MỤC LỤC
*****
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
VÀ CÁC HÀM Ý CHO VIỆT NAM
1.1. MÔ HÌNH MUNDELL-FLEMING VÀ CÁC HÀM Ý VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ,
TIỀN TỆ DƯỚI CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ ---------------------------------------------------------- 12
1.1.1. Chính sách tài khoá và tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định ---------------------- 12
1.1.2. Chính sách tài khoá và tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt -------------------- 14
1.2. LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI -------------------------------------------------------- 15
1.2.1. Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell ------------------------------- 15
1.2.2. Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian ------------------------------ 16
1.3. THUYẾT TỨ DIỆN (A tetrahedron Hypothesis) ------------------------------------------- 17
1.3.1. Cơ chế tỷ giá trung gian- nền tảng của thuyết tam giác mở rộng và thuyết tứ
diện ------------------------------------------------------------------------------------------ 17
1.3.2. Thuyết tứ diện ------------------------------------------------------------------------- 18
1.4. CÁC HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM ---------------------------------------------------------- 21
1.4.1. Chính sách tiền tệ chưa hợp lý------ ----------------------------------------------- 21
1.4.2. Linh hoạt trong cơ chế tỷ giá ------------------------------------------------------- 22
1.4.3. Thực hiện chính sách vô hiệu hoá ------------------------------------------------- 22
1.4.4. Khuyến nghị 1: Tăng cường khả năng vay nợ quốc gia bằng nội tệ ---------- 22
CHƯƠNG 2 : BÀI HỌC TỪ NGƯỜI LÁNG GIỀNG
PHÍA BẮC - TRUNG QUỐC ĐẠI LỤC
2.1. TRUNG QUỐC TIẾN HÀNH KIỂM SOÁT TÀI KHOẢN VỐN (TỪ CUỘC CẢI CÁCH
1979 ĐẾN NĂM 1996) ------------------------------------------------------------------------------- 24
2.2. QÚA TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ VÀ XU HƯỚNG TỰ DO HOÁ TÀI KHOẢN VỐN
CỦA TRUNG QUỐC (GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY) ------------------------------------------- 25
2.2.1. Áp lực mở cửa nền kinh tế tạo nên xu hướng tự do hoá tài khoản vốn ------- 25
2.2.2. QFII như là một bước đi lớn hướng đến tự do hoá tài khoản vốn ------------- 26
2.2.3. Sự phát triển của thị trường cổ phiếu B ------------------------------------------- 27
2.2.4. Sự bùng nổ của TTCK và dòng vốn FPI (từ năm 2005 đến nay) ------------- 27
2.3. TRUNG QUỐC DUY TRÌ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỐ ĐỊNH -------------------------------- 28
2.4. TÁC ĐỘNG CỦA LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI TẠI TRUNG QUỐC -------- 29
2.5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC ----------------------------------------- 33
- 1 -
2.5.1. Khuyến nghị 2 : Chính sách can thiệp vô hiệu hoá ngày càng không hiệu quả
------------------------------------------------------------------------------------------ 34
2.5.2. Tăng giá đồng NDT ------------------------------------------------------------------ 35
2.5.3. Khuyến nghị 3: Đưa vốn vào sản xuất, hạn chế đầu tư tài chính -------------- 35
2.5.4. Mở cửa tài khoản vốn có lộ trình -------------------------------------------------- 36
CHƯƠNG 3 : CÁC VẤN ĐỀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
3.1. THU HÚT DÒNG VỐN NGOẠI VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VỐN Ở VN ------- 37
3.2. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM --------------------------------------------------- 41
3.3. TÁC ĐỘNG CỦA LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM ---------------- 42
3.3.1. Cung tiền và tín dụng gia tăng----------------------------------------------------- 42
3.3.2. Sư gia tăng của lạm phát ------------------------------------------------------------ 43
3.3.3. “Căng thẳng” vấn đề lãi suất ------------------------------------------------------ 44
3.3.4. Thị trường chứng khoán “tụt dốc” ------------------------------------------------ 44
3.4. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG ĐIỀU HÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN --------- 44
3.4.1. Phát triển TTCK: “Lợi ích cho nhà đầu tư hay cho sản xuất xã hội?”------- 45
3.4.2. Quan điểm CPH và cách thức tiến hành IPO: “Cải cách hay tận thu?” ---- 45
3.4.3. Chỉ thị 03: “Bóp bên này, lồi bên kia” -------------------------------------------- 47
3.4.4. Vấn đề độc lập của UBCK ---------------------------------------------------------- 47
CHƯƠNG 4 : ĐỊNH LƯỢNG CÁC MỐI QUAN HỆ
KINH TẾ VĨ MÔ Ở VIỆT NAM
4.1. KIỂM ĐỊNH TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ THỰC ĐẾN XUẤT KHẨU ------------------- 48
4.2. KIỂM ĐỊNH TÁC ĐỘNG TỶ GIÁ THỰC ĐẾN SẢN LƯỢNG CÔNG NGHIỆP ---- 49
4.3. KIỂM ĐỊNH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN LẠM PHÁT -------------------- 49
4.4. KIỂM ĐỊNH VAI TRÒ CỦA DÒNG VỐN NGOẠI ĐỐI VỚI TTCK VIỆT NAM ---- 52
4.5. KIỂM ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ SUẤT SINH LỢI CHỨNG
KHOÁN Ở VIỆT NAM ------------------------------------------------------------------------------- 53
CHƯƠNG 5 : CON ĐƯỜNG NÀO CHO CHÍNH SÁCH
KINH TẾ VIỆT NAM
5.1. ĐỐI VỚI MỤC TIÊU CHỐNG LẠM PHÁT ------------------------------------------------ 57
- 2 -
5.1.1. Khuyến nghị 4: Chuyển từ mục tiêu tỷ giá sang mục tiêu lạm phát ----------- 57
5.1.2. Khuyến nghị 5: Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt ------------------------- 59
5.1.3. Khuyến nghị 6: Chính sách tài khoá: Thặt chặt chính sách tài chính công -- 60
5.1.4. Khuyến nghị 7: Đảm bảo nguồn cung lượng thực (giá gạo) ------------------- 61
5.2. ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ------------------------------------------------ 61
5.2.1. Khuyến nghị 8 : Thay đổi quan điểm CPH --------------------------------------- 62
5.2.2. Khuyến nghị 9: Nâng cao khả năng độc lập điều hành của UBCK nhà nước --
------------------------------------------------------------------------------------------ 62
5.2.3. Khuyến nghị 10 : Kiểm soát chặt chẽ hơn dòng vốn ngoại --------------------- 62
- 3 -
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK Thị trường chứng khoán
VN Việt Nam
FPI Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
FDI Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm Quốc Nội
NHTW Ngân hàng trung ương
TQ Trung Quốc
QFII Nhà đầu tư tổ chức ngoại đủ tiêu chuẩn
WTO Tổ chức thương mại thế giới
IMF Quỹ tiền tệ thế giới
SAFE Uỷ ban quản lý nhà nước về ngoại hối (Trung Quốc)
CSRC UỶ ban luật chứng khoán Trung Quốc
PboC Ngân Hàng Trung ương Trung Quốc
NHNN Ngân hàng nhà nước
UIP Ngang giá lãi suất không được phòng ngừa
NĐTNN Nhà đầu tư nước ngoài
NHTM (CP) Ngân hàng thương mại (cổ phần)
HSBC Ngân hàng Hồng Kông-Thượng Hải.
