Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Văn hóa ẩm thực miền bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 51 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ SÀI GÒN
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

Môn: Văn Hóa Ẩm Thực

VĂN HÓA ẨM THỰC MIỀN BẮC

GVHD: Lưu Mai Hương


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................4
1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ ẨM THỰC...............................................................5
1.1 Khái quát chung về văn hoá ẩm thực.......................................................................5
1.2 Bản sắc văn hoá ẩm thực Việt Nam.........................................................................5
1.3 Các khái niệm...........................................................................................................7
2. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA ẨM THỰC MIỀN BẮC.........................................................10
2.1 Lịch sử.......................................................................................................................10
2.2 Địa lý [6]...................................................................................................................13
2.3 Khí hậu [5]................................................................................................................15
2.4 Văn hóa [9]................................................................................................................16
2.5 Con người [5]............................................................................................................17
2.6 Xã hội........................................................................................................................19
2.7 Tín ngưỡng [9]..........................................................................................................20
3. CÁC MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG MIỀN BẮC..................................................................22
3.1. Phở - Hà Nội............................................................................................................22
3.2 Nhót xanh cuốn bắp cải Chẳm Chéo – Điện Biên....................................................29
3.3 Gỏi cá Mè – Bắc Giang.............................................................................................34
3.4 Cốm Làng Vòng........................................................................................................40
4. ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM TRUYỀN THỐNG CHO DU LỊCH VÀ SẢN


PHẨM MỚI.........................................................................................................................47
2


4.1 Phát triển sản phẩm truyền thống.............................................................................47
4.2 Phát triển sản phẩm mới...........................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................50

3


MỤC LỤC HÌNH
Hình 1: Bản đồ vùng trung du và miền núi Bắc Bộ............................................................13
Hình 2: Sự đa dạng của Phở (Gà, lợn (heo), quẩy).............................................................25
Hình 3: Phở Hà Nội.............................................................................................................25
Hình 4: Phở Bát Đàn – truyền qua 3 đời.............................................................................28
Hình 5: Quả Nhót................................................................................................................29
Hình 6: Một số loại Chẳm Chéo.........................................................................................30
Hình 7: Nhót xanh cuốn bắp cải Chẳm Chéo.....................................................................30
Hình 8: Giã Chẳm Chéo......................................................................................................32
Hình 9: Cách ăn Nhót Tây Bắc...........................................................................................33
Hình 10: Gỏi cá Mè Bắc Giang...........................................................................................35
Hình 11: Đinh lăng – Vọng cách.........................................................................................37
Hình 12: Tuốt lúa bằng máy để lấy thóc.............................................................................41
Hình 13: Đãi thóc qua nước, những hạt thóc nép sẽ nổi lên mặt nước và được vớt ra ngoài
..............................................................................................................................................42
Hình 14: Rang thóc làm cốm...............................................................................................42
Hình 15: Gĩa cốm và hạt cốm sau khi giã...........................................................................43
Hình 16: Sàng lọc cốm........................................................................................................43
Hình 17: Cốm đã hoàn thiện..............................................................................................44

Hình 18: Chả cốm................................................................................................................45

4


LỜI MỞ ĐẦU
Ẩm thực hay nói đơn giản hơn là ăn và uống vốn là chuyện hằng ngày, rất gần gũi và
cũng rất đời thường. Nhưng ở mỗi thời đại khác nhau thì ăn uống lại được quan tâm với
những mức độ khác nhau. Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã rất coi trong việc ăn uống, thế nên
tục ngữ mới có câu: “có thực mới vực được đạo”, “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “học ăn,
học nói, học gói, học mở”... Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển, nhu cầu của
con người ngày một cao hơn, ẩm thực cũng nhờ vào đó mà trở nên hoàn thiện hơn. Vượt
ra khỏi giới hạn “ăn no mặc ấm” để đạt đến “ăn ngon mặc đẹp”. Ẩm thực đã không còn
đơn thuần là giá trị vật chất, mà xa hơn chính là yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm
đà, duyên dáng và cốt cách. Tìm hiểu về ẩm thực của một đất nước chính là cách đơn giản
nhất để có thể hiểu thêm về lịch sử và con người của đất nước ấy. Qua đó góp phần nâng
cao vốn hiểu biết và lòng tự hào dân tộc trong mỗi chúng ta. Những điều được trình bày
trên đây cũng chính là lý do chúng em chọn đề tài “Văn hóa ẩm thực Việt Nam” để trình
bày trong bài tiểu luận này. Qua đề tài này, chúng em muốn giới thiệu với tất cả mọi
người về một nét đẹp rất đặc trưng của đất nước và con người Việt Nam, nét đẹp trong
văn hóa ẩm thực.
Nước Việt Nam hình chữ “S”, trải dài trên nhiều vĩ độ, chia làm ba miền Bắc, Trung,
Nam. Mỗi miền có những đặc trưng riêng về đặc điểm tự nhiên, sinh hoạt, sản xuất và
phong tục tập quán. Từ đó hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng cho từng miền. Tuy
nhiên, do thời gian hạn hẹp, khả năng có giới hạn và lượng thông tin vô cùng đa dạng
chúng em chỉ xin được tập trung nghiên cứu những đặc trưng ẩm thực tiêu biểu nhất của
miền Bắc.
Nguồn tài liệu mà chúng em sử dụng là những kiến thức thực tế được tích góp từ những
thế hệ đi trước, từ phần nào đó là kinh nghiệm sống còn ít ỏi của chính chúng em, và
những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu ẩm thực trong và ngoài nước được

