Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.13 KB, 110 trang )

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.

ĐẮK LẮK – NĂM 2016

1


BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI


TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.
Người hướng dẫn khoa học: TS. Huỳnh Văn Thới

ĐẮK LẮK – NĂM 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Huỳnh Văn Thới.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề
được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu
sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./.

Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016
Học viên

Huỳnh Ngọc Hoàng Hải

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài............................................................ 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 6
6. Ý nghĩa của luận văn .......................................................................................... 6
7. Kết cấu của Luận văn ......................................................................................... 6
Chương 1: .............................................................................................................. 7
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC ........................ 7
VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN ...................................................................................................................... 7
1.1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC.................. 7
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân

7

9

1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân 10
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân
.13
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.......................... 15
1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người

15

1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam
20


4


1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình
sự 24
1.3. NỘI DUNG VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN ................................................................................................ 35
1.3.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự

35

1.3.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự

43

1.3.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc tạm giữ, tạm giam 48
1.3.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án

53

Chương 2 ............................................................................................................. 56
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TỈNH ĐĂK LĂK TRONG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT CẤP TỈNH HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH

ĐẮK LẮK ........................................................................................................... 56
2.1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK.

56

2.1.2. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK
59
2.2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
............................................................................................................................. 60
2.2.1. Trong giai đoạn khởi tố và điều tra 60
2.2.2. Trong giai đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự 67
2.2.3. Trong giai đoạn thi hành án hình sự 74
5


2.2.4. Đánh giá chung 79
2.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân của chúng 79
2.2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng

80

2.3. GIẢ PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
TỈNH TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI……………….……………….82
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò bảo
vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân 82
2.3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân 90
2.3.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát
91

2.3.2.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát
93
2.3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng hình sự
95
2.3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành kiểm sát

97

2.3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ
cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát

99

KẾT LUẬN........................................................................................................ 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 104

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ
dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được
bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của

luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”.
Có nhiều biện pháp tổng hợp để Nhà nước thực hiện bảo vệ quyền con
người, từ xây dựng hệ thống bộ máy, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho đến tổ
chức thực hiện pháp luật. Trong đó, bảo vệ con người thông qua các thiết chế tư
pháp là vô cùng cấn thiết. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã hoàn thiện thêm một
bước về tổ chức và phân công thực hiện quyền lực nhà nước, các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực
hiện quyền hành pháp và tòa án thực hiện quyền tư pháp, viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Các thiết chế này có trách nhiệm bảo
vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Nói về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, Hiến pháp năm
2013 khẳng định: “1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. ...3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107). Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ra đời thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, thể chế
7


hóa quan điểm lãnh đạo của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp nước
ta gắn với vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02.6.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã chỉ rõ: “Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức năng như
hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân tổ chức cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.
Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy nhà
nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có những bộ
luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền con người như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự, thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò bảo vệ quyền con người

của Viện kiểm sát hay một chế định hiến định nào đó đều là điều cần thiết, cả về
mặt lý luận và thực tiễn, cả ở bình diện quốc gia hay địa phương.
Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở Tây Nguyên. Những năm qua, công tác kiểm sát
đã được quan tâm nâng cao chất lượng, nhằm bảo về quyền con người, quyền công
dân, cũng như góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật,
góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên,
trước bối cảnh đổi mới cơ quan kiểm sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc pháp quyền, việc nâng cao vai trò của viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường
trực, hơn nữa, thời gian qua, công tác kiểm sát ở tỉnh Đắk Lắk xuất hiện những hạn
chế về hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của người dân vào
sự công bằng của pháp luật.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ
quyền con người, đánh giá thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế
cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến
nghị nhằm hoàn thiện vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh trong bảo vệ quyền con người – từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.