IPO Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
CHP Cổ phần hoá
VCB Ngân hàng Vietcombank
DNNN Doanh nghiệp nhà nước.
- 4 -
VNM Công ty cổ phần sữa Việt Nam-Vinamilk
UBCKNN Uỷ ban chứng khoán nhà nước (Việt Nam)
BTC Bộ Tài chính.
EPS Thu nhập trên mỗi cổ phần
P/E Chỉ số giá/ thu nhập
CTE Tín dụng cho nền kinh tế
ER Tỷ giá danh nghĩa giữa VND/USD
RER Tỷ giá thực giữa VND/USD
INDUS Sản lượng công nghiệp
CPI Chỉ số giá tiêu dùng.
EXP Xuất khẩu
IMP Nhập khẩu
LR Lãi suất cho vay
VAR Mô hình véc tơ tự hồi quy
TSSL Tỷ suất sinh lợi
DNETBUY Chênh lệch mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài
LCPI, LER,
LRER,LINDUS..
Kí tự L phía trước nghĩa là lấy log cho các biến số CPI,
ER, RER, INDUS
DLCPI,DLINDUS.. Kí tự D phía trước nghĩa là lấy chênh lệch của các biến
số LCPI, LINDUS.. Ví dụ. DCPI= CPI
t
-CPI
t-1
.
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á.
CIEM Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
- 5 -
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
HOSE Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
- 6 -
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Nguyên lý của bộ ba bất khả thi.
Bảng 1.2: Sự lựa chọn cơ chế tỷ giá theo mô hình tam giác bất khả thi.
Bảng 1.3: Sự lựa chọn cơ chế tỷ giá theo thuyết tứ diện.
Bảng 2.1: Dự trữ ngoại hối Trung Quốc 1994-2007.
Bảng 2.2: Đóng góp của dự trữ ngoại hối đến cung tiền, 2003-2006.
Bảng 2.3: Lạm phát của Trung Quốc từ 2003-2006.
Bảng 3.1: So sánh mức độ mở cửa dòng vốn gián tiếp.
Bảng 3.2: So sánh mức độ mở cửa thương mại.
Bảng 3.3: Gia tăng lạm phát, cung tiền, tăng trưởng GDP Việt Nam.
- 7 -
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá cố định.
Hình 1.2: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá thả nổi.
Hình 1.3: Tam giác bộ ba bất khả thi.
Hình 1.4: Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian.
Hình 1.5: Thuyết tứ diện.
Hình 1.6: Tam giác bất khả thi là trường hợp đặc biệt của thuyết tứ diện.
Hình 1.7: Sự mở rộng cung tiền của Việt Nam so với các nước.
Hình 2.1: So sánh mức độ mở cửa thương mại các nước (2006).
Hình 2.2: Dòng vốn đầu tư vào Trung Quốc từ 1982-2004.
Hình 3.1: Tỷ giá VND/USD của Việt Nam từ 1980-2006.
Hình 3.2: Tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế của các nước 2003-2006.
- 8 -
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1: Mô hình Mundell-Fleming và các hàm ý về chính sách tài khoá và
tiền tệ dưới các chế độ tỷ giá.
Phụ lục 1.2: Bảng 1.2 và 1.3 về sự lựa chọn cơ chế tỷ giá.
Phụ lục 1.3: Đánh giá của ADB về thị trường trái phiếu nội tệ Việt Nam 2007.
Phụ lục 2.1: Chỉ số CCI của Trung Quốc giai đoạn 1986-2004.
Phụ lục 2.2: Tìm hiểu cách phân loại cổ phiếu của thị trường chứng khoán Trung Quốc
Phụ lục 2.3: Tìm hiểu thị trường cổ phiếu loại B.
Phụ lục 2.4: Tìm hiểu luật QFII của Trung Quốc đại lục.
Phụ lục 2.5: Thu hút dòng vốn ngoại của Trung Quốc và vấn đề dòng tiền nóng.
Phụ lục 3.1: Kiểm định kiểm soát vốn ở Việt Nam.
Phụ lục 4.1: Giới thiệu mô hình VAR.
- 9 -
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt thời gian qua, vấn đề lạm phát đang trở thành đề tài nóng trên cả báo chí và
giới học thuật. Lạm phát nhận được công chúng quan tâm bởi nó tác động đến “mâm cơm” của
những người lao động nghèo, công nhân, sinh viên, trí thức… những thành phần chiếm đại đa số
trong dân cư. Lạm phát đang khiến chất lượng cuộc sống ngày càng suy giảm, trở thành mối đe
doạ cho mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam.
Do vậy, kiềm chế lạm phát đang trở thành mục tiêu hàng đầu của Chính phủ. Thủ tướng
Nguyến Tấn Dũng qua những bài phát biểu đang gửi đi thông điệp: “Toàn dân cùng tham gia
chống lạm phát”. Những giải pháp, chủ trương đã được đề xuất: cắt giảm chi tiêu công, thực hiện
chính sách thắt chặt tiền tệ…Tuy nhiên, chưa có một dấu hiệu nào cho thấy lạm phát sẽ chững
lại. Năm 2007, tỷ lệ lạm phát Việt Nam là 12,36%, nhưng chỉ 5 tháng đầu năm 2008, con số này
đã lên đến 15,96% và nhiều khả năng còn tiếp tục tăng cao.
Các nhà đầu tư đang phải trải qua cơn bĩ cực của TTCK Việt Nam. Chỉ số VN-index
giảm gần 60% từ đỉnh 1171 điểm vào tháng 3/2007. Gần đây, chỉ số VN-index đã phá mức hỗ
trợ 400 và tiếp tục suy giảm. Tâm lý bi quan đang bao trùm trên thị trường.