đăng trên các sách, báo và tạp chí.
5


1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ ẨM THỰC
1.1 Khái quát chung về văn hoá ẩm thực
Theo “Từ điển Việt Nam thông dụng” thì ẩm thực chính là ăn uống – là hoạt động để
cung cấp năng lượng cho con người sống và hoạt động. Chính vì vậy, nói đến văn hoá ẩm
thực là nói đến việc ăn uống và các món ăn uống cùng với nguồn gốc, lịch sử của nó.
Trước kia, các món ăn chỉ đáp ứng nhu cầu ăn cho no bụng nhưng bây giờ con người
quan tâm đến tính thẩm mỹ của món ăn, ăn bằng mắt, bằng mũi và tất cả các giác quan
của cơ thể…Vì thế các món ăn, đồ uống được chế bến và bày biện một cách đặc sắc hơn,
cầu kỳ hơn và nấu ăn cũng như thưởng thức món ăn trở thành một nghệ thuật. Ẩm thực
không chỉ là sự tiếp cận về góc độ văn hoá vật chất mà còn chứa đựng trong đó văn hoá
tinh thần.
1.2 Bản sắc văn hoá ẩm thực Việt Nam
1.2.1 Quan niệm của người Việt Nam vể ẩm thực:
Ai cũng biết rằng: Văn hoá ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống của con
người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa,trong dân gian nước ta đã
tổng kết thành câu tục ngữ: “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở
những người mới bước chân vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên
thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu
ẩm thực, dều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống.
Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến
mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”, đây là
một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh
vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều
phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói: Trời đánh còn tránh miếng ăn và người
Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống
6



dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người trần gian, con cháu
trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn,
thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm
tất, bày biện trang trọng và thái độ thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải
chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói: “Mọi hành động của người Việt
Nam đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ,
ăn cắp, ăn trộm... ” Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự động thái trong đời sống
sinh hoạt cá nhân của mọi con người và còn là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt
mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc
trong một ngày
Không những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt
Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật
chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp.
Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không
vì thế mà họ kém đi lòng hào hiệp. Họ quan niệm: Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được
nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu
hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp,
nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí,
ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ
sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình
người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau
trong khi ăn: ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt
1.2.2 Ẩm thực Việt Nam, một nền ẩm thực vô cùng phong phú:
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các
đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt
Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau (luộc, xào, làm dưa, ăn
sống); nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có
7



dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt
lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò v.v.
Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác: ẩm thực
Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy
trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như
ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực
của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử
dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo (ví dụ
như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật v.v).
Theo ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã , cho rằng ẩm thực Việt Nam có
9 đặc trưng:
- Tính hoà đồng hay đa dạng
- Tính ít mỡ.
- Tính đậm đà hương vị.
- Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.
- Tính ngon và lành.
- Tính dùng đũa.
- Tính cộng đồng hay tính tập thể.
- Tính hiếu khách.
- Tính dọn thành mâm.
1.3 Các khái niệm
1.3.1 Khái niệm về văn hóa:

8


Văn hóa là hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo và
tích lũy ra trong quá trình sinh sống, tồn tại và, phát trien. Văn hóa được truyền từ thế hệ

này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biếu hiện trong các kiếu và hình thức tố chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con
người tạo ra.
1.3.2 Khái niệm về ấm thực và văn hóa ấm thực:
a. Khái niệm về ẩm thực:
Âm thực là ăn uống, là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý phối trộn
gia vị và những thói quen ăn uống nói chung của con người. Âm thực bao hàm ý nghĩa
khái quát nhất để chỉ tất cả những món ăn phổ biến trong cộng đồng các dân tộc thiếu số.
Qua ấm thực có thể nói lên đặc trưng văn hóa của dân tộc đó, vùng đó và đất nước đó.
b. Khái niệm về văn hóa ẩm thực:
Theo nghĩa rộng, “Văn hóa ẩm thực” là một phần văn hóa nằm trong tống thể, phức thể
các đặc trưng diện mạo về vật chất, tinh thần, tri thức, tình cảm... khắc họa một số nét cơ
bản, đặc sắc của một cộng đồng, gia đình, làng xóm, vùng miền, quốc gia... Nó chi phối
một phần không nhở trong cách tứng xử và giao tiếp của một cộng đồng, tạo nên đặc thù
của cộng đồng ấy.
Theo nghĩa hẹp, “văn hóa ấm thực” là những tập quán và khẩu vị của con người, những
ứng xử của con người trong ăn uổng; những tập tục kiêng kỵ trong ăn uổng, nhũng
phương thức chế biến bày biện trong ăn uống và cách thưởng thức món ăn.
1.3.3 Khái niêm về bản sắc văn hóa ẩm thực:
Bản sắc văn hóa ẩm thực là cách thức ăn uống của con người, đó là phong cách chế biến,
phối hợp gia vị, nguyên liêu, và thói quen ăn uống, qua đó nó thế hiện phẩm giá của con
9


người, thế hiện trình độ văn hóa của mỗi tộc người, ẩm thực được gọi là bản sắc văn hóa
ấm thực khi nó đạt được các giá trị về chân, thiện,mỹ.

