Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Câu hỏi môn kinh tế chính trị CCLL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.76 KB, 30 trang )

KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: Sản xuất hàng hoá và các quy luật sản xuất hàng hoá? Liên hệ và nghiên
cứu về mô hình nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được sản xuất ra không
phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên hai điều kiện:
Thứ nhất, phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao
động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau nên việc trao đổi sản phẩm
trở thành tất yếu, phụ thuộc vào sản phẩm của nhau, do đó buộc phải trao đổi với nhau.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: những
người SX trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra
thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động
của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá. Đó là hai điều kiện cần và đủ
của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa.
Các quy luật của sản xuất hàng hóa
- Quy luật giá trị: Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá vì nó
quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản xuất
hàng hóa, được thể hiện:
+ Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức trên cơ sở hao
phí lao động xã hội cần thiết.
+ Trong sản xuất, quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí
sức lao động cá biệt của mình phải phù hợp với mức hao phí sức lao động xã hội cần thiết,
có như vậy họ mới có thể tồn tại được.
+ Trong trao đổi, hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng
hoá trao đổi được với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau, hoặc trao đổi,
mua bán hàng hoá phải thực hiện với giá cả bằng giá trị.
+ Cơ chế tác động của quy luật giá trị được thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng
giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Tác động điều tiết lưu thông
hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn
đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân


bằng nhất định, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ
giá thành sản phẩm và phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo. Đây
cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp
để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Quy luật cạnh tranh: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh giữa những người
sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là một tất yếu khách quan, là yêu
cầu thường xuyên đối với những người sản xuất hàng hóa, cụ thể:
+ Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng
hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng
hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.


+ Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng, hoặc giữa người
tiêu dùng với người tiêu dùng; giữa người sản xuất với người sản xuất..
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở cạnh tranh
không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm
thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích của tập thể, XH, cộng đồng…
- Quy luật cung cầu:
+ Cầu được hiểu là nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội về một loại hàng hoá
hay dịch vụ nào đó trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất định .
+ Cầu có liên quan đến nhu cầu nhưng không đồng nhất với nhu cầu. Quy mô của cầu
phụ thuộc vào các yếu tố: thu nhập, sức mua của đồng tiền, giá cả hàng hóa, lãi suất, thị hiếu
của người tiêu dùng...trong đó, giá cả là yếu tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
+ Cung về một loại hàng hoá hay dịch vụ là tổng số hàng hóa hay dịch vụ đó mà các
chủ thể kinh tế đưa ra bán trên thị trường ở các mức giá trong một khoảng thời gian nhất
đinh, bao gồm cả hàng hoá hoá bán được và hàng hoá chưa bán được.

* Cung và cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cầu xác định cung và ngược lại,
cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về hàng hóa. Cung tác động
đến cầu, kích cầu.
* Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
* Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị
* Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị
Đó là cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế hàng hóa; là quy luật cung cầu.
- Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát:
+ Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định lượng tiền cần thiết cho lưu thông
hàng hóa trong một thời kỳ nhất định.
+ Lạm phát: Là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ, đồng tiền bị mất giá vì tiền giấy
không thực hiện được chức năng là phương tiện cất trữ.
Nghiên cứu mô hình kinh tế thị trường ở Việt nam: Trên tinh thần đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế và trên cơ sở tổng kết những thành công, yếu kém, khuyết điểm
và bài học kinh nghiệm trong những bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác
định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở VN. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại
là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên nền tảng sở hữu hỗn hợp của
các chủ thể thị trường. Trong nền kinh tế này, sở hữu hỗn hợp dựa trên chế độ cổ phần phải
chiếm ưu thế phổ biến. Bởi vì, sở hữu hỗn hợp chiếm ưu thế phổ biến là kết quả xã hội hóa
sản xuất và xã hội hóa sở hữu ở trình độ cao do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất,
khoa học, công nghệ và trình độ quản lý. Hình thức sở hữu này đang ngày càng phát triển,
từng bước vượt qua biên giới của một quốc gia và gắn liền với sự phát triển mạnh của các
công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên những thành tựu của khoa học,
công nghệ hiện đại và kinh tế tri thức - một trong những nhân tố quyết định trực tiếp đến sự
giàu mạnh, văn minh của mọi quốc gia.

2


Thứ ba, nền kinh tế thị trường hiện đại phải có cơ cấu, trong đó những lĩnh vực sau
phải hiện đại, đó là: công nghiệp - thị trường, hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ
cao cấp (đặc biệt là dịch vụ tài chính và ngân hàng). Ngoài ra, nông nghiệp và nông thôn về
cơ bản phải được phát triển trên nền tảng công nghiệp và thị trường hiện đại; kinh tế tiền tệ
và kinh doanh tiền tệ là phổ biến, được vận hành bởi thể chế tiền tệ hiện đại với sự độc lập
của Ngân hàng Trung ương; doanh nghiệp cổ phần có chế độ quản trị hiện đại.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, làm
chủ được khoa học và công nghệ với trình độ quản lý hiện đại.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường hiện đại được vận hành bởi thể chế thị trường, thể chế
quản lý nhà nước và chế độ quản trị công ty hiện đại.
Thứ sáu, nền kinh tế thị trường hiện đại phải dựa trên hệ thống an sinh xã hội hiện đại
và một hệ thống phúc lợi vì mục tiêu phát triển con người.
……………………

3


Câu 2. Hàng hoá và sản xuất hàng hoá. Liên hệ và nghiên cứu về cơ chế thị
trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
1- Hàng hoá: Là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có thể hữu hình hoặc vô hình.
* Hai thuộc tính của hàng hoá : Có 2 thuộc tính: Gía trị sử dụng và giá trị
- Giá trị sử dụng: Là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó
của con người (nhu cầu trực tiếp như ăn, mặc, ở, phương tiện, các tư liệu sản xuất…).
- Giá trị trao đổi: là quan hệ tỷ lệ về lượng mà những giá trị sử dụng này đổi lấy
những giá trị sử dụng khác. Là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị.
Mối quan hệ giữa hai thuộc tính: Hai thuộc tính của hàng hoá có quan hệ chặt chẽ vừa

mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau.
- Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng tồn tại ở một sự vật
- Mặt mâu thuẫn: Gía trị sử dụng dành cho người tiêu dùng; GT dành cho người SX
* Ưu thế của sản xuất hàng hoá
* Ưu thế
- Xoá bỏ tính tự cung tự cấp, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển
- Kích thích tính năng động sáng tạo của người lao động
- Tạo điều kiện ứng dụng những thành tựu KHKT để tăng năng suất lao động
- Mở rộng giao lưu kinh tế- văn hoá→mở rộng thị trường
* Hạn chế
- Phân hoá giàu nghèo
- Tiềm ẩn khủng hoảng kinh tế-chính trị
- Phá hoại môi trường sinh thái
2. Sản xuất hàng hoá: Xem câu 1 phần sản xuất hàng hóa
3. Liên hệ và nghiên cứu về cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng lý luận về hàng hoá và sản xuất hàng hoá của
C.Mác vào thực tiễn phát triển của đất nước. Trước kia, do chủ quan nóng vội sai lầm mà
nước ta đã xoá bỏ nền kinh tế thị trường,xoá bỏ các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế
theo cơ chế quan liêu bao cấp. Sau 1986, chúng ta tiến hành đổi mới với chủ trương cơ bản
là xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, phát triển KT thị trường với nhiều thành phần kinh tế
dưới sự quản lý của NN.
- Việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu, hợp quy luật : Nhà nước
còn tồn tại những điều kiện của việc phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là cần
thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt là
trong điều kiện ngày nay.
- Bản chất của nền KTTT ở VN được khẳng định ở Đại hội XI : Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của NN, dưới sự lãnh đạo của Đảng
CSVN ...

- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất lớn, Nhà nước quản lý kinh
tế, định hướng điều tiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch chính sách và lực lượng vật chất
4


- Thực tiễn trong những năm qua đã chứng tỏ rằng, chủ trương xây dựng nền KT hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của NN theo định
hướng XHCN ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể, tạo được thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài cho đất nước. Bên cạnh đó, chúng ta
còn có những hạn chế: hệ thống chính trị chưa đồng bộ, kinh tế còn kém phát triển so với
các nước khu vực và trên thế giới; KT phát triển chưa bền vững; Môi trường bị ô nhiễm
- Những giải pháp :
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ứng dụng nhanh thành tựu khoa
học tiên tiến, đẩy mạnh phân công lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng
suất lao đôn xã hội
+ Cải tạo nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
+ Đào tạo nguồn nhân lực hợp lý
- Xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, không ngừng đổi mới cơ chế chính sách phù
hợp với yêu cầu thực tiễn
- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển
- Học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới.
..................

5


Câu 3: Học thuyết giá trị thặng dư của Mác và ý nghĩa lịch sử và thời đại của học thuyết. Liên hệ
và nghiên cứu về vấn đề bóc lột trong nền KTTT hiện nay ở Việt Nam và biểu hiện mới về sản xuất giá

trị thặng dư trong nền kinh tế tri thức?
1- Học thuyết giá trị thặng dư của Mác : Học thuyết giá trị thặng dư là phát minh quan
trọng thứ hai sau CN duy vật lịch sử của C. Mác. Nội dung chính của học thuyết phát biểu
rằng SX và chiếm hữu giá trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong CNTB về SX và chiếm
hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha hóa con người đối với hoạt
động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó, đối với chính mình, đối với người khác.
Trong học thuyết này C.Mác đưa ra công thức T-H-T’ (tiền-hàng hóa-tiền) để minh
họa cho sự biến đổi của vốn tư bản dạng tiền sang dạng hàng hóa và cuối cùng quay trở lại
dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT (nghĩa là T’=T+ ΔT). Bởi tất cả giá trị
được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động, mà chủ
yếu là lao động của người làm thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết
tinh. Tuy nhiên, giá trị này không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó, mà
thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản. Khác với công thức H-T-H phản ánh chức năng trung
gian của tiền trong trao đổi, công thức T-H-T’ phản ánh sự luân chuyển và tự phát triển của
tư bản. Tư bản dưới dạng tiền trở thành một chủ thể tự thân, đối lập với sức lao động, bóc
lột sức lao động để nuôi lớn mình lên.
Theo công thức đã dẫn thì tư bản có khả năng lớn lên vô giới hạn. Tuy nhiên Marx
cũng chỉ ra giới hạn nhất định của phát triển tư bản do chi phối của quy luật lợi nhuận trung
bình. Lợi nhuận trung bình xảy ra do sự cạnh tranh tư bản giữa các ngành kinh tế khác nhau.
Mặc khác, do khả năng chi trả trong thị trường cho nhu cầu tiêu dùng là có hạn, nên điều đó
cũng kìm hãm tốc độ vận động của tư bản.
Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản vay lãi
có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến thành T-T’.
Giá trị thặng dư được C.Mác xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền
nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu
sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến.
Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến
mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng
của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức
chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.

2- Ý nghĩa lịch sử và thời đại của học thuyết giá trị thặng dư:
* Ý nghĩa lịch sử: Nó vạch ra động cơ, mục đích và kết quả vận động của tư bản. Nó
vạch trần bản chất bóc lột tinh vi của GCTS đối với GCCN và mâu thuẫn đối kháng giữa 2
giai cấp đó. Do đó, học thuyết giá trị thặng dư là vũ khí tư tưởng sắc bén của GCCN trong
cuộc đấu tranh với GCTS. Phục vụ cho phòng trào công nhân đương thời.
Học thuyết giá trị thặng dư cũng quy định tính chất lịch sử quá độ của CNTB, nghĩa là
quy định sự ra đời, phát triển của CNTB và tính tất yếu của sự quá độ lên phương thức sản
xuất mới cao hơn.
Trong học thuyết giá trị thặng dư, Mác còn vạch ra quá trình phát triển có tính quy luật
của CNTB trong công nghiệp, qua 3 giai đoạn: từ hiệp tác giản đơn lên phân công công
trường thủ công rồi lên đại công nghiệp cơ khí. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
có thể vận dụng vào công cuộc xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
6


* Ý nghĩa thời đại: Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong điều kiện kinh tế tri
thức ở các nước tư bản phát triển, vẫn không lỗi thời, được thể hiện:
- Kinh tế tri thức lấy tri thức làm cơ sở không làm thay đổi nguồn gốc của GTTD (m).
- Ở mọi thời đại phải coi trọng tăng năng suất lao động
- Phải phát triển mạnh LLSX, phải đẩy mạnh CNH-HĐH
- Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển. Phát triển giáo
dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.
3- Vấn đề bọc lột trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam và biểu hiện
mới về sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế tri thức
- Vấn đề bọc lột trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở VN: Từ việc nghiên cứu học
thuyết giá trị thặng dư của Mác, chúng ta thấy rõ một số vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển
kinh tế thị trường hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta hiện nay, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận gíao điều và xơ
cứng cũ. Càng phát triển nền KT nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ chừng nào quan hệ

bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức SX và thúc đẩy LLSX phát triển, thì chừng đó chúng
ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền KT thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, mọi
phuơng án tìm cách định hướng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong
việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng
lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục
hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và NN mỗi khi được thể chế hóa thành luật làm công cụ và cơ
sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp
hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh. Trong nhận thức, quan điểm
chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp
pháp. Trong quản lý xã hội phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp
để, một mặt chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua
nhà nước và các “kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Đây là một hướng tiếp
cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về
quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong môt giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải
phóng sức sản xuất, tạo động lực PT KT và chủ động hội nhập với nền KT quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn
giới chủ sử dụng lao động bằng pháp luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới đảm bảo công
khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động
là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh được những xung đột
không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ
mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được pháp luật bảo vệ, của
tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý
quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho
cả qúa trình hoàn thiện và xây dựng mô hình KT TT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Biểu hiện mới về giá trị thặng dư trong nền kinh tế tri thức: Xu hướng chuyển từ
một nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức đã xuất hiện và đang từng
bước trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong động thái phát triển kinh tế của nền kinh tế thế giới.
7



Nền KT tri thức là nền KT trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở
thành yếu tố quyết định nhất đối với sự PTKT, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định
của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở
thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ
thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng
cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng,
quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Liên hệ về chất xám tạo ra giá trị thặng dư hiện nay qua 2 phương thức của giá trị
thặng dư….
…………………….