Các biến số kinh tế vĩ mô, không bao giờ là những biến số rời rạc, mà giữa chúng luôn
tồn tại những mối liên kết. Nhìn lại những diễn biến trong thời gian qua chúng ta nhận thấy
những liên kết này đã gây ra những khó khăn như thế nào trong việc thực hiện mục tiêu chống
lạm phát. NHNN lúng túng giữa việc mua hay không mua ngoại tệ để cứu chứng khoán và giữ
một tỷ giá có lợi cho xuất khẩu. Nếu mua vào thì gây ra lạm phát, nhưng nếu không mua thì
chứng khoán lại như quả bóng rơi tự do, và các nhà xuất khẩu trở nên khốn đốn. Mới gần đây,
trần lãi suất cũng cho thấy sự bất nhất trong chính sách chống lạm phát. Thông thường, lãi suất là
một công cụ hữu dụng để chống lạm phát, nhưng lo ngại trước ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng
kinh tế và chứng khoán suy giảm khi lãi suất huy động tăng cao, NHNN đã khống chế mức trần
cho nó. Mức trần này đã khiến lượng tiền huy động của các ngân hàng sụt giảm, do đó không thể
rút tiền trong lưu thông để chống lạm phát. Để giải quyết vấn đề lạm phát, nhất thiết phải đặt
trong sự liên hệ với các biến số kinh tế khác như lãi suất, tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng tín
dụng, chỉ số VN-index…
Chính vì lẽ đó, trong đề tài này, chúng tôi vận dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi để bàn
luận về vấn đề lạm phát, chứng khoán Việt Nam. Từ nguyên nhân cho đến những khuyến nghị
sẽ được chúng tôi đưa ra khi nghiên cứu lý thuyết bộ ba ở khía cạnh lý luận và thực tiễn. Đề tài
nghiên cứu được trình bày gồm những nội dung sau:
- 10 -
Chương 1: Lý thuyết bộ ba bất khả thi và các hàm ý cho Việt Nam.
Chương 2: Bài học từ người láng giềng phía Bắc - Trung Quốc Đại Lục.
Chương 3: Các vấn đề thực tiễn ở Việt Nam.
Chương 4: Định lượng các mối quan hệ kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.
Chương 5: Con đường nào cho chính sách kinh tế Việt Nam.
- 11 -
CHƯƠNG 1:
LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
VÀ CÁC HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Giáo sư Robert Mundell được xem là cha đẻ của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Dựa trên
những ý tưởng của ông trong tác phẩm nổi tiếng “ Chính sách tài khoá và tiền tệ dưới các chế
độ tỷ giá” (1963), Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển thành “ mô hình bất khả thi”.
Theo lý thuyết này, một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu: chính sách tiền
tệ độc lập, tỷ giá cố định, và tự do hoá dòng vốn.
Nghiên cứu lý thuyết này sẽ đem lại cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về những biến động
kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua, và các hàm ý của lý thuyết này đối với Việt
Nam.
1.1.MÔ HÌNH MUNDELL-FLEMING VÀ CÁC HÀM Ý VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ,
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ DƯỚI CÁC CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ
1
Khi nghiên cứu tác động của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đối với việc gia
tăng sản lượng quốc gia trong mô hình IS-LM, James Meade(1951) và Jan Tinbergen (1952) đã
có những nỗ lực để đưa các yếu tố nước ngoài vào mô hình. Tuy nhiên, phần lớn những đóng
góp này đều chỉ dừng lại ở mức là những tranh luận hấp dẫn, chưa thực sự trở thành một lý
thuyết vững chắc. Nỗ lực thành công nhất trong việc đưa yếu tố nước ngoài vào hệ thống lý
thuyết Keyness hiện đại được xem là của “mô hình Mundell-Fleming”. Đây là kết quả nghiên
cứu của Robert Mundell (1962, 1963) và J.M.Fleming (1962) trong thời gian làm việc tại quỹ
tiền tệ quốc tế IMF. Mô hình Mundell-Fleming là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi
có tính đến tác động của cán cân thanh toán. Đây được xem là điểm khởi đầu cho lý thuyết bộ ba
bất khả thi. Mô hình Mundell-Fleming chỉ ra sự hiệu quả hay không hiệu quả của chính sách tiền
tệ và chính sách tài khoá dưới các chế độ tỷ giá khác nhau.
1.1.1.Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định
Đầu tiên, mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá
có thể làm thay đổi các trạng thái của cán cân thanh toán . Bắt đầu tại điểm cân bằng E trong
hình 1.1, nơi mà BP=0, nếu chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng (một sự dịch
chuyển sang phải từ LM thành LM’) thì sẽ có một điểm F cân bằng mới nằm dưới đường cong
BP, và đó là một cán cân thanh toán thâm hụt. Ngược lại, bắt đầu từ điểm E, một sự mở rộng
1
Những trình bày chi tiết về mô hình IS-LM được đưa ra trong phụ lục 1.
- 12 -
chính sách tài khoá (đường IS dịch chuyển sang phải thành IS’) sẽ hướng nền kinh tế đến một
cán cân thanh toán thặng dư tại điểm G.
Hình 1.1: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá cố định
Mặc dù chính sách tiền tệ và tài khoá có thể dẫn đến một cán cân thanh toán thặng dư
hoặc thâm hụt, nhưng hàm ý của mô hình Mundell-Fleming đó là có thể sử dụng sự kết hợp của
chính sách tài khoá và tiền tệ để tăng sản lượng mà không tạo nên một cán cân thanh toán thâm
hụt hay thặng dư. Điều này được thể hiện rõ trong hình 1.1. Bắt đầu tại điểm E, chúng ta có thể
thực hiện cả hai chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng (nghĩa là, IS dịch chuyển đến IS’ và LM
dịch chuyển đến LM’) nhưng vẫn có được một cán cân thanh toán cân bằng (điểm H trong hình
1.1). Điểm H là một điểm cân bằng bền vững trong dài hạn.
Khi cán cân thanh toán thặng dư, NHTW sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào. Ngược lại,
khi cán cân thanh toán thâm hụt, NHTW sẽ bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu trên thị trường. Do
đó, một cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền của nền kinh
tế vì NHTW sẽ mua vào hoặc bán ra ngoại tệ. Kết quả là, một cán cân thanh toán thặng dư hay
thâm hụt sẽ không được duy trì, nhưng điều này lại tác động đến lạm phát trong nước. Luận
điểm này sau đó được Frankel và Krugman khai thác và xây dựng nên lý thuyết bộ ba bất khả
thi.
Nhằm tránh những tác động của việc mua bán ngoại tệ đến lạm phát trong nước như đã
nói ở trên, NHTW sử dụng một công cụ gọi là “chính sách vô hiệu hoá”. Giả định, có một sự
mở rộng chính sách tiền tệ và tạo ra một cán cân thanh toán thâm hụt như điểm F trong hình 1.1.
Nếu NHTW bán ngoại tệ nhằm đáp ứng cầu ngoại tệ sẽ làm giảm cung tiền nội địa và làm đường
LM’ dịch chuyển trở lại đường LM, hay mức cân bằng sẽ trở lại điểm E. Để duy trì vị trí tại F,
NHTW phải tiến hành cái gọi là “chính sách vô hiệu hoá”, tức là NHTW sẽ mua các chứng
khoán trên thị trường mở nhằm cung ứng ra lưu thông một lượng nội tệ đúng bằng lượng nội tệ
giảm đi khi NHTW bán ngoại tệ để duy trì cán cân thanh toán thâm hụt. Ngược lại, để duy trì
một cán cân thanh toán thặng dư, chính sách vô hiệu hoá của ngân hàng được thực hiện theo
chiều ngược lại. Nghĩa là, NHTW sẽ bán các chứng khoán trên thị trường mở để hút lượng nội tệ
được dùng mua ngoại tệ trước đó.