10



2. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA ẨM THỰC MIỀN BẮC
2.1 Lịch sử
Bắc bộ Việt Nam là nơi ghi dấu ấn lịch sử lâu đời nhất của dân tộc Việt Nam. Với 1000
năm đô hộ của quân xâm lược phương Bắc, xâm lược của thực dân Pháp. Vì thế mà cũng
có sự ảnh hưởng từ các nước xâm lược về văn hóa, chữ viết . . . trong đó ẩm thực cũng bị
ảnh hưởng. Miền Bắc có sự ảnh hưởng văn hóa ẩm thực từ Trung Hoa, như: đậu phụ,
bánh bao, hoành thánh, tào phớ, chè mè đen, há cảo, xíu mại, bánh trung thu . . .
Tuy có sự ảnh hưởng nhưng cách chế biến lại không giống nhau. Ví dụ như các món ăn
được làm từ đậu phụ giữa Việt Nam và Trung Quốc không giống nhau. Ở Trung Hoa chè
đậu hũ là món ăn rất quen thuộc. Mùa hè thì người ta ăn chè với đá bào, mùa đông thì
kèm gừng thái lát. Thượng Hải nổi tiếng với món đậu phụ khô hầm xì dầu. Ngoài ra món
ăn được ưa thích làm từ đậu phụ là món đậu phụ thối, món này là đậu phụ được lên men
có mùi thum thủm. Ở Việt Nam, đậu phụ thường sử dụng vào dịp ăn chay. Các món như
đậu hũ chiên, hiện nay có đậu hũ non được sử dụng để nấu chè, ngoài ra đậu hũ còn được
lên men nhưng không giống Trung Hoa đậu hũ lên men ở Việt Nam là chao không có mùi
quá khó chịu nhưng đậu phụ thối.
Món hoành thánh ở Trung Hoa thì nhân bánh là rau củ và thịt băm còn ở Việt Nam thì đa
số là thịt băm, ngoài ra món này ở Trung Hoa là món ăn truyền thống vào ngày tết
Nguyên Đán, trong số hoành thánh đó sẽ có một chiếc có bọc cùng nhân một đồng tiền
xu, nếu ai ăn trúng thì được xem như sẽ nhận may mắn cả năm.
Há cảo có nguồn gốc từ Triều Châu. Thường được dùng để làm món điểm tâm hoặc món
ăn sáng há cảo là một loại bánh cực ngon và dễ ăn. Nhân bánh thì có thể đa dạng gồm
thịt, tôm, các loại rau, củ quả hoặc tôm cùng các loại rau củ quả… Món này có thể chế
biến theo hai cách là chiên và hấp nhưng thông dụng món hấp vẫn được người ta ưa
chuộng hơn. Ở Việt Nam thì nhân đa số là thịt.

11



Tào phớ ở Trung Hoa và Việt Nam gần giống nhau nhưng ngày nay Tào phớ đã có sự
thay đổi khá nhiều. Tào phớ còn có kèm theo trân châu, dừa khô như Tào phớ ở Yên Hòa,
Cầu Giấy, Hà Nội.
Bánh bao Trung Quốc, nhân bánh bao thường gồm thịt ướp băm nhỏ gọi là "xá xíu", một
số vùng còn làm cả bánh bao nhân hải sản nữa. Ngoài ra, bánh bao của Trung Quốc còn
có rất nhiều loại nhân khác nhau và vô cùng đa dạng nhưu nhân bắp cải, nhân thịt bò
chẳng hạn. Với bánh bao Việt Nam, thành phần không quá cầu kì, chỉ là thịt băm, trứng
cút, mộc nhĩ, miến và một chút hành nhưng khi ăn vị béo trong nhân và vị thơm mềm của
vỏ bánh đem lại cho ta cảm giác rất ngon miệng. Bánh bao ở Trung Hoa có truyền thuyết
là Vua Zhuge Liang (Gia Cát Lượng) sau khi chinh phục được miền đất phía nam Trung
Hoa (bây giờ là vùng Yunnan và bắc Burna), trên đường quay về, ông và đội quân của
ông đã không thể vượt qua được con sông lớn, nước chảy xiết. Ông được một vị bạo chúa
chỉ dẫn phải chặt đầu 50 nam giới và ném xuống dòng sông nhằm làm dịu đi sự hung dữ
của dòng sông… Nhưng ông không muốn phải đổ bất kì giọt máu nào nữa. Sau nhiều
ngày suy nghĩ, ông quyết định giết tất cả bò và ngựa đem theo, để lấy thịt của chúng và
nhét vào trong những chiếc bánh nhỏ có hình dạng giống đầu người và ném xuống sông.
Cuối cùng ông đã vượt qua được con sông và quay trở về.
Tên bánh trung thu của người Trung Quốc có nghĩa là bánh mặt trăng, họ có tập tục đoàn
tụ gia đình trong ngày Tết Trung thu. Bất cứ ai làm ăn ở xa, vào ngày này cũng trở về quê
hương để gặp lại gia đình, họ hàng và cùng ăn bữa cơm đoàn viên và bánh trung thu có
hình tròn tượng trưng cho sự “đoàn viên”. Ở Trung Quốc chỉ có bánh nướng, không có
bánh dẻo như Việt Nam. Tùy theo từng vùng, miền mà người Trung Quốc có cách làm
bánh trung thu khác nhau. Nhân bánh khá phong phú, được làm từ: thịt quay, đậu xanh,
đậu đỏ, khoai môn, trà xanh, hạt sen, khoai môn, trái cây, trà xanh, hải sản. Ngày nay,
nhân bánh trung thu ở Trung Quốc còn được làm từ chocolate, kem và phô mai và có
nhiều hình thù hơn: hình vuông, hình con giống. Trên bề mặt bánh thường in chữ với ý
nghĩa tốt lành. Người Trung Quốc còn có loại bánh trung thu của riêng mình là bánh “da
12



