng , quan lieu , hách dịch khiến ảnh hưởng tới chất
lượng giải quyết của vụ án .
+ Thứ ba: Tăng cường cơ sở vật chất , điều kiện , phương tiện làm việc
cho Tòa án , giúp cho Tòa án có những điều kiện tốt hơn trong công tác
chuẩn bị xét xử .
+Thứ tư: Kết hợp tuyên truyền , giáo dục , phổ biến pháp luật nhằm
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân , tạo điều kiện cho hoạt động
chuẩn bị xét xử của Tòa án được tiến hành thuận lợi nhất .

KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế đang trên đà phát
triển mạnh mẽ thì các tranh chấp dân sự phát sinh càng nhiều với tính
chất đa dạng và phức tạp , cả trong nước lẫn quốc tế . Để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên, cũng như tạo điều kiện ổn định phát
triển kinh tế, xã hội; các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp thời, đúng
đắn. Do đó, việc cải thiện , phát triển BLTTDS và tiến hành các biện pháp

nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động
chuẩn bị xét xử phúc thẩm nói riêng là điều cần thiết để đảm bảo lợi ích
của mỗi cá nhân,bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập, kế thừa
các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp
luật.

27



×