- 13 -
Thật quan trọng để hiểu các hàm ý về chính sách tài khóa và tiền tệ dưới các mức độ
khác nhau của luân chuyển dòng vốn, cơ chế tỷ giá và chính sách vô hiệu hoá. Nếu chúng ta vẫn
tiếp tục giả định chế độ tỷ giá hối đoái là cố định và không có chính sách vô hiệu hoá, thì sau đó
tất yếu rằng, chính sách tài khoá trở nên hiệu quả hơn chính sách tiền tệ. Hãy nhìn lại hình 1.1
một lần nữa. Bắt đầu tại điểm E, một sự mở rộng chính sách tiền tệ sẽ chuyển đường LM sang
LM’ và do đó đạt được một cán cân thanh toán thâm hụt tại điểm F. Tuy nhiên, không có sự vô
hiệu hoá, cung tiền sẽ giảm và sau đó LM’ sẽ dịch chuyển sang phía trái trở lại LM và điểm F sẽ
quay trở lại điểm E. Nghĩa là, sản lượng sau khi gia tăng trong một thời gian ngắn sẽ quay lại
điểm cân bằng Y*. Do đó, chính sách tiền tệ không hiệu quả hoàn toàn để làm gia tăng sản
lượng quốc gia. Ngược lại, giả định rằng, bắt đầu tại điểm E, chúng ta thực hiện một chính sách
tài khóa mở rộng, đường IS dịch chuyển sang IS’, dẫn tới một cán cân thanh toán thặng dư tại
điểm G. Không có chính sách vô hiệu hoá, một cán cân thanh toán thặng dư hàm ý rằng cung
tiền sẽ tăng nhằm đáp ứng cho sự gia tăng trong sản lượng quốc gia. Do đó, đường LM dịch
chuyển sang phía phải đến LM’. Tại điểm cân bằng mới, điểm H, là một vị thế dài hạn. Như vậy,
sản lượng đã tăng đáng kể trong trường hợp này vì sự dịch chuyển của cung tiền khi không có vô
hiệu hoá bổ sung cho sự mở rộng chính sách tài khoá ban đầu. Điều này đưa ta đến kết luận:
dưới chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khoá có hiệu quả cao hơn và chính sách tiền tệ kém
hiệu quả hơn.
1.1.2.Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt
Các hàm ý của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới chế độ tỷ giá linh hoạt có
thể được hình dung trong hình 1.2. Giả định chúng ta bắt đầu tại E=(r*, Y*) - phần giao nhau của
đường cong IS, LM, BP; và giả định có một sự mở rộng chính sách tiền tệ từ LM sang LM’. Kết
quả, chúng ta dịch chuyển từ E đến F, là một cán cân thanh toán thâm hụt. Tại điểm F, có một
cầu thặng dư về ngoại tệ và cung thặng dư về nội tệ trên thị trường ngoại hối. Dưới cơ chế tỷ giá
linh hoạt, tỷ giá thực sẽ giảm, do đó đường BP dịch chuyển sang phải thành BP’ và IS dịch
chuyển sang phải thành IS’, tạo nên một điểm cân bằng sản lượng mới J cao hơn Y*
J
. Chúng ta
có được sự cân bằng bên trong và bên ngoài khi có sự giao nhau của ba đường IS’, LM’ và BP’.
Do đó, dưới chế độ tỷ giá linh hoạt, chính sách tiền tệ tỏ ra khá hiệu quả để gia tăng sản
lượng.
Ngược lại, sự hiệu quả của chính sách tài khoá dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt là không rõ
ràng. Trong hình 1.2, bắt đầu tại điểm E, giả định có một chính sách tài khoá mở rộng làm cho
đường cong IS dịch chuyển đến IS’’ tại điểm G. Tuy nhiên, tại điểm G, chúng ta có một cán cân
thanh toán thặng dư và do đó có một sự gia tăng trong tỷ giá thực. Điều này sẽ làm cho đường
BP dịch chuyển lên trên thành BP’’ và IS’’ dịch chuyển ngược lại thành IS’. Ta có một điểm cân
- 14 -
bằng mới K, là sự giao nhau của đường IS’, LM và BP’’. Như vậy, trong điều kiện tương đối,
một chính sách tài khoá mở rộng dưới chế độ tỷ giá linh hoạt là ít hiệu quả hơn dưới chế độ
tỷ giá cố định.
Hình 1.2: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá linh hoạt.
1.2.LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
1.2.1.Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell
Từ những hàm ý của mô hình Mundell-Fleming ở trên ta thấy rằng: hiệu quả của chính
sách tiền tệ và chính sách tài khoá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ kiểm soát vốn.
Ví dụ, quốc gia nào có chuyển dịch dòng vốn tự do và tỷ giá cố định, thì các nhà quản lý tiền tệ
không thể theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập. Trong một quốc gia có cơ chế tỷ giá cố định
thì không có rủi ro tỷ giá, và lãi suất trong nước biến động cùng với lãi suất nước ngoài. Từ
những nhận định trên, các nhà kinh tế như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã mở rộng mô
hình Mundell-Fleming thành “mô hình bất khả thi”. Giống như trong hình 1.3, Frankel (1999)
cho rằng, một quốc gia phải từ bỏ một trong 3 mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định
của chính sách tỷ giá, và hội nhập thị trường tài chính. Các nội dung này được tóm tắt trong bảng
1.1.
Hình 1.3 là sự minh hoạ về nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh thể hiện
cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của tỷ giá, và hội
nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách
tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ
giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh
liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa. Ví dụ,
mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ổn định đạt được bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn.
Mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đỉnh thả
nổi hoàn toàn. Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh liên
minh tiền tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu.
- 15 -
Bảng 1.1- Nguyên lý của bộ ba bất khả thi
Dòng vốn lưu
động hoàn toàn
Chính sách tiền tệ
độc lập
Hệ thống tỷ
giá cố định
Ví dụ
Kiểm soát vốn Không Có Có Trung Quốc trước tháng cuộc cải
cách tháng 7/2005
Liên minh tiền tệ Có Không Có Hồng Kông, EU
Tỷ giá thả nổi Có Có Không Nhật, Úc
1.2.2.Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Yigang và Tangxian (2001) tiếp tục phát triển lý thuyết bộ ba bất khả thi của Mundell và
đưa lên thành thuyết tam giác mở rộng. Nền tảng của thuyết này là những quan niệm mới về sự
độc lập của chính sách tiền tệ và ổn định tỷ giá. Theo đó, bộ ba bất khả thi của Mundell kết luận
rằng một quốc gia không thể có một chính sách tỷ giá ổn định một nửa (half-stability) và chính
sách tiền tệ độc lập một nửa (half- independence). Nói rõ hơn, tam giác bất khả thi của Mundell
chỉ mới tập trung đến các cơ chế tỷ giá nằm ở các đỉnh (hay góc) tam giác mà chưa đề cập đến
một cơ chế tỷ giá trung gian nằm đâu đó trong tam giác bất khả thi. Sự tồn tại của cơ chế tỷ giá
trung gian sẽ được bàn luận kỹ hơn trong phần sau. Yigang và Tangxian đã mở rộng mô hình
này và kết luận rằng một quốc gia có thể có những phối hợp mục tiêu khác nhau và không phải
chấp nhận sự đánh đổi hoàn toàn như tam giác của Mundell.