tuyết”. Bánh “da tuyết” giống bánh dẻo nhưng vỏ bánh mỏng hơn, làm từ các loại bột
nếp, bột gạo và bột mì. Loại bánh này được giữ lạnh sau khi làm và ăn lạnh. Sự tích bánh
trung thu ở Trung Hoa được tương truyền là do người Trung Nguyên không chịu nổi ách
thống trị của người Mông Cổ, những người có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà
Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể
truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi
mọi người mua bánh trung thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua
bánh về và cắt ra, nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi
nghĩa”, nhờ vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ
đó, bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
Ẩm thực Việt Nam cũng ảnh hưởng từ thực dân Pháp, như: Bánh mì, bánh flan, café,
salad, pâté, trứng ốp lết (omlette), bít tết (beef steak), dăm bông (jambon) và xúc xích
(saucisse), … đều là những món ăn từ lâu đã rất phổ biến tại Pháp.
Bánh mì ở Pháp có hình dạng dài nhỏ và nguyên liệu là lúa mạch khi qua Việt Nam vì
không thể trồng lúa mạch mà đa số là nhập do đó người Việt đã trộn lúa mạch với gạo vì
thế mà bánh mì Việt có lớp vỏ ngoài giòn tạo thành bánh mì riêng của người Việt. Ngoài
ra, để thuận tiện bánh mì còn được thay đổi kích thước ngắn hơn và tăng chiều ngang.
Bánh flan ở Pháp có thêm kem tươi và không ăn kèm với café như người Việt.
Café của người Việt ảnh hưởng bởi Pháp, café Việt Nam đã thay đổi nhiều về nguyên liệu
ngoài hạt café còn có hạt ngũ cốc rang cháy, vị café Việt Nam khác xa so với các nước
khác và màu đậm hơn.
Có lẻ với bề dày lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước mà người miền Bắc đã chống
lại những đế quốc xâm lược bằng cách thay đổi sự đồng hóa của các nước xâm lược về
chữ viết, văn hóa, ẩm thực, … để tạo ra nét riêng của người Việt.
Yếu tố lịch sử “khắc nghiệt” như thế đã làm cho con người nơi đây “mạnh mẽ và chuẩn
mực” đến không ngờ. Rồi từ đấy, một nền văn hóa chuẩn mực từ cái ăn, cái mặc, cái ở đã
13



hình thành. Miền Bắc là cái nôi hình thành dân tộc Việt Nam, vì thế cũng sinh sôi các nền
văn hóa lớn, phát triển và nối tiếp nhau. Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt và cũng từ
trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào miền Trung rồi đến miền Nam. Mặt khác,
miền Bắc là một vùng có bề dày lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Miền Bắc giữ
vai trò “hướng đạo” cho các miền Trung, miền Nam trong quá trình phát triển của lịch sử.
Tác giả Thuận Lý viết: “Tôi cảm thấy khẩu vị miền Bắc nghiêm ngặt đến mức bảo thủ, có
lẻ vì nó được canh giác thường trực để chống nỗi lo bị đồng hóa của người khổng lồ
phương Bắc”. Có lẽ vì thế mà ẩm thực miền Bắc luôn cầu kì, đẹp mắt và phong phú.
2.2 Địa lý [6]
Về vị trí địa lý:
Vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo 2 trục chính: Tây
Đông và Bắc Nam. Vị trí này khiến cho nó trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới các vùng
đất khác trong nước và là mục tiêu xâm lược đầu tiên của những thế lực muốn bành
trướng thế lực vào Đông Nam Á. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho xư
dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thu văn hóa nhân loại.

Hình 1: Bản đồ vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
14


Về địa hình:
Châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ với đồng bằng hoặc thung lũng (do hệ thống sông
ngòi dày đặc đã tạo nên những vùng trũng), thấp và bằng phẵng, dốc thoải từ Tây Bắc
xuống Đông Nam. Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ sống với nghề trồng lúa nước, làm nông
nghiệp một cách thuần túy với hệ thống sông nhất là sông Hồng được bồi đắp phù xa
thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Họ đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và đánh cá ven
biển. Tuy có diện tích đất lớn, nhưng diện tích đất canh tác của miền Bắc khá hẹp, dân cư
lại đông đúc vì là vùng kinh đô của cả nước qua nhiều thời đại, nên bữa cơm hằng ngày
của người dân miền Bắc, nhất là giới bình dân, khá giản dị và kham khổ. Do việc nuôi
heo, bò, gà, vịt cũng gặp nhiều khó khăn, nên người dân đồng bằng miền Bắc cũng

thường sử dụng thịt chó làm thức ăn. Dần dần, thịt chó trở thành đặc sản của dân miền
Bắc với 7 món: Luộc, chả, dồi, xáo, chạo, nem.
Do diện tích đất canh tác hẹp, lượng lúa gạo khá ít, người dân miền Bắc đã làm ra sợi
bún, dùng thay cơm, vì 1kg gạo làm ra được 3kg bún. Bún được chế biến thành nhiều
món ăn ngon, đặc sắc và được lưu truyền khắp đất nước. Từ các món bún đơn giản như
bún riêu, bún ốc, bún mộc đến các món bún phức tạp như bún thang, bún chả, bún trở
thánh món ăn quen thuộc trên toàn đất nước. Khi bún được lưu truyền về phía Nam thì
phát triển thành bún bò, bún mắm,...
Ngoài ra, miền Bắc có đường bờ biển lõm, lại bị đảo Hải Nam “thút nút”, luồng cá biển đi
xa, trước đây người Hà Nội và vùng Châu thổ sông Nhị - Hồng quen dùng cá (thủy sản)
nước ngọt ở sông - hồ - ao - đầm, ít quen dùng hải sản.
Ăn uống của người Việt Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Sơn Tây cũ mang đặc trưng của người Việt
trung du, xa biển gần rừng, giao tiếp và ảnh hưởng với nhiều dân tộc thiểu số miền núi
nên cũng mang một sắc thái riêng.
Còn người Việt ở Thanh Châu - Nghệ Tĩnh sinh sống ở nơi cảnh quan đa dạng: Đồng
bằng, núi rừng, biển… thiên nhiên không trù phú, sản xuất không phát đạt như đồng bằng
15