8


Câu 4: Tích lũy tư bản và tái sản xuất xã hội? Liên hệ và nghiên cứu vấn đề về tích
tụ và tập trung các nguồn lực phát triển ở Việt Nam hiện nay? Những vấn đề tái sản
xuất xã hội hiện nay ở Việt Nam?
1- Tích lũy tư bản và tái sản xuất xã hội:
* Tích lũy tư bản: Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay chuyển hóa giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản. Thực chất của tích lũy tư bản là biến giá
trị thặng dư thành tư bản hay tư bản hóa giá trị thặng dư.
Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng; phát triển một bộ
phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc biến giá trị thặng dư trở lại tư bản gọi là
tích lũy tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
* Tái sản xuất xã hội là khái niệm trong kinh tế chính trị Mac-Lenin chỉ về quá trình
sản xuất được lặp đi lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng, được diễn ra trên tổng

thể những tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ với nhau.
Tái sản xuất, có thể chia thành hai mức độ là tái sản xuất giản đơn và mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn: Là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Đây là
đặc trưng chủ yếu của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng: là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước và
là đặc trưng chủ yếu của nền sản xuất lớn.
Theo kinh tế chính trị Mác-Lênin thi lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy
việc chuyển từ tái sản xuất giản đơn sang tái sản xuất mở rộng là quá trình lâu dài gắn liền
với quá trình chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn.
- Tái sản xuất xã hội gồm các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Trong
mối quan hệ giữa các khâu thì sản xuất là gốc, có vai trò quyết định và tiêu dùng là mục
đích, là động lực của sản xuất còn phân phối và trao đổi là những khâu trung gian nối sản
xuất với tiêu dùng, có tác động đến cả sản xuất và tiêu dùng
Sản xuất là khâu đầu tiên, trực tiếp tạo ra sản phẩm, giữ vai trò quyết định đối với các
khâu khác.
Phân phối và trao đổi vừa là khâu trung gian, là cầu nối sản xuất với tiêu dùng, vừa có
tính độc lập tương đối với sản xuất và tiêu dùng, vừa có tính độc lập tương đối với nhau.
Trao đổi bao gồm trao đổi hoạt động thực hiện trong quá trình sản xuất và trao đổi sản
phẩm xã hội.
Tiêu dùng là khâu cuối cùng, là điểm kết thúc của một quá trình tái sản xuất. Tiêu
dùng là mục đích của sản xuất, tạo ra nhu cầu cho sản xuất. Tiêu dùng là một trong những
căn cứ quan trọng để xác định khối lượng, cơ cấu, chất lượng, hình thức sản phẩm.
- Tái sản xuất của cải vật chất: Là việc sản xuất lại các của cải vật chất mà đã bị tiêu
hao, hao hụt do quá trình tiêu dùng của con người hay mất mát vì các lý do khác nhau
(Trong tái sản xuất của cải vật chất thì tái sản xuất ra tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định
đối với tái sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, nhưng tái sản xuất ra tư liệu tiêu dùng lại có ý
nghĩa quyết định để tái SX sức lao động của con người, lực lượng SX hàng đầu của XH).
- Tái sản xuất sức lao động: Sức lao động xã hội cũng không ngừng được tái tạo. Tái
sản xuất mở rộng sức lao động về mặt chất lượng thể hiện ở sự tăng lên về thể lực và trí tuệ
của người lao động qua các chu kỳ sản xuất (Tái sản xuất sức lao động về mặt số lượng chịu

sự chi phối của nhiều điều kiện khác nhau, trước hết là của về mặt nhân khẩu, theo đó tái
SX phải đảm bảo sự phù hợp giữa nhu cầu và khả năng cung ứng sức lao động của quá
9


trình tái sản xuất xã hội, nó chịu sự chi phối của các nhân tố chủ yếu như tốc độ tăng dân số
và lao động, xu hướng thay đổi công nghệ, cơ cấu, số lượng và tính chất của lao động)
Tái sản xuất quan hệ SX: Quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động gắn
liền với tái sản xuất quan hệ SX. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, quan hệ SX được tái hiện.
Tái sản xuất môi trường sinh thái: Tái sản xuất môi trường sinh thái là sự khôi phục
các nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh và là điều kiện tất yếu của mọi quốc gia.
- Hiệu quả: Hiệu quả của tái sản xuất xã hội là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự tiến
bộ KT-XH, có ý nghĩa quan trọng của nền sản xuất xã hội ở các thời đại khác nhau trong
lịch sử. Về mặt kinh tế, hiệu quả của tái sản xuất XH có thể tính bằng hiệu quả tương đối
hoặc hiệu quả tuyệt đối (Hiệu quả tương đối của tái sản xuất XH là tỷ số tính theo phần
trăm giữa kết quả sản xuất mà xã hội nhận được với toàn bộ lao động xã hội đã bỏ ra. Hiệu
quả tuyệt đối của tái sản xuất XH là hiệu số giữa kết quả sản xuất XH và chi phí lao động xã
hội)
* Vấn đề về tích tụ và tập trung các nguồn lực phát triển ở Việt Nam hiện nay:
Nền kinh tế khi ở trình độ phát triển chưa cao, nếu chỉ quan tâm tới tốc độ tăng
trưởng, sẽ phải tiêu phí nhiều nguồn lực. Nguồn lực quốc gia chỉ là hữu hạn, vì vậy sử dụng
các nguồn lực hợp lý, có hiệu quả là vấn đề phải giải quyết gay gắt.
Cơ hội tăng trưởng theo chiều rộng như lâu nay của VN khó có thể tiếp tục. Bởi thế,
nhu cầu đổi mới và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế được đặt ra cấp thiết mà bản chất của tiến
trình này chính là phân bổ hợp lý và hiệu quả các nguồn lực và của cải của nền kinh tế.
Lâu nay, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng,
vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, trình độ công nghệ thấp, tiêu hao vật
chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Cũng bởi thế, nguồn lực của đất nước
chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của NN còn bị
lãng phí, thất thoát. Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy.

Đóng góp của ngành công nghệ cao trong tổng giá trị tăng thêm của toàn bộ ngành
công nghiệp vẫn còn rất thấp và hầu như không thay đổi. Thực tế đó cho thấy công nghiệp
của nước ta vẫn chủ yếu dựa vào các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ thấp.
Hiện nay, khi mà lực lượng lao động VN mới chỉ có lợi thế về lượng, còn chất vẫn là
điều thiếu hụt thì đây là cơ hội đồng thời là sức ép cần phải có các chính sách tạo nên một
lực lượng lao động vàng, có chất lượng đưa đất nước phát triển.
Về khuyến khích và thu hút đầu tư, bằng cách giảm thuế, ưu đãi về đất đai, tài nguyên
thiên nhiên cho các nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, nhiều địa phương đã cạnh tranh
nhau theo kiểu “cùng nhau về đáy” gây thiệt hại cho kinh tế địa phương mà cả lợi ích chung
của đất nước.
Áp lực luôn phải huy động thêm khiến vốn đầu tư xã hội được huy động vượt xa tỷ lệ
tiết kiệm nội địa. Và sự mất cân đối giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư là nguyên nhân quan
trọng làm cho các cân đối lớn của nền kinh tế chưa được vững chắc, gia tăng thêm sự phụ
thuộc với bên ngoài.
* Vấn đề tái sản xuất xã hội hiện nay ở Việt Nam:
Để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất thúc đẩy nền KT tăng trưởng và có hiệu quả trong
điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần NN cần phải tiến hành đồng bộ những biện
pháp vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển cụ thể là:
- Xác lập, củng cố và nâng cao đị vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội. Thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
10


- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào
kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
- Phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ
phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dâ cư.
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của NN. Khắc phục, ngăn ngừa hạn chế những

tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước
pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần KT
- Từng bước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trước hết là hệ thống luật
kinh tế để tạo lập môi trường pháp lý cho các thành phần KT được bình đẳng và tự do kinh
doanh trong phạm vi luật định.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phát triển lực lượng sản xuất tranh thủ những tiến
bộ của khoa học - kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất phát triển xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng, trước tiên là giao thông vận tải và thông tin để tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật để
quan hệ sản xuất mới ngày càng củng cố và phát triển đảm bảo định hướng XHCN.
- Hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế đảm bảo giải quyết tốt các mối quan hệ về lợi
ích kinh tế giữa người lao động, doanh nghiệp Nhà nước.
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý KT và công nhân lành
nghề, những nhà doanh nghiệp giỏi, đáp ứng được yêu cầu của mọi thành phần kinh tế.
- Tổ chức phân công lại lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất theo hưởng chuyên môn
hoá, hợp tác hoá, đa dạng hoá, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
người lao động.
…………………….