Tương tự như hình 1.3, ba cạnh trong tam giác mở rộng (hình 1.4) cũng tương ứng cho 3
mục tiêu chính sách. Giả định: cạnh M tượng trưng cho chính sách tiền tệ độc lập; cạnh đáy K,
tượng trưng cho dòng vốn lưu động hoàn hảo; và cạnh phải E, tượng trưng cho ổn định tỷ giá. Ba
đỉnh của góc tam giác tượng trựng cho 3 cam kết tỷ giá: A1 = cố định, A2 = Thả nổi hoàn toàn,
A3 = liên minh tiền tệ. Gọi Ms, Kc và Ev là các khoảng cách từ điểm O tuỳ ý đến 3 cạnh, tượng
trưng lần lượt cho mức độ của độc lập chính sách tiền tệ, mức độ kiểm soát vốn và mức độ biến
động tỷ giá. Một tính chất quan trọng của tam giác đều là: tổng khoảng cách của bất kỳ điểm nào
- 16 -
ở bên trong tam giác đến ba cạnh bằng chiều cao của tam giác. Do đó ta có Ms + Kc + Ev = Mh.
Để đơn giản, đặt chiều cao của tam giác đều Mh = 1, thì ta có Ms + Kc + Ev = 1 và 0 <= Ms, Kc
hoặc Ev <= 1.
Hình 1.4: Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian
Trong đó: (1) Khi Kc = 0, tức là dòng vốn lưu động hoàn toàn và Kc = 1 tức là kiểm soát
vốn hoàn toàn. (2) Ms = 0, nghĩa là chính sách tiền tệ hoàn toàn và Ms = 1, nghĩa là mất độc lập
về chính sách tiền tệ. (3) Ev = 0, tức là tỷ giá cố định và Ev = 1, tức là tỷ giá thả nổi.
Chúng ta xét 3 trường hợp sau (xem thêm bảng 1.2 trong phụ lục 1.2):
Trường hợp 1: Khi Kc = 0, dòng vốn hoàn toàn lưu động, ta có Ms + Ev = 1. Ở đây nếu Ms=0
thì Ev=1; nếu Ms=1 thì Ev=0; nếu 0<Ms<1 thì 0<Ev<1. Do đó, có ba sự kết hợp: (1) dòng vốn
lưu động hoàn toàn ∩ chính sách độc lập tiền tệ hoàn toàn ∩ tỷ giá thả nổi tự do; (2) dòng vốn
lưu động hoàn toàn ∩ mất độc lập về chính sách tiền tệ ∩ tỷ giá cố định; (3) dòng vốn lưu động
hoàn toàn ∩ độc lập chính sách tiền tệ có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn.
Trường hợp 2: Khi Kc=1, kiểm soát vốn hoàn toàn, chúng ta có Ms + Ev = 0. Ở đây, Ms=0 và
Ev=0, chúng ta có các kết hợp: kiểm soát vốn hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩
tỷ giá cố định. Thực tế, chế độ tỷ giá cố định thường có trong các quốc gia đang phát triển với thị
trường tài chính yếu kém.
Trường hợp 3: Khi 0<Kc<1, dòng vốn lưu động giới hạn, chúng ta có 0<Ms+Ev<1. Nếu Ms=0,
thì 0<Ev<1; nếu 0<Ms<1 thì 0<Ev<1 hoặc Ev=0. Có ba sự kết hợp: (1) dòng vốn lưu động có
giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn; (2) dòng vốn lưu
động giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn; (3) dòng vốn
lưu động giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá cố định.
1.3.THUYẾT TỨ DIỆN (A tetrahedron Hypothesis)
1.3.1.Cơ chế tỷ giá trung gian - nền tảng của thuyết tam giác mở rộng và thuyết tứ diện
Như đã nói, tam giác bất khả thi của Mundell chỉ tập trung đến các đỉnh (hay góc) của
tam giác. Điều này đồng nghĩa với sự thừa nhận, thế giới chỉ tồn tại 3 cơ chế tỷ giá tương ứng
- 17 -
với ba góc tam giác: cam kết tỷ giá thả nổi tự do, cam kết tỷ giá cố định, và liên minh tiền tệ
(Eichengreen, 1994,1998; Obstfeld và Rogoft 1995). Eichengreen (1994) nói: “ .. Các quy định
chính sách bất ngờ làm thất bại các mục tiêu tỷ giá không bao giờ tồn tại trong thế kỉ 20… Các
quốc gia…sẽ buộc phải lựa chọn giữa hoặc một tỷ giá thả nổi hoặc một liên minh tiền tệ” . Dựa
trên luận điểm cho rằng: luân chuyển dòng vốn càng cao sẽ làm tổn thương các cam kết tỷ giá,
Obstfeld và Rogoff (1995), Summers (2000) và Fisher (2001) đã nâng lên thành giả thiết “lưỡng
cực - bipolar” hoặc giả thiết “ không có vùng trung gian- intermediate hollowing - out”.
Nghĩa là cơ chế tỷ giá trung gian nằm giữa cơ chế tỷ giá cố định và cơ chế thả nổi tự do không
thể được duy trì. Do đó, theo quan điểm của các tác giả này: trong tương lai chúng ta sẽ không
thấy sự xuất hiện của các cơ chế tỷ giá trung gian. Các cơ chế tỷ giá trung gian bao gồm: tỷ giá
cố định có thể điều chỉnh, tỷ giá cố định theo kiểu con rắn trườn (Crawling pegs), hoặc dải băng
(band), và kể cả thả nổi có quản lý.
Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế không đồng ý với giả thuyết “không có vùng trung gian”. Ví
dụ, Frankel (1999) tin rằng, đối với nhiều quốc gia, giải pháp trung gian là phù hợp hơn so với
giải pháp ở góc. Điều này là đúng, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển để dòng vốn
có quy mô lớn không trở thành vấn đề. Sử dụng chuỗi Markow (Markov chains) và các ma trận
quá độ (transition matrices) cho đồng thời cả loại dữ liệu Ghosh (Ghosh et al Data), dữ liệu Levy
Yeyati và Sturzenegger, Masson (2000) để kiểm tra giả định “lưỡng cực-bipolar” hay “ không có
vùng trung gian”. Kết quả, giả định trên bị bác bỏ bởi cả hai loại dữ liệu. Thực sự đối với các
quốc gia đang phát triển, thả nổi tự do không hẳn là một chọn lựa đúng vì không có thị trường tài
chính phát triển. Kết quả là, cơ chế tỷ giá tại các nước đang phát triển không cần thiết phải ổn
định, mà có thể thay đổi giữa nhiều loại cơ chế tỷ giá trung gian khác nhau, phụ thuộc vào tình
hình tăng trưởng kinh tế, lạm phát, và các cú sốc từ bên ngoài.