Bắc Bộ nên ăn uống của con người nơi đây hướng vào mức sao cho no, cho chắc, cần
kiệm và giản dị theo phương châm “tương cà là gia bản”. Vào những khi thiếu gạo thì
người dân độn thêm ngô, khoai. Khoai được chế biến thành nhiều loại: Khoai sống thái ra
phơi khô để độn cơm hoặc để nấu khoai xéo, khoai đậu (trộn thêm với đậu); khi ăn chấm
với vừng, lạc hoặc ăn với cà còn ăn ngọt thì nêm vào hoặc chấm với đường mật. ngoài ra
còn có món khoai luộc phơi khô để ăn bất cứ lúc nào đói.
Ở những nơi xa biển, thay cho mắm còn có tương cà; cà dằm tương hay rau muống chấm
tương là món thường thấy. Ở đồng bằng Bắc bộ, tương của vùng Bắc Ninh, Sơn Tây,
Hưng Yên rất ngon; đặc biệt tương bần Hưng Yên ngon nổi tiếng còn ở Nghệ Tĩnh có
tương Nam Đàn. Ngoài ra, người Nghệ Tĩnh còn có món nhút, nổi tiếng nhất là nhút
Thanh Chương (nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn). Đó là loại dưa muối chua, chủ

yếu từ xơ quả mít non, có thêm gia vị gừng, hành.
Giữa các sắc thái địa phương ấy, ăn uống của người Hà Nội, kinh đô cả nước qua nhiều
thời đại, kế thừa cái nền của ẩm thực Kinh Bắc, thu hút tinh túy muôn nơi, đạt tới đỉnh
cao nhất nghệ thuật ăn uống, là tiêu biểu cho ăn uống của người Việt Bắc Bộ và cả nước.
2.3 Khí hậu [5]
Không giống miền Trung và miền Nam chỉ có 2 mùa: Mưa, nắng; khí hậu miền Bắc thật
độc đáo có đủ 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có một
mùa đông thật sự, do có dạng khí hậu bốn mùa tương đối rõ rệt nên vùng này cấy được ít
vụ lúa hơn. Hơn nữa, khí hậu cũng khá thất thường, gió mùa Đông Bắc vừa lạnh vừa ấm,
rất khó chịu gió mùa hè vừa nóng và ẩm.
Vì có sự phân biệt mùa khá rõ rệt trong năm nên món ăn miền Bắc thường là phải theo
mùa “Mùa nào thức ăn nấy”. Mùa hè nóng bức thường ăn rau quả, tôm cá nhiều hơn mỡ
thịt. Người ta thường luộc, nấu canh, làm nộm, làm dưa tạo cho thức ăn có nhiều nước, có
vị chua vừa dễ ăn vừa dễ tiêu hóa và giải nhiệt cho cơ thể. Vì thế người miền Bắc hay sử

16


dụng vị chua của giấm bỗng, quả sấu, dưa cà, các loại rau quả, tôm cá có sẵn theo mùa,
vừa ngon vừa bổ.
Để cung cấp năng lượng cho cơ thể chống lại cái lạnh của mùa đông, người miền Bắc
thích ăn thịt mỡ nhiều hơn. Các bà nội trợ thường chế biến các món ăn khô hơn, dùng
nhiều mỡ hơn như: Xào, rim, kho, rán ..., gia vị phổ biến mùa này là ớt, tiêu, gừng, tỏi...
Trước Tết miền Bắc sẽ se lạnh trong những hạt mưa xuân nhè nhẹ. Chợ tết miền Bắc cũng
sẽ có nhiều loại trái cây đủ để chuẩn bị cho mâm ngũ quả thật đẹp. Tuy thế nhưng mâm
ngủ quả ở miền Bắc không đọc lái như miền Nam để thành một câu trọn vẹn nhưng trước
hết là phải đẹp. Một nãi chuối thật to để cầu cho con cháu đầy đủ, một trái bưởi cùng với
chiếc lá xanh như trụ cột gia đình, rồi sẽ đan xen vào đó là những trái quất vàng tươi,
những trái táo đỏ rực. Ngoài mâm ngũ quả ra, thì trên đó còn bày biện bát đũa, những gói
bánh nhiều màu, những gói kẹo thạt to. Khi khách tới chơi nhà sẽ đánh giá được tình hình

kinh tế trong năm trước như thế nào qua đồ được bày biện.
Việc ăn uống theo mùa bao giờ sản vật cũng ngon nhất, nhiều nhất, rẻ nhất và tươi sống
nhất. Do vậy, ăn uống theo mùa chính là tận dụng tối đa môi trường tự nhiên của người
miền Bắc để phục vụ cho cuộc sống của họ.
“Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè”
Người miền Bắc, họ ăn cái hồn cốt và tinh tuý của 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông.
2.4 Văn hóa [9]
Nhắc đến miền Bắc ai cũng nghĩ đến hình ảnh cây đa, giếng nước, mái đình, hội làng. Khi
khai khẩn đất hoang để tạo làng xây nhà con người luôn tìm những nơi gần sông để thuận
tiện cho việc đi lại, trao đổi hàng hóa giữa các làng các buôn với nhau. Mỗi làng đều có
giếng nước, đây là nơi tụ họp của người phụ nữ, họ có thể sinh hoạt ở nơi đây, trao đổi
với nhau. . . Còn những người đàn ông, họ thường tụ họp ở hội làng, mái đình nơi đây sẽ
diễn ra các lễ hội, cúng kiếng thần linh, hay những việc tranh cãi giữa những người trong
17