11


Câu 5: Tích lũy tư bản và quy luật chung của tích lũy tư bản, tích tụ, tập trung
tư bản? Liên hệ và nghiên cứu vấn đề tích tụ và tập trung các nguồn lực phát triển ở
Việt Nam hiện nay?
* Tích lũy tư bản: Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay chuyển hóa giá trị
thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản (Thực chất của tích lũy tư bản là biến giá
trị thặng dư thành tư bản hay tư bản hóa giá trị thặng dư).
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị
thặng dư.
- Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách liên kết hay

sát nhập những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.
Quá trình tích lũy là quá trình là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng
tăng:
- Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường tích tụ tư bản và tập
trung tư bản.
- Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quy mô của tư bản cá
biệt, nhưng khác nhau về biện pháp thực hiện. Tích tụ tư bản làm cho tư bản xã hội cũng
tăng lên, còn tập trung tư bản không làm tăng tư bản xã hội.
- Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau, sự
khác biệt này không chỉ về chất mà còn khác nhau về lượng.
- Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội nhưng có vai trò rất lớn
trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN và quá trình CNTB từ giai đoạn
thấp lên giai đoạn cao.
Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản: Quy mô của
tư bản mà tăng lên thì cấu tạo của tư bản cũng có sự biến đổi. Mác phân biệt cấu tạo kỹ
thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: Là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức
lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất.
- Quan hệ này có tích tất yếu về mặt kỹ thuật, do trình độ PT của LLSX quyết định.
- Cấu tạo kỹ thuật phản ánh trình độ phát triển của LLSX xã hội. Cấu tạo kỹ thuật của
tư bản ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của CNTB.
Cấu tạo giá trị của tư bản: Là tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và tư bản
khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có
quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn
đến những thay đổi trong cấu tạo giá trị tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản: Là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư
bản quyết định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên là một quy luật kinh tế của CNTB. Trong quá
trình phát triển của CNTB, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, do đó cấu tạo giá trị
của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư bản cũng tăng, và do đó, cấu tạo hữu cơ của tư

bản cũng ngày càng tăng lên.
- Việc nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản còn do yêu cầu của quy luật giá trị thặng dư
và quy luật cạnh tranh chi phối.
Hậu quả xã hội của tích lũy tư bản:
- Quá trình tích lũy tư bản tất yếu gây ra nạn thất nghiệp, Mác gọi là nạn nhân khẩu
thừa tương đối. Có 3 hình thức tồn tại của nhân khẩu thừa:
12


+ Nhân khẩu thừa lưu động là hình thức thất nghiệp tạm thời, phổ biến ở các trung
tâm công nghiệp. Tính chất lưu động của nó thể hiện ở chỗ công nhân bị thải nơi này, lúc
này thì lại được nhận vào làm việc nơi khác, lúc khác.
+ Nhân khẩu thừa tiềm tàng là những người nông dân không tìm được việc làm trong
công nghiệp.
+ Nhân khẩu thừa ngưng trệ bao gồm những người thường xuyên mất việc làm, sống
nay đây mai đó, thu nhập rất thấp…
- Sự bần cùng hóa của gai cấp vô sản: Biểu hiện dưới hai hình thức bần cung hóa
tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
Như vậy, tích lũy tư bản là một quá trình tập trung của cải về phía giai cấp tư sản,
mặt khác lại tích lũy sự thất nghiệp và bần cùng về phía giai cấp vô sản. Đó là quy luật
chung của tích lũy tư bản.
Liên hệ và nghiên cứu vấn đề tích tụ và tập trung các nguồn lực PT ở VN hiện nay?
- Từ bài học của những quốc gia phát triển trên thế giới và thực tiễn cách mạng Việt
Nam khẳng định tích tụ và tập trung vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước cũng như đối với SX kinh doanh của nền kinh tế.
- VN muốn đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH dân chủ, công bằng, văn
minh, thì phải tích tụ và tập trung vốn với tỷ lệ cao để tiến hành quá trình CNH, HĐH đất
nước.
- Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ ra rằng đến năm 2020 VN phải hoàn thành
nhiệm vụ CNH, HĐH, cải biến nước ta từ một nước NN lạc hậu thành một nước CN.

- Vấn đề huy động vốn cho quá trình CNH, HĐH có ý nghĩa quan trọng đối với nền
KT nước ta. Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền KT trong nước, đây là nguồn
vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng xuất lao động XH một cách liên
tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết
giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn còn
được tạo ra thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần, thông qua việc huy
động các khoản tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở KT, các tổ chức đoàn thể, thông qua
các khoản thuế nộp ngân sách nhà nước…

13


Câu 6: Giá trị thặng dư, lợi nhuận và quy luật giá trị thặng dư? Liên hệ và
nghiên cứu về vấn đề bóc lột trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và biểu hiện mới
về sản xuất giá trị thặng dự trong nền kinh tế tri thức?
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê
tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Thực chất của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là
quá trình sản xuất vượt qua một điểm ngưỡng mà ở đó người công nhân tạo ra một lượng giá
trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân họ, điều đó chỉ thực hiện được khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một trình độ nhất định, năng suất lao động đạt đến một trình độ nhất định
để người công nhân chỉ cần một phần của ngày lao động đã tạo ra sản phẩm đủ nuôi sống
mình: Giá trị mới tạo ra = giá trị sức lao động + giá trị thặng dư (m)
Gồm có 2 phương thức sản xuất giá trị thặng dư:
- Giá trị thặng dự tuyệt đối: Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao
động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi gọi là GT thặng dư tuyệt đối.
- Sản xuất giá trị thặng dự tương đối: Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn
thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư gọi là giá trị thặng dư tương đối.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch: là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị
cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của nó (được tạo ra trong quá trình lưu thông).

Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư khi nó được quan niệm là con
đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước (Do giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa luôn có 1 khoản chênh lệch nhau về lượng và ngang bằng với giá trị thặng dư, cho
nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản không những thu về lượng tiền để bù đắp số tư bản đã
chi phí, mà còn thu thêm được một số tiền lớn ngang bằng với giá trị thặng dư).
Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản:
- Quy luật giá trị thặng dư nói lên phương tiện, mục đích để đạt được mục đích đó
(mục đích là sản xuất giá trị thặng dư, phương tiện bóc lột giá trị thặng dư bằng cả 2 phương
pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối)
- Sản xuất giá trị thặng dư là động lực bên trong của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Quy luật giá trị thặng dư quyết định sự ra đời và sự thay thế của chủ nghĩa tư bản.
- Quy luật giá trị thặng dư chi phối tất cả các quy luật khác.
Nội dung quy luật: Sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản trên cơ
sở tăng cường bóc lột lao động làm thuê.
Liên hệ và nghiên cứu về vấn đề bóc lột trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
và biểu hiện mới về sản xuất giá trị thặng dự trong nền kinh tế tri thức?
- Vấn đề bọc lột trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở VN: Trong học thuyết về giá
trị thặng dư, Mác đã có một nhận định có tính chất dự khoa học trong XH hiện nay, đó là:
Mục đích thường xuyên của nền sản xuất TBCN là làm thế nào để với một tư bản ứng trước
tối thiểu, SX ra một GT thặng dư hay sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư
tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức cuả
những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện
vọng muốn SX ra một khuynh hướng KT của tư bản cho loài người biết chi phí sức lực của
mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu.
Từ việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của Mác, chúng ta thấy rõ một số vấn
đề lớn trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay của đất nước.
14


Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta hiện nay, trong một chừng mực nào

đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận gíao điều và xơ
cứng cũ. Càng phát triển nền KT nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ chừng nào quan hệ
bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức SX và thúc đẩy LLSX phát triển, thì chừng đó chúng
ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền KT thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, mọi
phương án tìm cách định hướng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong
việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng
lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục
hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng pháp luật. Đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và NN mỗi khi được thể chế hóa thành luật làm công cụ và cơ
sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp
hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên
coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong
quản lý xã hội phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt
chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua nhà nước và
các “kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc
lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột,
cũng như việc vận dụng nó trong môt giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản
xuất, tạo động lực PT KT và chủ động hội nhập với nền KT quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn
giới chủ sử dụng lao động bằng pháp luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới đảm bảo công
khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động
là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh được những xung đột
không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ
mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được pháp luật bảo vệ, của
tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý
quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho
cả quaá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình KT TT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Biểu hiện mới về giá trị thặng dư trong nền kinh tế tri thức: Xu hướng chuyển từ

một nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức đã xuất hiện và đang từng
bước trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong động thái phát triển kinh tế của nền kinh tế thế giới,
Nền KT tri thức là nền KT trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở
thành yếu tố quyết định nhất đối với sự PTKT, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống".
Kinh tế tri thức là lực lượng sản xuất của thế kỷ 21. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
là thị trường chất xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định
của sản xuất, sáng tạo đổi mới là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở
thành nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ
thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng
cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải làm chủ được tri thức, phải biết vận dụng,
quản lý tri thức mới có thể cạnh tranh và đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Liên hệ về chất xám tạo ra giá trị thặng dư hiện nay qua 2 phương thức của giá trị
thặng dư.
15


Câu 7: CNTB độc quyền và các biểu hiện kinh tế cơ bản của nó? Chứng minh
tiềm năng PT hiện nay của CNTB? Các bài học nghiên cứu về CNTB đương đại
CNTB độc quyền: xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu TK XX do sự PT của lực lượng
SX dưới tác động của tiến bộ KHKT đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung SX, hình thành
các xí nghiệp có quy mô lớn; mặt khác, cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tăng
năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển SX lớn. Sự PT của hệ
thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung SX, nhất là
việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
Năm biểu hiện kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Một là, tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là
biểu hiện kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Sự liên minh giữa các nhà tư bản
lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó
nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao (Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền

hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những
doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức
độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau).
Hai là, tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính: Cùng với quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng,
dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng làm thay đổi quan hệ giữa tư bản
ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới khống chế mọi
hoạt động của nền KT-XH tư bản. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân
hàng làm nảy sinh tư bản tài chính. Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành
một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn XH tư bản
gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Thống trị về KT là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về
chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của
các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng.
Ba là, xuất khẩu tư bản là biểu hiện KT của CN tư bản độc quyền. Việc xuất khẩu tư
bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để
bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.
Bốn là, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền: Quá trình tích tụ
và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất
yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình
thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Năm là, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc: Sự phân chia
lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi
chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất 1914-1918 và lần thứ hai 1939-1945.
Năm biểu hiện kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau,
nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
Chứng minh tiềm năng phát triển hiện nay của CNTB: Từ đầu thập niên 80 thế kỷ
XX đến nay, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa thúc đẩy chủ nghĩa tư
bản hiện đại chuyển sang giai đoạn độc quyền quốc tế. Nó triệt để tận dụng ưu thế về thực

lực mọi mặt nhằm bành trướng thế lực trên quy mô toàn cầu với mục đích cố hữu là thu lợi
nhuận độc quyền cao và nó được biểu hiện như sau:
16


- Làn sóng tư bản hóa lan khắp toàn cầu, đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh sang giai
đoạn lũng đoạn quốc tế và toàn cầu.
- Kinh tế thị trường hóa lan ra toàn cầu, các nước phương Tây ra sức hoàn thiện cơ
chế KT thị trường, các nước khác đua nhau xác lập nền kinh tế thị trường. CNTB còn khả
năng PTKT - xã hội, nhất là chuyển sản xuất sang chiều sâu như hiện nay. Sở hữu tư nhân,
lợi ích tư nhân vẫn còn là động lực lâu dài của phát triển kinh tế nói chung trong CNTB.
- Trong tiến trình tự do hóa kinh tế thì tự do hóa tài chính được chú ý nhất, trở thành
đòn bẩy để tư bản lũng đoạn quốc tế khống chế kinh tế toàn cầu. CNTB tạo ra được nền kinh
tế tri thức, chuyển mạnh được sản xuất ở trình độ cơ khí sang tin học hóa và từ đây quá trình
toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển.
- Nhất thể hóa toàn cầu nhằm thống nhất toàn cầu của tư bản về thể chế kinh tế, chính
trị và văn hóa.
- CNTB thực hiện được một bước phát triển thì cũng tạo ra những gì không đúng với
chính nó. Từ góc nhìn này, CNTB hiện đại thực sự là "chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư
bản", là "chủ nghĩa tư bản hướng tới hậu tư bản, phi tư bản".
Các bài học nghiên cứu về CNTB đương đại: Trong xã hội tư bản ngày nay, CNTB
ngày nay có thực sự là CNTB hay không? Quy luật giá trị thặng dư có còn là quy luật tuyệt
đối của xã hội tư bản hiện đại hay không? Cần phân tích hết sức khách quan trên cả ba mặt
của quan hệ sản xuất: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.
- Khoa học ngày nay đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kinh tế hiện đại cũng
đang chuyển dần sang kinh tế tri thức. Vì vậy, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất không còn
đóng vai trò quan trọng như đã có trong các thế kỷ trước; sở hữu trí tuệ đã thay thế vai trò
của sở hữu tư liệu sản xuất trong việc đưa loài người tiến lên; chủ thể của sự phát triển và
tiến bộ khoa học là các nhà khoa học chứ không phải các ông chủ tư sản. Quan điểm trên là
hoàn toàn không đúng bởi lẽ, chừng nào xã hội hiện đại vẫn là chế độ tư bản thì mọi quyền

lực chi phối vẫn thuộc về giai cấp nào nắm giữ tư bản, đó là giai cấp tư sản chứ không có gì
thay đổi. Giai cấp tư sản vẫn là giai cấp thống trị và người công nhân vẫn chỉ là người làm
thuê cho ông chủ tư sản mà thôi.
- Ngày nay, công ty cổ phần đã trở thành phổ biến, không chỉ ở các công ty lớn, mà cả
ở các công ty vừa và nhỏ. Trong các công ty cổ phần không chỉ các nhà tư bản có cổ phần,
mà những người công nhân cũng có cổ phần. Trên thực tế, giai cấp tư sản vẫn là giai cấp bóc
lột, vẫn sống nhờ vào lao động làm thuê. Chỉ có khác là trong một công ty hiện đại, người ta
không thể biết được chính xác giá trị thặng dư do người công nhân nào sản xuất và nộp cho
ông chủ tư bản cụ thể nào.
- Ngày nay, với sự xuất hiện những nhà máy tự động hóa cao. Tuy nhiên, vẫn là quá
trình lao động đó, nhưng với tính chất lao động trừu tượng, người công nhân đã sáng tạo ra
một giá trị mới, trong đó có giá trị thặng dư. Như vậy, dù cho máy móc và các tư liệu lao
động có hiện đại, những nếu quá trình sản xuất không diễn ra thì giá trị thặng dư vẫn chỉ do
lao động sống của công nhân sản xuất chứ không phải do máy móc tạo ra.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể kết luận về hình thức quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa ngày nay đã có những biến đổi nhất định. Song về bản chất, quan hệ sản xuất
trong xã hội tư bản hiện đại vẫn không có gì thay đổi, vẫn là chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất mà thôi. Điều đó cũng có nghĩa quy luật giá trị thặng dư vẫn là
quy luật tuyệt đối của xã hội tư bản hiện đại./
17