8


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công bố,
ở những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như:
- Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
- Giáo trình Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Nhóm

tác giả (Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2006), Bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Hà Nội.
- GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Tháng 8/2013), Báo cáo chuyên đề “Xác
định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động xét xử”, Hà Nội.
- Vụ Công tác Lập pháp, Viện Khoa học Kiểm sát (2003), Những sửa đổi cơ
bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Hội đồng Phối hợp Phổ biến Giáo dục pháp luật Trung ương (2013), Quyền
con người và chính sách pháp luật về quyền con người, Đặc san tuyên truyền pháp
luật số 06/2013.
- TS. Phạm Mạnh Hùng (2011), “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện
kiểm sát”, Tạp chí kiểm sát (21).
- PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23, tr. 64-80.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của tác giả Lê Hữu Thể và các tác giả (năm 2008).
9


- Lại Văn Trình, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh, năm 2011;
- Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân – Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,

năm 2015.
Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: Chu Mạnh Hùng, “Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt
động tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học – trường Đại học Luật Hà Nội, số
6/2008; Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải
cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung
trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn
Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012,...
Qua khảo sát, cho thấy: nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về vai trò, các chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con
người thông qua các chức năng của cơ quan này, và thông qua các giai đoạn trong
tố tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò
bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát ở những địa phương cụ thể. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền
con người của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về vai trò Cơ quan viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con
người theo quy định hiện hành và đánh giá thực hiện vai trò đó qua thực tiễn ở
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò
của cơ quan này trong bảo vệ quyền con người trong thời gian tới.
- Các nhiệm vụ của luận văn:
10


+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước; quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, pháp
luật Việt Nam; nội dung vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân

theo quy định hiện hành.
+ Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk
hiện nay; nghiên cứu thực tiễn thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua
các mặt công tác của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh, tìm hiểu các thành tựu, hạn chế
và các nguyên nhân của chúng;
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân nói chung trong giai đoạn hiện nay, trong đó có Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân và việc thực hiện vai trò đó trong thực tiễn ở Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến nay (2016).
- Phạm vi nội dung: luận văn nghiên cứu công tác trong lĩnh vực hình sự;
(một số số liệu, thông tin khác có liên quan có giá trị tham khảo).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người
11


thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; các đề tài khoa học,

chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để
nêu lên cơ sở lý thuyết về vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công
tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và đánh giá, khái quát thành những quan điểm,
luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả sử dụng phương pháp này thông
qua các hình thức khảo sát và phỏng vấn sâu đối với một số chủ thể có liên quan.
- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở
chương 2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm
cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những
giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con
người của viện kiểm sát nhân dân;
- Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền
con người của viện kiểm sát qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên
cứu luật học về chủ đề.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và vai trò bảo vệ
quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
12



Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Về vị trí, vai trò: Việt Nam hiện tại là một nước theo hệ thống Xã hội chủ
nghĩa. Bộ máy nhà nước của các nước nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa (XHCN) được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
nhân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội
không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước, trong đó
Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói
chung (Hiến pháp 1960, 1980). Hiến pháp 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố; Hiến
pháp 1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố
là chức năng chủ yếu của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960
bằng một đạo luật là Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Yêu cầu đặt ra đối với các Kiểm sát viên là phải hành động một cách vô tư,
khách quan, căn cứ vào các tiêu chí pháp luật, không thiên vị. Với chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì cần tổ chức Viện kiểm
sát thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập. Từ năm 1945 đến nay, việc xác
định vị trí của cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước ta luôn luôn thể hiện
xu hướng khẳng định sự độc lập của hệ thống cơ quan này. Từ khi thành lập Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm
13



sát nhân dân luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước trong thời
gian Quốc hội không họp.
Ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Liên bang Nga,
Viện kiểm sát là cơ quan độc lập với Chính phủ và Toà án. ở Trung Quốc, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu
ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tại Liên bang Nga, Tổng Kiểm sát do Hội đồng liên bang (giống Thượng
nghị viện) bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Phó Tổng Kiểm sát
trưởng do Hội đồng liên bang bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng Kiểm sát
trưởng. Viện kiểm sát Liên bang Nga được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục
tùng Kiểm sát viên cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng Kiểm sát
trưởng; thực hiện các thẩm quyền của mình độc lập với chính quyền địa phương.
Ngay tại một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Viện công tố cũng được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, độc
lập với các cơ quan chính quyền địa phương. Các Công tố viên chịu sự lãnh đạo
của Công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng Công
tố trưởng.
Với vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể
14


hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể
thiếu trong bộ máy Nhà nước. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân
Việt Nam là một hệ thống độc lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (hiện có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh);
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hiện có 63
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
- Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hiện có
691 Viện kiểm sát cấp huyện tại 691 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm:
- Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
- Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn...
- Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.
Quy định như vậy là sự thể chế hóa quy định trong Hiến pháp 2013, và đã có
nhiều thay đổi so với mô hình Viện kiểm sát theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ
sung năm 2001 và Luật TCVKSND 2002. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001 quy định hệ thống Viện kiểm sát gồm:"Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự”.Quy định này
là nhằm xác định hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức theo địa giới hành chính từ

Trung ương xuống địa phương. Việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo
địa giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
được ban hành.
15


Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "Viện kiểm sát nhân
dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do Luật định”.
Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống Viện
kiểm sát tương ứng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực),
không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm
nguyên tắc độc lập của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động,
đặc biệt khi mô hình tổ chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, quy định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân, việc kiện toàn hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
được cụ thể hóa trong Luật TCVKSND 2014, trên cơ sở định hướng của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị
về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan Điều
tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp
với hệ thống tổ chức Tòa án.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống Viện kiểm sát
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ được
sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Viện kiểm sát theo bốn cấp tương ứng với
bốn cấp của Tòa án, cụ thể là: 1. Tòa án nhân dân tối cao; 2. Tòa án nhân dân cấp
cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; (và hệ thống Tòa án
quân sự) (Theo Điều 3 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
- Chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
16


Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân
dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ:
“bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
(Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013);
“bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014).
- Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
i) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
ii) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND 2014.
- Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
17


Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp
luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
i) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng
quy định của pháp luật;
ii) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp
luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn

trọng và bảo vệ;
iii) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh;
iv) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014.
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat
nhân dân:
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức
năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân
18


được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập
trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào
bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo
đảm tính thống nhất của pháp chế.
Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ
chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa
phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
lãnh đạo trong ngành.
Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương,

Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 8 Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
- Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào ở địa
phương.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ
thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối
quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành.
Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh
và thống nhất.
19


Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong
năm 2014, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám
sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ
quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi
các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ
thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật
của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và

Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là
các cơ quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân.
Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ
máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương.
Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa
phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng
nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc
phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh.
20


1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.2.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ
yếu, khác nhau về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên
(natural rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được

hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con
người, do đó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay
ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào.
Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước bỏ các
quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các
mối quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các
quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải
do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc
xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội [25].
Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính
phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan điểm
nêu trên. Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của
tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự
nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt
xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người
là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và
21


chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [20].
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi định
nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con

người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office of
High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những bảo
đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental) của con người [25, tr.37].
Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con
người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép
(entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới
tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì
họ là con người” [25, tr.37].
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có
một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí,
và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành
lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ
những quyền đó [15].
Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ
và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có
tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15].
22


Cho đến nay, giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế [24].

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu
là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là
giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm,
bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc
quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn
nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm với
nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai khái
niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác
biệt nhất định.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công
dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ
thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công
dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền
công dân mà pháp luật nước đó quy định.
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong
pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa thực tế.
23


Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi
được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời,

pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45].
Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định nghĩa
triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một định
nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự
khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới
nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo. mà
mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh
vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà
quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc tế,
định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ
về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản
của con người” [25, tr.41].
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về quyền con người như
sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo thông qua
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái
niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo
vệ bằng pháp luật quốc gia.

1.2.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn
cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh,
vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có
24



pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được
bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa
vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc
đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống
nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47].
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cũng với quyền, tự do và
nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản ánh của
các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân
con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng
đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có
của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong
việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các
quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện
những quyền pháp lý - những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên
mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật
chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật là phương
tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là
công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các
chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong
việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy
phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47].
Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều
điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa...) trong đó pháp luật có
vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng
của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con
người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm

cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực
hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người
25


×