làng, . . . Hình ảnh cây đa là nơi có quán nước để thuận tiện cho việc nghỉ chân của khách
đi xa hay người dân trong làng có thể nghỉ ngơi sau giờ ra đồng. Bà chủ quán nước là
người lớn tuổi trong làng họ biết mọi chuyện trong làng từ chuyện nhỏ như: nhà ai mất
con gà, . . . đến chuyện ai xích mích với ai, nhà nào ở đâu, . . . đều biết rõ từng chi tiết.
Ứng xử trong ăn uống:
Cách ứng xử của người Bắc trong ăn uống rất tinh tế, nhẹ nhàng. Dân gian thường có các
câu châm ngôn nói về ăn uống với các khía cạnh tinh thần và xã hội của nó:
“Lời chào cao hơn mâm cổ”
“Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”
“Chẳng được miếng thịt miếng xôi, thì được lời nói cho vừa lòng tôi”
Bao giờ người lớn tuổi, người được tôn trọng cũng được mời ăn trước, gắp những miếng
ngon cho người khác. Người miền Bắc ưa được gắp, được mời chào vồn vã. Trong ăn
uống cũng rất khó mời được họ ăn mà phải rất khéo léo, tế nhị.
2.5 Con người [5]

Người miền Bắc cần cù chịu khó, họ tinh tế, sâu sắc luôn đề cao văn hoá và tự hào về sự
thanh lịch trong cách thưởng thức các lạc thú mà cuộc sống đem lại… Người Bắc không
hối hả, tất bật làm ăn buôn bán như người Nam cũng không “đầu tắt mặt tối” chống chọi
với thiên tai tìm đường mưu sinh như người Trung… Nhịp sống của người Bắc dù có bận
rộn đến mấy vẫn toát lên một vẻ ung dung nhàn nhã kì lạ...
“Cuộc sống trôi đi nhẹ tựa như một vạt áo lụa…”
Có lẻ vì thế mà ẩm thực miền Bắc không đậm các vị cay, ngọt bằng các vùng khác, chủ
yếu sử dụng nước mắm. Ẩm thực miền Bắc (Hà Nội) xưa nay vẫn được xem là biểu
tượng của sự tạo nhã, tinh tế, hài hoà từ màu sắc đến mùi vị, từ sự kết hợp các loại nguyên

18


liệu, các phụ gia và các loại rau ăn kèm… Ăn không chỉ để cho no mà “ăn hương ăn
hoa”.
Mặt khác, con người miền Bắc còn có tính bảo thủ, hoài cổ, lễ nghi nghiêm ngoặc. Họ
quy định về gia vị cho từng loại nguyên liệu, dùng nhiều là thịt gia súc (trâu, bò, lợn) hay
thịt gia cầm (gà, ngang, ngỗng), cá, cua, rau (rau muống, bầu, bí, rau ngót, bắp cải), gia vị
sử dụng nhiều là dấm, chanh, sấu, ớt, tiêu, gừng, hành, tỏi. Các món ăn ít cay, ít ngọt, nổi
mùi thơm trong khi chế biến, ít khi có đường, ít trực tiếp cho vào món ăn tạo nên nhiều
món ăn đặc sản truyền thống lâu đời mang tính độc đáo. Cách chế biến tinh tế, gia vị
thanh nhẹ khiến cho người ăn chiêm ngưỡng, không thể vội vã và ồn ào. Nước dùng của
phở, của bún thang là thứ nước nấu xương với lửa liu riu, sôi lăn tăn không được đun to
quá, phải luôn tay hớt bọt lúc vừa sôi, nấu làm sao để khi dùng là một thứ nước trong vắt
như nước mưa, thoảng màu hơi vàng mà chưa nổi thành màu vàng, nếm thấy ngọt lịm nơi
đầu lưỡi.
Khẩu vị của họ cũng hết sức tinh tế và nghiêm ngặt:
“Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi

Bà ơi ra chợ mua tôi đồng riềng
Con trâu ngó ngó nghiêng nghiêng,
Mày có củ riềng để tỏi cho tao”
Ẩm thực miền Bắc còn đặc trưng với cách phối trộn gia vị không quá cay, quá ngọt hay
quá béo. Sự tài tình trong việc phối hợp gia vị khi chế biến món ăn của người dân miền
Bắc không những giúp làm mất đi mùi tanh của thức ăn mà còn làm tăng thêm hương vị
của món ăn. Các loại gia vị trong ẩm thực miền Bắc rất phong phú và riêng biệt cho từng
món ăn, bao gồm nhiều loại rau thơm như tía tô, hành cho bát cháo giải cảm; thìa là cho
19


món riêu cá hay bún chả cá Lã Vọng; húng Láng, loại rau chỉ có thể trồng trên đất làng
Láng mới có được mùi vị đặc trưng, lá mơ ăn kèm thịt chó; gừng, riềng luôn có trong mẻ
cá kho; lá chanh non xanh mởn được xắt nhuyễn và rắc trên dĩa gà luộc; các gia vị lên
men như mắm tôm, mẻ hoặc giấm bổng là gia vị không thể thiếu của món bún riêu, bún
ốc.
Người Hà Nội thưởng thức ăn uống bằng tai như những lời rao quà sớm mai và còn bằng
mắt nữa. Cứ xem một người mẹ/ vợ bày một đĩa thịt gà là cả một không gian ngời ngợi da
vàng. Hay là nghệ thuật tỉa hoa, tỉa quả của những bữa cổ hay những ngày Tết Trung thu.
Có lẽ chính quan điểm về cái ăn và phong cách ăn đã góp phần tạo nên những món ăn đặc
sản của xứ Bắc.
2.6 Xã hội
Ở xã hội Việt nam cổ truyền – trước hết là ở làng xã, cái tính “tinh thần thứ bậc” và cái
tính sĩ diện được thể hiện rõ nhất.
“Miếng giữa làng hơn sàng só bếp”
Ở nhà, ăn thịt gà chẳng hạn, thì ngon nhất là “thứ nhất phao câu, thì nhì âu cánh”, song ở
chốn đình làng lại là “nhất thủ, nhì vĩ” – miếng ăn được coi là ngon nhất của con vật là
phần đầu sau đó mới đến phần đuôi.
Thông qua ăn uống con người thiết lập và củng cố các quan hệ xã hội ở các phạm vi gia
đình, dòng họ, cộng đồng làng xã và các quan hệ xã hội khác.