Câu 8: CNTB độc quyền và ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này? Vai trò, xu hướng
vận động, biểu hiện mới của CNTB hiện đại và các bài học nghiên cứu về CNTB đương
đại ?
1- CNTB độc quyền là CNTB trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền KT
tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Bản chất: Xét về bản chất CNTB độc quyền là một nấc thang phát triển mới của
CNTB. Sự ra đời của CNTB độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của CNTB.
Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hình thái biến tướng của quy luật giá

trị thặng dư.
- Nguyên nhân hình thành CNTB độc quyền: CNTB độc quyền xuất hiện vào cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân sau:
+ Vào cuối thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất trong các nước TBCN có sự phát triển
mạnh mẽ, nhất là khi những phát minh khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, như:
phát minh, chế tạo các lò nấu thép hiện đại; động cơ điện; chế tạo xe hơi, máy bay…
+ Tác động của các quy luật kinh tế đối với CNTB. Dưới tác động của quy luật giá trị,
quy luật tích lũy tư bản, quy luật cạnh tranh, quá trình tích tụ sản xuất sẽ diễn ra liên tục
không ngừng do có sự phá sản của nhiều doanh nghiệp đi liền với sự phát triển của nhiều
doanh nghiệp khác trong quá trình cạnh tranh.
+ Do sự phát triển ngày càng mở rộng của hệ thống tín dụng TBCN đã trở thành đòn
bẩy mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế của CNTB năm 1873 và 1900. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm
cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản, những liên minh độc quyền ra đời.
2- Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này:
- Ý nghĩa lý luận: Hiểu sâu sắc những luận điểm của Lênin về CNTB độc quyền: Chủ
nghĩa đế quốc về bản chất là CNTB độc quyền; sự thống trị của CNTB độc quyền sẽ càng
làm cho CNTB trở thành chế độ ăn bám, mục nát, các mâu thuẫn ngày càng gay gắt và tất
yếu đi đến diệt vong, thay thế bằng một chế độ mới tốt đẹp hơn, đồng thời xác định thái độ
chính trị của giai cấp vô sản và chiến lược, sách lược cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa đế quốc,
đó là phải làm cách mạng vô sản lật đổ chế độ TBCN.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Nắm chắc quan điểm của Lênin về CN đế quốc, xác định rõ lập trường, không bao
giờ được mơ hồ về bản chất của CNTB, CN đế quốc.
+ Do tận dụng được thành tựu của cách mạng khoa học- công nghệ, CNTB có những
biểu hiện mới. Một mặt phải thấy đằng sau những biểu hiện mới đó, bản chất của CNTB độc
quyền không thay đổi; mặt khác nhà nước ta cũng cần có đường lối chính sách thích ứng, phù
hợp để khai thác những thuận lợi do điều kiện mới mang lại.
3- Vai trò:
- Phát triển lực lượng sản xuất: Quá trình phát triển của CNTB đã làm cho lực lượng

SX phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, từ kỹ thuật thủ
công lên kỹ thuật cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc
gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai
đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại, góp phần giải phóng sức lao động,
nâng cao hiệu quả, khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa
phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội
18


hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội,
sản xuất tập trung với qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc,
mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ...
- Thiết lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so
với thể chế chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ...vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó
được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.
- Chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành tựu và đóng góp của nó đối với sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
4- Xu hướng vận động và biểu hiện mới của CNTB hiện đại:
- Các nền kinh tế tư bản đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, với đặc trưng pát
triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Điều này mở ra triển vọng cho sự thúc đảy tiểm năng
kinh tế và con người lên tới mức độ cao hơn nữa, tạo cơ sở vật chất- kỹ thuật đầy đủ hơn cho
sự ra đời của xã hội cao hơn sau CNTB.
- Các nhà nước tư bản tích cực chủ động điều tiết kinh tế nhằm hạn chế những mâu
thuẫn nội tại trong xã hội và ổn định nền kinh tế vĩ mô. CNTB luôn điều chỉnh QHSX thích
ứng với sự phát triển ngày càng cao của LLSX trên quy mô quốc tế. Thực hiện cơ chế điều
chỉnh kinh tế toàn cầu, đó là phối hợp tối ưu của ba cơ chế: thị trường quốc tế, độc quyền
xuyên quốc gia và sự phối hợp của liên nhà nước.
5- Các bài học nghiên cứu về CNTB đương đại: Trong xã hội tư bản ngày nay,

CNTB ngày nay có thực sự là “CNTB xã hội” hay không? Quy luật giá trị thặng dư có còn là
quy luật tuyệt đối của XH tư bản hiện đại hay không? Cần phân tích hết sức khách quan trên
cả ba mặt của quan hệ SX: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm.
- Khoa học ngày nay đã trở thành LLSX trực tiếp, KT hiện đại cũng đang chuyển dần
sang KT tri thức. Vì vậy, vấn đề sở hữu tư liệu SX không còn đóng vai trò quan trọng như đã
có trong các thế kỷ trước; sở hữu trí tuệ đã thay thế vai trò của sở hữu tư liệu SX trong việc
đưa loài người tiến lên; chủ thể của sự phát triển và tiến bộ khoa học là các nhà khoa học
chứ không phải các ông chủ tư sản. Quan điểm trên là hoàn toàn không đúng bởi lẽ, chừng
nào xã hội hiện đại vẫn là chế độ tư bản thì mọi quyền lực chi phối vẫn thuộc về giai cấp nào
nắm giữ tư bản, đó là giai cấp tư sản chứ không có gì thay đổi. Giai cấp tư sản vẫn là giai
cấp thống trị và người công nhân vẫn chỉ là người làm thuê cho ông chủ tư sản mà thôi.
- Ngày nay, CTy CP đã trở thành phổ biến, không chỉ ở các CTy lớn, mà cả ở các CTy
vừa và nhỏ. Trong các CTy CP không chỉ các nhà tư bản có cổ phần, mà những người công
nhân cũng có cổ phần. Trên thực tế, giai cấp tư sản vẫn là giai cấp bóc lột, vẫn sống nhờ vào
lao động làm thuê. Chỉ có khác là trong một CTy hiện đại, người ta không thể biết được
chính xác giá trị thặng dư do người công nhân nào SX và nộp cho ông chủ tư bản cụ thể nào.
- Ngày nay, với sự xuất hiện những nhà máy tự động hóa cao. Tuy nhiên, vẫn là quá
trình lao động đó, nhưng với tính chất lao động trừu tượng, người công nhân đã sáng tạo ra
một giá trị mới, trong đó có giá trị thặng dư. Như vậy, dù cho máy móc và các tư liệu lao
động có hiện đại, những nếu quá trình sản xuất không diễn ra thì giá trị thặng dư vẫn chỉ do
lao động sống của công nhân sản xuất chứ không phải do máy móc tạo ra.
Từ những ptích trên chúng ta có thể kluận về hthức QHSX TBCN ngày nay đã có
những biến đổi nhất định. Song về bản chất, QHSX trong XHTB vẫn không có gì thay đổi,
vẫn là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất mà thôi. Điều đó cũng có
nghĩa quy luật giá trị thặng dư vẫn là quy luật tuyệt đối của xã hội tư bản hiện đại./
19


Câu 9. Quan hệ sở hữu dưới góc độ Mác-Lênin? Liên hệ và nghiên cứu về quan
hệ sở hữu hiện nay trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam?