1.3.2.Thuyết tứ diện
Thuyết tam giác mở rộng của Yigang và Tangxian (2001) thực sự đã chuẩn hoá tam giác
bất khả thi của Mundell. Tuy nhiên, giống như mô hình của Mundell, lý thuyết này chưa xem xét
đến sự khác nhau về khả năng vay mượn nước ngoài bằng nội tệ trong các nền kinh tế khác nhau
sẽ tác động trực tiếp đến biến động tỷ giá. Hausmann (2000) phát hiên ra một mối quan hệ vững
chắc giữa mẫu hình thả nổi tỷ giá của một quốc gia với khả năng vay mượn quốc tế bằng nội tệ
của quốc gia đó. Cụ thể, quốc gia nào có khả năng vay mượn nước ngoài bằng nội tệ nhiều hơn
có khuynh hướng nắm giữ mức dự trữ ngoại hối nhỏ hơn, và cho phép tỷ giá biến động cao hơn
so với biến động trong dự trữ ngoại hối hoặc lãi suất. Hausmann cũng phát hiện một bằng chứng
yếu hơn và ít bền vững hơn về tầm quan trọng của tác động tỷ giá đến giá cả (exchange rate
pass-through) như là một yếu tố xác định sự khác nhau trong quản lý tỷ giá của các quốc gia.
- 18 -
Guobing Shen (2004) đã đưa biến số khả năng vay mượn nước ngoài bằng đồng nội tệ vào các
yếu tố khác để xác định việc lựa chọn cơ chế tỷ giá, và đã mở rộng tam giác bất khả thi của
Mundell thành thuyết tứ diện.
Hình 1.5: Thuyết tứ diện
Trong hình 1.5, chúng ta có một tứ diện đều. Đặt mặt dưới C tượng trưng cho khả năng
vay mượn nước ngoài bằng đồng nội tệ; mặt M bên trái tượng trưng cho chính sách tiền tệ độc
lập hoàn toàn; mặt đối diện K tượng trưng cho dòng vốn lưu động hoàn toàn; mặt phải E tượng
trưng cho sự ổn định tỷ giá. Giống như trước đây, chúng ta có tổng khoảng cách từ bất kỳ điểm
O nào đến các mặt của tứ diện đúng bằng chiều cao của tứ diện. Đặt Cb, Ms, Kc và Ev là khoảng
cách từ điểm O đến bốn mặt, lần lượt tượng trưng cho khả năng vay mượn nước ngoài bằng nội
tệ, mức độ độc lập tiền tệ, mức độ kiểm soát vốn và mức độ biến động tỷ giá. Về phía các góc, 3
góc mà chúng ta đề cập ban đầu là giống như hình trên, chỉ riêng góc A4 thể hiện cho khả năng
cao nhất để vay mượn quốc tế bằng đồng nội tệ. Để đơn giản, đặt chiều cao của tứ diện Mh=1,
thì sau đó 0<= Cb, Ms, Kc hoặc Ev<=1 và Cb+Ms+Kc+Ev=1.
Chúng ta lần lượt xét các trường hợp sau: (Xem bảng 1.3 trong phụ lục 1.2)
Trường hợp 1: Khi Cb=0, tức là không có khả năng vay mượn nước ngoài bằng đồng nội tệ, thì
Ms +Kc+Ev=1.
- Đầu tiên, khi Kc=0 thì Ms+Ev=1. Ở đây có ba khả năng: nếu Ms=0, thì Ev=1; nếu
Ms=1 thì Ev=0; nếu 0<Ms<1 thì 0<Ev<1. Như vậy, ba sự kết hợp có được là: (1) không có khả
năng vay mượn nước ngoài ∩ dòng vốn lưu động hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn
toàn ∩ tỷ giá thả nổi tự do; (2) không có khả năng vay mượn nước ngoài ∩ dòng vốn lưu động
hoàn toàn ∩ mất đi tính độc lập trong chính sách tiền tệ ∩ tỷ giá cố định. (3) không có khả năng
vay mượn nước ngoài ∩ dòng vốn lưu động hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩
tỷ giá thả nổi có giới hạn.
- Thứ hai, khi Kc=1, thì Ms+Ev=0. Ở đây Ms= 0 và Ev=0, nghĩa là: không có khả năng
vay nợ nước ngoài ∩ kiểm soát vốn hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố
định. Đây là sự kết hợp thường thấy trong các nước đang phát triển với thị trường tài chính yếu
kém.
- 19 -
- Thứ ba, khi 0<Kc<1, thì 0<Ms+Ev<1. Ở đây, nếu Ms=0, thì 0<Ev<1; nếu 0<Ms<1 thì
sau đó 0 <Ev<1 hoặc Ev=0. Như vậy, có ba sự kết hợp khác: (1) không có khả năng vay mượn
nước ngoài ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả
nổi có giới hạn; (2) không có khả năng vay nước ngoài ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính
sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ gía thả nổi có giới hạn; (3) không có khả năng vay nước
ngoài ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá cố đinh.
Trường hợp 2: Khi Cb=1, điều này nghĩa là có khả năng cao nhất để vay nước ngoài bằng nội
tệ, chúng ta sẽ có Ms+Kc+Ev=0. Vì 0<=Ms, Kc hoặc Ev<=1, nên Ms=0, Kc=0 và Ev=0, chúng
ta có sự kết hợp: Hoàn toàn có khả năng vay nước ngoài ∩ lưu đông dòng vốn hoàn toàn ∩ chính
sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố định. Thực tế, cơ chế tỷ giá dưới chế độ chuẩn vàng cổ
điển (classical gold standard) thuộc về sự kết hợp kiểu này.
Trường hợp 3: Khi 0<Cb<1, nghĩa là khả năng vay nước ngoài bằng nội tệ có giới hạn, thì
0<Ms+Kc+Ev<1.
- Đầu tiên, khi Kc=0, thì 0<Ms+Ev<1. Ở đây nếu Ms=0, thì 0<Ev<1; nếu 0<Ms<1 thì
0<Ev<1 hoặc Ev=0. Có ba kết hợp là : (1) khả năng vay nước ngoài có giới hạn ∩ dòng vốn lưu
động hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn; (2) khả năng
vay nợ có giới hạn ∩ dòng vốn lưu động hoàn toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ
gía thả nổi có giới hạn; (3) khả năng vay nợ nước ngoài có giới hạn ∩ dòng vốn lưu động hoàn
toàn ∩ chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá cố định.