Vị trí ngồi cũng được sắp xếp theo thứ bậc: Các “cụ thượng” ngồi chiếu trên, hạng “tráng
đinh” ngồi chiếu dưới và nhân vật thấp nhất làng là “ông mõ” (thường là dân ngụ cư).
Nhìn chung, người Việt rất chú ý đến nghi lễ, thứ bậc trong ăn uống. Nhưng nói đến đặc
trưng ăn uống của người Việt thì không thể không nói đến các nghi lễ, phép tắc ăn uống
của người miền Bắc. Ở miền Bắc, phong cách ăn uống hay việc xưng hô, cư xử luôn được
tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Từ việc xếp vị trí ngồi, mời ai trước ai sau, người nào ăn
20


trước ăn sau trong bữa cơm hằng ngày đến việc cúng kiếng, sắp xếp mâm cỗ, chia phần
trong các cỗ tiệc đều mang nặng tính lễ mễ, kiểu cách. Đến việc nấu nướng rất cầu kỳ, lựa
chọn nguyên vật liệu hay phối hợp gia vị cũng được chú trọng, luôn làm theo một chuẩn
mực nhất định Nhưng đó lại là phong cách ẩm thực truyền thống của Việt Nam nói chung
và miền Bắc nói riêng.
2.7 Tín ngưỡng [9]
Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt. Họ tin
rằng linh hồn của tôt tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì vậy nên
gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà.
Và các mâm cỗ ở Việt Nam đặc biệt là miền Bắc, chúng ta thường thấy mặc dù trong bữa
ăn của những nhà có kinh tế không cao, thì vào những dịp cúng giỗ vẫn phải có “mâm cao
cỗ đầy”, “cỗ ba tầng” (tùy theo thứ bậc của người đã mất) và người trai trưởng mới có
quyền cúng giỗ.
Đối với giới quý tộc, trưởng giả, thường hay tổ chức các bữa cỗ tiệc với “mâm cao cỗ
đầy”, thường gọi là cỗ bát đĩa, có 8 món với 4 bát 4 đĩa hoặc 10 món với 4 bát 6 đĩa. Đối
với một số gia đình thượng lưu, cỗ có khi lên đến 8 bát 8 đĩa. Các món bày đĩa thường là
thịt gà luộc, gà rán, thịt kho Tàu, thịt xá xíu, giò lụa, giò thủ, lạp xưởng, củ cải ngâm giấm
trộn rau cần, sứa trộn thịt,… Các món bát thường là bóng bì, bóng cá thủ, càri khoai tây,
măng, miến, chim hầm, món ninh, mộc. Cỗ sang trọng thì có yến sào.
Còn về các món tiết canh thịt chó mà người miền Bắc thường ăn đều bắt nguồn từ nghi
thức đạo giáo dân gian: Lễ “cắt máu ăn thề” và lễ “hiến sinh”. Lễ hiến máu người, uống

máu tồn tại đến thế kỹ X dưới thời Đinh và kinh đô Hoa Lư.
Toàn thư còn chép một lễ hiến sinh ngựa trắng ở thời vua đầu nhà Lê. Ngựa trắng là biểu
tượng mặt trời và theo lễ tục Thờ thần Mặt trời thì bao giờ cũng có việc hiến ngựa trắng,
uống máu ăn thịt ngựa trắng. Ở Hà Nội có Đền Bạch Mã và lễ hiến sinh ngựa trắng. Chắc
vì những lẽ trên mà các món tiết canh với loại hình tiết canh lợn, tiết canh vịt, tiết canh
21


ngan… Là một đặc sản của văn hóa ẩm thực miền Bắc. Còn về thịt chó thì ban đầu thịt
chó là món ăn sau lễ hiến sinh buổi tối của các Đạo sĩ ở các quán ăn dân gian rồi lan tỏa
ra một bộ phận dân gian thường là đàn ông. Nay thì Hà Nội có cả một “dãy phố thịt chó”
từ Yên Phụ đến Nhật Tân, ăn uống từ sáng trưa chiều tối..