1- Quan hệ sở hữu: Là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải
trong 1 hình thái kinh tế-xã hội nhất định, gắn liền với 1 tổ chức XH nhất định. Nó là hình
thức XH của chiếm hữu.
Chiếm hữu thể hiện quan hệ giữa con người với tự nhiên, nó gắn liền với nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người, nó là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau
của lịch sử nhân loại. Mặt khác, trong quá trình chiếm hữu, con người có quyền khác nhau
đối với của cải được tạo ra bởi hành vi chiếm hữu của họ.
Quan hệ sở hữu phản ánh mặt XH của chiếm hữu. vì TLSX là đối tượng sở hữu quan
trọng nhất nên trong quan hệ sở hữu thì sở hữu về TLSX giữ vai trò quyết định.
Quan hệ SH là phạm trù lịch sử, biến đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất XH
Quan hệ sở hữu và các quyền năng của nó được thể chế bằng hoạt động của Nhà nước
gọi là chế độ sở hữu.
- Vị trí, vai trò của Quan hệ sở hữu về TLSX:
+ Vị trí: Là phạm trù kinh tế, xuất phát cơ bản trong hệ thống quan hệ kinh tế, giữ vị
trí trung tâm, là cấu thành quan trọng nhất trong Quan hệ sản xuất của các chế độ KT-XH:
Quy định tính chất của Quan hệ sản xuất, bản chất, cơ cấu hệ thống lợi ích kinh tế, là nền
tảng cơ bản của chế độ KT-XH.
+ Vai trò: Sở hữu vừa là phương tiện, vừa là mục đích của công cuộc xây dựng cơ sở
CNXH trong KTQD; là căn cứ để giải quyết động lực lợi ích kinh tế; quy định tính chất thể
chế chính trị pháp quyền.
- Nội hàm của Quan hệ sở hữu:
+ Chủ thể sở hữu: là người SH, là nhân tổ quan trọng, chủ động trong quan hệ sở hữu;
bao gồm: các cá nhân, tập thể, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị-XH, Nhà nước, toàn dân.
+ Đối tượng sở hữu: là của cải XH mà các chủ thể sử dụng chúng phục vụ cho mục
đích của mình, trong đó cơ bản và quyết định nhất là TLSX. Đối tượng sở hữu luôn vận
động và biến đổi theo sự phát triển của LLSX và kinh tề thị trường.
+ Nội dung pháp lý của quan hệ sở hữu: Được thể chế hóa dưới những hình thức nhất
định có tính pháp lý, gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền năng:
Quyền chiếm hữu (Chiếm giữ)
Quyền sử dụng (quyền quản lý kinh doanh)

Quyền định đoạt (thừa kế, tặng cho, chuyển nhượng…)
+ Nội dung kinh tế của sở hữu: là lợi ích kinh tế, quyền lợi kinh tế mà đối tượng sở
hữu mang lại cho chủ sở hữu.
Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý có mối quan hệ thống nhất với nhau. Người nào
nắm quyền năng pháp lý thì được hưởng lợi ích kinh tế từ quyền đó.
Căn cứ vào mức độ thực hiện 2 nội dung mà trình độ sở hữu từ thấp đến cao, gồm:
Trên công bố
Sở hữu pháp lý: là sở hữu đã được pháp luật thừa nhận, có đủ các quyền năng nhưng
việc có được hưởng lợi ích từ các quyền đó không còn phụ thuộc vào chủ thể sở hữu.
Sở hữu kinh tế: Chủ sở hữu đã thực hiện được các nội dung kinh tế của chủ thể sở hữu
Sở hữu đích thực: Chủ thể SH đã thực hiện đủ quyền năng pháp lý và nội dung k.tế.
2- Quan hệ sở hữu hiện nay trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam: Ở thời
kỳ quá độ lên CNXH tồn tại 02 loại hình sở hữu là công hữu và tư hữu.
20


Hiến pháp nước ta xác định trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta tồn tại 3 hình
thức sở hữu chủ yếu: Nhà nước, tập thể và tư nhân.
- Sở hữu NN: là hình thức sở hữu mà Nhà nước là chủ thể hoặc đại diện cho ND sở
hữu. Đối tượng sở hữu gồm: đất đai, rừng biển, vùng trời, tài nguyên trong lòng đất, các
công trình cộng cộng, nguồn vốn nhà nước đầu tư…
Xét về bản chất sở hữu NN và sở hữu toàn dân khác nhau: sở hữu toàn dân có chủ thể
sở hữu là toàn dân, đối tượng sở hữu là tất cả tài sản thuộc sở hữu của 1 đất nước. Nhà nước
đại diện cho 1 g/cấp, 1 XH chứ Nhà nước và ND không phải là 1. Phân biệt này, sẽ phân
định được quyền quản lý, sử dụng của NN với quyền sở hữu toàn dân và nếu không thấy
được sự thống nhất giữa sở hữu toàn dân và NN sẽ không phát huy được vai trò của NN
trong việc quản lý, sử dụng đối tượng thuộc 2 loại sở hữu này.
- Sở hữu tập thể: là sở hữu của 1 tập thể người lao động. Đối tượng là phần tài sản do
quá trình tích lũy chung tạo nên, hoặc phần tài sản được cho, biếu, tặng. Loại sở hữu này
được hình thành trong mọi tập thể lao động: Hợp tác xã, DN của các tổ chức kinh tế, tổ chức

chính trị, xã hội… Quyền sở hữu tài sản thuộc về toàn thể các thành viên trong tập thể đó, họ
có thể ủy quyền cho người nào đó được họ cử ra hoặc suy tôn.
- Sở hữu tư nhân: là hình thức sở hữu của từng cá nhân đối với tài sản, vốn, TLSX mà
họ có toàn quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt và quyền thực hiện lợi ích kinh tế…
- Sở hữu hỗn hợp: là hình thức kết hợp, đan xen giữa 2 loại hình thức sở hữu (công
hữu và tư hữu) làm xuất hiện trong đời sống thực tiễn hình thức hỗn hợp, kết hợp trong nó
các yếu tố của 2 loại hình sở hữu trên. Sở hữu hỗn hợp đa dạng, linh hoạt, như: công ty liên
doanh, công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn, hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân (trong và
ngoài nước)…một chủ thể có thể tham gia nhiều hình thức góp vốn, tùy vào khả năng và
điều kiện. Nó ngày càng phù hợp với nền kinh tế thị trường và ngày càng phổ biễn.
* Mối quan hệ:
+ Các loại hình và hình thức SH tồn tại, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó
loại hình công hữu là nền tảng và hình thức sở hữu NN giữ vai trò chủ đạo.
+ Xu hướng vận động theo định hướng XHCN.
………………..