- Thứ hai, khi 0<Kc<1, thì 0<Ms+Ev<1, hoặc Ms+Ev=0. Ở đây, nếu Ms=0, thì 0<Ev<1;
nếu 0<Ms<1, thì 0<Ev<1 hoặc Ev=0; và Ms=0 và Ev=0. Có 4 kết quả là: (1) khả năng vay nước
ngoài có giới hạn ∩ lưu động vốn có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá thả
nổi có giới hạn; (2) khả năng vay nợ nước ngoài có giới hạn ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩
chính sách tiền tệ độc lập có giới hạn ∩ tỷ giá thả nổi có giới hạn; (3) khả năng vay nợ giới hạn
∩ dòng vốn lưu động giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập giới hạn ∩ tỷ giá cố định; (4) khả
năng vay nợ có giới hạn ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn
toàn ∩ tỷ giá cố định.
So sánh những kết hợp lựa chọn cơ chế tỷ giá trong bảng 1.2 và bảng 1.3, chúng ta thấy
tam giác bất khả thi của Mundell chỉ là một trường hợp đặc biệt của thuyết tứ diện với Cb=0. Khi
Cb=0, hàm ý quốc gia đó không có khả năng vay nợ nước ngoài bằng nội tệ, góc thứ tư là A4 và
ba cạnh sẽ không xuất hiện trong mặt dưới C. Do đó tứ diện đều trở thành tam giác đều (hình
1.6).
- 20 -
Hình 1.6: Tam giác bất khả thi là trường hợp đặc biệt của Thuyết tứ diện
1.4.CÁC HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Như đã nói lúc đầu, nghiên cứu lý thuyết bộ ba bất khả thi đem lại cho chúng ta một cách
nhìn về những biến động gần đây trong các biến số kinh tế vĩ mô của VN. Vậy những hàm ý của
lý thuyết bộ ba bất khả thi đối với VN là gì?
1.4.1.Chính sách tiền tệ chưa hợp lý
Hàm ý của mô hình Mundell-Fleming đã chỉ ra rằng, chính sách tiền tệ tỏ ra kém hiệu
quả trong chế độ tỷ giá cố định và một chính sách tài khoá lại tỏ ra hiệu quả hơn. Nói như vậy,
không có nghĩa là không nên thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng. Mô hình Mundell-
Fleming cho thấy nếu kết hợp cả hai chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng thì có thể làm gia
tăng sản lượng quốc gia một cách bền vững (chính là điểm H trong hình 1.1).
Chính sách tỷ giá của VN trong thời gian qua là cố định. Nhằm thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ mở rộng không phải là sai lầm như hàm ý của mô hình
Mundell, vì một nền kinh tế tăng trưởng đòi hỏi cung tiền tăng để hỗ trợ. Tuy nhiên, Việt Nam
mắc sai lầm khi mở rộng cung tiền một cách thái quá. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ
đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6/2007, GDP VN tăng 22% trong khi mức cung tiền lên đến
110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29% nhưng mức cung tiền chỉ tăng
50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền Thái Lan là hầu như không đáng kể (xem
hình 1.7). Chính sách tiền tệ mở rộng quá mức, một mặt, nó không hữu hiệu để làm gia tăng
GDP như hàm ý của mô hình Mundell-Fleming; mặt khác, nó là một tác nhân làm gia tăng lạm
phát. Điều này cho thấy một sai lầm trong chính sách điều hành tiền tệ của VN. Có vẻ như những
hàm ý của mô hình Mundell-Fleming nên được các nhà hoạch định chính sách tìm hiểu kỹ hơn.
- 21 -
Hình 1.7: Sự mở rộng cung tiền của VN so với các nước
1.4.2.Linh hoạt trong cơ chế tỷ giá
Nghiên cứu trên chỉ ra rằng, chính sách tỷ giá tại các nước đang phát triển không cần
thiết phải ổn định mà có thể biến đổi giữa các cơ chế tỷ giá trung gian. Điều này có nghĩa là tuỳ
từng bối cảnh kinh tế mà đưa ra chính sách tỷ giá phù hợp. Chính sách tỷ giá cũng như các chính
sách kinh tế khác không phải là quyết định một lần và mãi mãi, nó phải được áp dụng linh hoạt
cho các tình huống khác nhau. Trong bối cảnh xu hướng hội nhập tài chính, cơ chế tỷ giá cần
hướng đến một cơ chế linh hoạt hơn. Tuy nhiên, đối với VN, việc linh hoạt tỷ giá sẽ tác động
đến xuất khẩu và TTCK, nên các chương sau sẽ nghiên cứu tính khả thi của vấn đề này.
1.4.3.Thực hiện chính sách vô hiệu hoá
Trong mô hình Mundell-Fleming, để đạt được cả 3 mục tiêu NHTW có thể thực hiện
chính sách vô hiệu hoá. Trung Quốc, một hiện tượng được xem là thành công trong bộ ba bất
khả thi cũng sử dụng cách thức này. Tuy nhiên, trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ chỉ ra rằng, để
thực hiện một chính sách vô hiệu hoá là một điều khó khăn và chính sách vô hiệu hóa ngày càng
trở nên không hiệu quả. Do đó, chúng tôi đề nghị chỉ nên sử dụng chính sách vô hiệu hóa như là
một công cụ hỗ trợ và linh hoạt trong ngắn hạn. Vấn đề này sẽ được đề cập thêm ở Chương 2.
1.4.4.Khuyến nghị 1: Tăng cường khả năng vay nợ quốc gia bằng nội tệ
Mô hình tam giác bất khả thi mở rộng và thuyết tứ diện đã chỉ ra các kết hợp khác nhau
giữa các mục tiêu. Nhận thấy rằng, bằng việc tăng cường khả năng vay nợ quốc gia, chúng ta có
thể tiến đến một sự kết hợp chính sách tốt hơn như trong trường hợp (4): khả năng vay nợ có
giới hạn ∩ dòng vốn lưu động có giới hạn ∩ chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn ∩ tỷ giá cố
định. Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì một chính sách tiền tệ độc lập hoàn toàn và một tỷ giá
có lợi cho xuất khẩu nếu tăng cường thêm khả năng vay nợ quốc gia bằng nội tệ.
Thực tế trong thời gian qua, giải pháp này còn chưa được đề cập đến trong hệ thống các
giải pháp chống lạm phát và xem ra còn khá xa lạ. Năm 2007, thị trường trái phiếu chính phủ
phát hành bằng đồng nội tệ của VN tăng trưởng mạnh nhất khu vực Đông Á (83%), với lượng
lưu hành khoảng 8,3 tỷ USD. Tuy nhiên, tỷ trọng trái phiếu nội tệ lưu hành của VN so với GDP
- 22 -
còn rất thấp. Tính chung cho tất cả thị trường trái phiếu Đông Á mới nổi, thị trường trái phiếu
nội tệ lưu hành chiếm 63% GDP. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ này là cao nhất, đạt 136,5% GDP trong khi
tỷ lệ này ở VN là 13,7%.(Xem thêm phụ lục để hiểu thêm về thực trạng trái phiếu của VN).