22


3. CÁC MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG MIỀN BẮC
Quan điểm về cái ăn và phong cách ăn đã góp phần tạo nên những món đặc sản của miền
Bắc. Nhưng rồi những món ăn ấy lại góp phần củng cố cái phong cách ăn của cộng đồng
đã tạo ra nó. Mỗi vùng đều có món ăn riêng cố hữu:
Chàng đi nhớ cháo làng Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên
Dưa La, ca Láng, nem Báng, tương Bần
Cua Phụng Pháp, rau muống Hiên Ngang
Hay
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về An Phú với anh thì về
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát, có nghề mạch nha.
Tuy nhiên, do khả năng có hạn và lượng thông tin vô cùng đa dạng chúng em chỉ xin

được tập trung giới thiệu những đặc trưng ẩm thực tiêu biểu nhất của miền Bắc.
3.1. Phở - Hà Nội
Phở là một món ăn truyền thống Việt Nam, Phở đã được CNN (mạng tin tức truyền hình
cáp tại Hoa Kỳ) bình chọn là một trong những món ăn nổi tiếng thế giới. Nhắc đến Việt
Nam, không thể không nhắc đến Phở. Và nhắc đến Phở là nhắc đến Việt Nam. Thậm chí,
"Phở" còn được định nghĩa như một danh từ riêng trong từ điển Oxford, thay vì danh từ
chung "Noodle" cho tất cả các món ăn dạng sợi như bún, mì hay miến… Phở nổi tiếng và
được nhiều bạn bè trên thế giới biết đến nhờ sự kiện: năm 2000 tổng thống Mỹ Bill
Clinton đến thăm Việt Nam. Trong chuyến thăm Hà Nội, gia đình nhà tổng thống Clinton
23


đã đến hàng phở Cồ nổi tiếng gần Văn Miếu Quốc Tử Giám. Gia đình ông có lẽ rất thích
món này nên khi vào Sài Gòn, ông đã đến một quán phở kế bên chợ Bến Thành. Và sau
chuyến công du của tổng thống Bill Clinton, món "quốc hồn quốc túy" của Việt Nam đã
trở thành món ăn đặc biệt nổi tiếng trên thế giới.
Phở có nguồn gốc từ món Thắng cố (thịt hầm) của các dân tộc thiểu số ở Hà Giang. Vào
khoảng năm 1930, các công nhân nhập cư đã đem món “thịt hầm” này vào Nam Định và
Hà Nội, ăn với bánh đa tươi. Người Pháp, lúc này đang cai trị Việt Nam, gọi món này là
pot-au-feu, đọc như "pốt tô phơ", sau người Việt chuyển thánh từ “Phở”. Sợi bánh đa
cũng được chế biến dần, thành sợi phở của ngày nay
Dù có nhiều tài liệu cho rằng cuội nguồn Phở ở Nam Định nhưng Hà Nội lại là nơi làm
cho món ăn dân dã này trở nên nổi tiếng như ngày hôm nay.
Phở là món ăn bình dân, Công, Nông, Binh, Trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành
thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn Phở. Người công dân Việt Nam khi còn ẵm
ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi, chỉ có khác người lớn là cái bát Phở tuổi ấu trĩ chưa
biết đau khổ ấy, chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà
nghèo, nhiều khi không cần cả thịt nữa… [4]
Phở ăn vào bất cứ giờ nào cũng đều thấy trôi được cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya lúc
nào ăn cũng được. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành thảo

với bầu bạn, nó hợp với cái túi nhỏ. Phở còn tài tình ở chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có ý
nghĩa thâm thúy. Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua
lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông, ăn bát Phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm
tươi lại. Trong một ngày đông của người nghèo, bát Phở có giá trị như một tấm áo kép
mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn Phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả cái
chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng để mai đi làm khỏe. [4]
Sức hút kỳ diệu của Phở đến từ sự hài hòa âm dương, quân bình âm dương trong cơ thể
và bảo đảm sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên. [10]
24


- Chỉ trong một bát phở ta thấy sự hài hòa âm – dương, thủy – hỏa từ sự tổng hợp của mọi
chất liệu, mùi, vị, màu sắc. Nó vừa có cái mềm của thịt bò tái hồng, cái dẻo của bánh phở
trắng, cái cay dìu dịu của lát gừng vàng, hạt tiêu đen, cái cay xuýt xoa của ớt đỏ, cái thơm
nhè nhẹ của hành hoa thơm nhạt, cái thơm hăng hắc của rau thơm xanh đậm, vị chua
thanh của chanh và hòa hợp tất cả lại là nước phở dùng được nấu từ xương…
- Bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể. Người Việt Nam sử dụng thức ăn như là
các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là
do cơ thể bị mất quân bình âm dương, thức ăn chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân
bình âm dương ấy, giúp cơ thể khỏi bệnh. Chỉ trong một bát phở, nếu người bệnh ốm do
quá âm thì đã có gừng là loại thực phẩm dương, ngược lại nếu người bệnh ốm do quá
dương thì đã có các loại rau là loại thực phẩm mang tính âm.
- Bảo đảm sự quân bình âm dương giữa con người và môi trường. Việt Nam nằm trong
vùng nhiệt đới gió mùa nên có khí hậu nóng ( nhiệt - hành hỏa), vì vậy , phở là loại thức
ăn có nước (âm – hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải
nhiệt.
Phở thường ăn kèm rau mùi, rau húng, hành hoa, giá mùa nào thức ấy; bát chắm tương ớt
lẫn tương đen làm tăng thêm vị giác.
Sự đa dạng của Phở ra đời trong hoàn cảnh lệnh cấm giết trâu, bò được ban hành. Bởi
nền kinh tế đất nước lúc bấy giờ là nền nông nghiệp trồng lúa nước; trâu, bò là công cụ

sản xuất đắc lực, và mất một khoảng thời gian rất lâu để nuôi đến tuổi sản xuất. Lệnh cấm
nhầm hạn chế giết mổ trâu, bò để đảm bảo sự phát triển nền kinh tế lúc bấy giờ. Mà Phở
là món ăn quen thuộc của người Bắc nên họ đã tìm cách kết hợp với các loại thịt khác
nhau để rồi ra đời Phở gà, Phở heo,…
Ăn Phở cùng quẩy chỉ mới xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây và được giới trẻ ưa
chuộng. Sợi Phở quá mềm giới trẻ không chuộng, trong khi đó quẩy miền Bắc làm từ bột

25


×