21


Câu 10: Các thành phần kinh tế và mối liên hệ giữa chúng trong thời kỳ quá độ?
Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế hiện nay ở Việt Nam?
1- Các thành phần kinh tế và mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế:
* Khái niệm: Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở
chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trên cơ sở Cương lĩnh và Hiến pháp, đồng thời trải qua tổng kết thực tiễn đổi mới qua
các thời kỳ Đại hội 6, 7, 8, Đại hội 9 của Đảng đã xác định ở Việt Nam có 6 thành phần:
Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu thủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội 10 của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần: Kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; KT tư nhân; KT tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Đại hội 11 của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta có 4 thành phần:
- Kinh tế nhà nước: là TPKT dựa trên hình thức sở hữu NN về TLSX bao gồm các
Doanh nghiệp NN và các tài sản thuộc sở hữu NN như đất dai, ngân sách NN, dự trữ NN….
- Kinh tế tập thể: Là TPKT dựa trên sở hữu tập thể và sự đóng góp về vố, sức lao động
của những người lao động để kinh doanh và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng,
hợp tác cùng có lợi bao gồm các HTX và các nghiệp đoàn, hiệp hội.
- Kinh tế tư nhân: Là TPKT dựa trên hình thức sở hữu tư nhân bao gồm các hộ SX kinh
doanh cá thể tiểu chủ, các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm phần vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ
sở SXKD ở nước ta.
Trong thời kỳ quá độ, nền KT nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất yếu xét cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, từ ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta
luôn khẳng định quan điểm thực hiện nhất quán chính sách KT nhiều thành phần, các TPKT
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh- Đó là đường lối chiến lược lâu dài
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế: Các TPKT không tồn tại biệt lập mà có
mối liên hệ phụ thuộc, tác động lẫn nhau, đan xen vào nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn
nhau, cụ thể: Nằm trong hệ thống phân công LĐXH, là bộ phần hữu cơ của cơ cấu KT - XH
của nền KT; chịu sự quản lý thống nhất của NN; sự chi phối bởi vai trò chủ đạo của KT NN.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế có 2 mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa công hữu và tư
hữu, giữa các hình thức sở hữu và mâu thuẫn giữa xu hướng phát triển TBCN và XHCN.
Vì vậy:
- Các thành phần kinh cùng tồn tại trong nền KT quốc dân, vừa hợp tác và cạnh tranh
để cùng nhau phát triển, không cô lập, vì vậy cần chú trọng các loại hình kinh doanh đan
xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu trong nhiều thành phần KT, giữa trong nước và nước
ngoài, đặc biệt là hình thức cổ phần, hợp tác liên kết công – nông, DNNN và kinh tế hộ.
- Nhà nước cần có những chính sách phù hợp với từng thành phần kinh tế để thức đẩy
lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, đặc biệt là bảo đảm sự
công bằng giữa các thành phần kinh tế.
- Nhà nước cần thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh

hoạt động theo pháp luật và là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát
triển lâu dài, kinh tế nhà nước giữ vai trò củ đạo, kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước ngày
càng trở nên vững chắc của nền kinh tế.
2- Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế hiện nay ở Việt Nam?
22


* Thứ nhất, thành phần kinh tế nhà nước: Dựa trên sở hữu nhà nước về tư liệu sản
xuất gồm doanh nghiệp nhà nước, ngân sách, tín dụng, ngân hàng NN, quỹ dự trữ, quỹ bảo
hiểm, cơ sở vật chất, quốc phòng an ninh và các tài sản thuộc sở hữu NN có thể đưa được
vào vòng chu chuyển kinh tế. Thời gian qua, một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém
hiệu quả, gây lãng phái, thất thoát tài sản NN. Vì vậy nhà nước cần:
- Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả KTNN làm vai trò chủ đạo
- Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách sở hữu đối với đất đai, tài nguyên,
vốn và các tài sản công khác để sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng
phí
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của các danh nghiệp NN,
nhất là các tập đoàn KT và các tổng công ty.
- Sớm hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động của các tập đoàn, các tổng c.ty NN.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nhiệp NN, xây dựng một số tập đoàn KT mạnh, đa sở
hữu, trong đó sở hữu NN giữ vai trò chi phối.
- Phân định rõ quyền sở hữu của NN và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, hoàn
thiện cơ chế quản lý vốn trong các DN, khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính
tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh thông qua mệnh lệnh hành chính.
* Thứ hai, thành phần KT tập thể: Dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản
xuất và sự đồng góp tự nguyện về vốn, sức lao động của những người lao động để kinh
doanh theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng với KTNN là nền tảng của nền kinh tế.
Vì vậy nhà nước cần:
- Tiếp tục đổi mới, củng cố và nâng cao vai trò kinh tế tập thể.
- Đẩy mạnh PT KTTT với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là HTX; ngày càng

mở rộng quy mô KT để phù hợp với trình độ PT của LLSX.
- Có cơ chế, chính sách hợp lý trợ giúp các tổ chức KT hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ hiện đại, những phương pháp SX tiên tiến và
tiếp cận nguồn vốn ngày càng thuận lợi, tạo điều kiện cho hoạt động SXKD của các HTX.
- Khẩn trương hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện
cho việc ra đời, phát triển các HTX, các tổ hợp tác kiểu mới và các mô hình KT tập thể khác
theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, có chức năng KT và xã hội.
* Thứ ba, thành phần kinh tế tư nhân: Dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, phát triển rộng khắp trên lãnh thổ. Vì vậy nhà nước cần
- Xóa mặc cảm với KTTN, đặt long tin và gây chữ tín giữa NN với các chủ thể của KT
TBTN. Bảo vệ quyền sở hữu và hợp pháp của chủ sở hữu tư nhân.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để p.triển mạnh KTTN trở thành một trong những động
lực của ngành KT.
- Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn KTTN và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn
KT NN theo hướng đa dạng hóa sở hữu.
- Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo điều kiện để hình thành các doanh
nghiệp lớn, có sức cạnh tranh trên thị trường.
- Phát triển doanh nhân về số lượng và năng lực quản lý, đề cao dạo dức kinh doanh và
trách nhiệm xã hội.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tăng cường sự gắn bó giữa người sử dụng lao
động và người lao động.
* Thứ tư, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
23


- Thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại nhưng phải thân thiện môi trường,
đảm bảo tránh ô nhiễm môi trường, tránh thu hút những dự án có công nghệ lạc hậu, hao
mòn vô hình.
- Tăng cường sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng và cùng có lợi theo pháp luật của NN.

- Các DN thuộc TPKT này đều được tự do hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực mà
PL không cấm vào hoạt động tuân theo LP, chính sách của NN VN.
- Ưu tiên TPKT này đầu tư vào những ngành, lĩnh vực KT phù hợp với quy hoạch và
chiến lược p.triển của đất nước.
……………………….

24


Câu 11- CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ? Nghiên cứu những vấn đề nảy sinh
trong quá trình tiến hành CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay?
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động SXKD, dịch vụ
và quản lý kinh tế, xã hội và từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của CN và tiến bộ KH-CN tạo ra NSLĐ cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được tiến hành theo định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Xuất phát từ tình hình thực tế của đất
nước và sự phát triển của thời đại, Đảng ta đề ra mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời kỳ quá độ là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ
thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững
chắc, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ 2011 tới 2020 nêu rõ: “Phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn
định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải
xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật củ CNXH, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện

đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến, CNH chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất
đó cho nền kinh tế quốc dân XHCN. Mỗi bước tiến của quá trình CNH, HĐH là một bước
tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và
góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Vậy nước ta tiến hành CNH, HĐH là một tất
yếu khách quan phù hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới.
Qúa trình CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ quá độ có những đặc điểm khác với quá
trình CNH, HĐH ở các nước đi trước, vì nước ta có xuất phát điểm thấp, cơ sở vật chất
nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc hậu, lực lượng lao động ít tiếp xúc với máy móc hiện
đại, ngoài ra do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước
hiện nay, CNH có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, CNH phải gắn liền với HĐH vì thế giới đăng diễn ra cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đăng chuyển sang kinh tế tri thức, nước ta là nước đi sau cần
tranh thủ ứng dụng những thành tựu KHCN để hiện đại hóa mọi mặt.
Thứ hai, CNH nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Thứ ba, CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước,
đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật thị trường.
Thứ tư, CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, vì thế
mở cửa và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu.
Tác dụng của CNH ở nước ta:
- Là quá trình thực hiện chiến lược phát triển KT-XH nhằm cải tiến từ nông nghiệp
sang xã hội công nghiệp.
- Tạo ra cơ sở vật chất, nâng cao vai trò người lao động; tạo điều kiện vật chất cho
việc XD và phát triển nền văn hóa việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
25


×