- 23 -
CHƯƠNG 2:
BÀI HỌC TỪ NGƯỜI LÁNG
GIỀNG PHÍA BẮC - TRUNG QUỐC ĐẠI LỤC
Ở chương 1, chúng ta đã tìm hiểu về lý thuyết bộ ba bất khả thi. Trong chương này,
chúng tôi tiến hành khảo cứu TQ nhằm mục đích: xem xét lý thuyết bộ ba bất khả thi hoạt động
như thế nào ở TQ, dựa trên kết quả khảo cứu về TQ chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị để giải
quyết các vấn đề thực tiễn ở VN.
Để xem xét tác động của lý thuyết bộ ba bất khả thi ở TQ, việc khảo cứu sẽ được xét đến
trên 3 khía cạnh: mức độ kiểm soát vốn, cơ chế tỷ giá, và sự độc lập của chính sách tiền tệ của
TQ khi thực hiện tự do hoá tài khoản vốn dưới cơ chế tỷ giá cố định.
2.1.TRUNG QUỐC TIẾN HÀNH KIỂM SOÁT TÀI KHOẢN VỐN (1979 - 1996)
Từ khi đưa ra chính sách cải cách và mở cửa nền kinh tế vào năm 1979, TQ đã có những
đột phá trong cải cách cơ chế kiểm soát vốn. Năm 1994, TQ đưa ra các biện pháp cải cách mạnh
tay nhằm xây dựng lại hệ thống kiểm soát ngoại hối, và dẫn đến việc thành lập các hệ thống như:
Mua và giao nộp ngoại hối thông qua các ngân hàng chỉ định; thị trường ngoại hối liên ngân
hàng. Tháng 12/1996, TQ thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng NDT cho các giao dịch tài
khoản vãng lai, và loại bỏ tất cả các hạn chế về quy định, số lượng ngoại tệ sử dụng cho các giao
dịch tài khoản vãng lai.
2
Nhưng trên thực tế, TQ vẫn đang tiếp tục duy trì một sự kiểm soát nhất định đối với các
giao dịch ngoại hối trong tài khoản vốn, bao gồm các hạn chế cho dòng vốn quốc tế cũng như
kiểm soát về quy định và số lượng đối với việc chuyển đổi giữa đồng NDT và các ngoại tệ khác.
Trong các loại giao dịch, các hạn chế đối với tài khoản vốn chủ yếu thể hiện trong 3 khía cạnh:
- Các hạn chế đối với NĐTNN tiếp cận thị trường tài chính nội địa và các hạn chế cho nhà
đầu tư nội địa tiếp cận thị trường tài chính nước ngoài.
Trong quá trình mở cửa thị trường vốn đối với NĐTNN, chính quyền TQ đã và đang theo
đuổi một chiến lược mang tên “ Phân khúc thị trường theo từng loại nhà đầu tư”. Theo đó, các
NĐTNN chỉ được cho phép mua các cổ phần, các công cụ nợ định danh bằng ngoại tệ trên cả thị
trường nội địa và nước ngoài, bao gồm: thị trường cổ phần B, cổ phần H, cổ phần Red chip, và
2
Năm 1996, Trung quốc chính thức chấp nhận các nghĩa vụ của Khoản 3, mục 2, 3,4 Thoả Thuận của IMF (IMF
Article III Agreements, sections 2,3,4) năm 1996. Đây là một thoả thuận nhằm đưa ra các cam kết về biện pháp
kiểm soát dòng vốn quốc tế.
- 24 -
các trái phiếu bằng ngoại tệ ở nước ngoài, nhưng không được phép mua các cổ phần A, trái
phiếu và các công cụ thị trường tiền tệ định danh bằng đồng NDT
3
.
- Các hạn chế đối với việc vay nợ nước ngoài.
TQ quy định các doanh nghiệp nội địa cần đáp ứng một số tiêu chuẩn khi vay nợ nước
nước ngoài. Những khoản vay này phải có được sự chứng nhận của các cơ quan chức năng có
liên quan, cũng như các điều kiện vay phải được xem xét và chấp thuận bởi SAFE.
- Các hạn chế đối với đầu tư trực tiếp.
Đối với các NĐTNN, không có hạn chế được đặt ra cho các hoạt động đầu tư trực tiếp
của họ vào TQ ngoại trừ việc phải tuân thủ các hướng dẫn chính sách ngành do chính phủ TQ
ban hành. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư trực tiếp ra bên ngoài do các tổ chức trong nước thực
hiện phải được sự chấp thuận của cơ quan chính phủ có liên quan; nguồn ngoại tệ cần thiết để
thực hiện đầu tư ra nước ngoài đó cần được đánh giá, phê chuẩn bởi SAFE.
Nói tóm lại, TQ sử dụng biện pháp kiểm soát vốn trực tiếp với tài khoản vốn. Theo đó,
các hạn chế chủ yếu dựa trên việc phê chuẩn hành chính và giới hạn về số lượng. Tuy nhiên, các
đối tượng khác nhau và bộ phận khác nhau trong dòng vốn đều có mức độ kiểm soát vốn khác
nhau. Ví dụ, có ít hạn chế hơn đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các định
chế tài chính trong nước, nhưng lại có nhiều hạn chế hơn đối với các doanh nghiệp nội địa. Hoặc
ngay trong tài khoản vốn, các giới hạn đối với dòng vốn FPI cũng khắt khe hơn rất nhiều so với
dòng vốn FDI.
2.2.QÚA TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ VÀ XU HƯỚNG TỰ DO HOÁ TÀI KHOẢN
VỐN CỦA TRUNG QUỐC (GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY)
2.2.1.Áp lực mở cửa nền kinh tế tạo nên xu hướng tự do hoá tài khoản vốn
Đây là giai đoạn mà nền kinh tế TQ tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh và hội nhập
nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới. Mức độ mở cửa của nền kinh tế TQ là 0,7 thuộc vào mức
cao
4
. Do vậy TQ nhanh chóng trở thành một nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong vài
năm gần đây, TQ đã trở thành điểm đến hàng đầu cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. FDI của TQ
tăng từ 40 tỷ USD (năm 1997) lên đến 67 tỷ USD (năm 2007), và là quốc gia thu hút dòng vốn
FDI lớn nhất trong số các quốc gia đang phát triển (chiếm 10% lượng vốn FDI toàn cầu).
3
Xem phần phụ lục 2.2 để biết thêm về cách phân chia các cổ phần ở Trung Quốc.
4
Mở cửa thương mại được tính bằng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP vào năm 2004. Xem hình 2.1.