Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHỮ VIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.07 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
1.3. Mục tiêu của giải pháp
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp
1.5. Phương pháp thực hiện
1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP

2.1. Quá trình hình thành giải pháp
2.2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
2.3.Nội dung của giải pháp mới
3. HIỆU QUẢ GIẢI PHÁP
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp
3.2.Hiệu quả đạt được
3.3.Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
4.2. Đề xuất, khuyến nghị

TRANG
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 5


Trang 6
Trang 6
Trang 7
Trang 7- 14
Trang 14
Trang 14
Trang 14
Trang 15
Trang 15
Trang 15
Trang 16
Trang 16

1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.1 Sự cần thiết hình thành giải pháp:
Hạnh phúc nhất của trẻ là được đến trường được học đọc, học viết. Biết
đọc biết viết là một thế giới rộng mênh mông sẽ mở ra trước mắt các em. Học
vần, tập đọc giúp trẻ đọc thông thì tập viết giúp trẻ viết thạo. Đọc thông mở
đường cho viết thạo, viết thạo giúp trẻ viết nhanh, viết rõ ràng những điều

Trang: 1


thầy cô giảng và những điều trẻ suy nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những
dòng chữ đều thẳng tắp, không bị giây mực quăn mép, lòng ta tràn ngập niềm
vui. Nhưng muốn viết thạo trẻ phải cố gắng rèn luyện dưới sự dạy bảo tận
tình của thầy cô giáo.
- Ngoài những ý nghĩa to lớn nói trên, tập viết với những quy tắc chặt
chẽ, trước những mẫu chữ đẹp còn là môi trường bồi dưỡng cho trẻ những
phẩm chất tốt như: Tính cẩn thận, tính kĩ luật mà Thủ Tướng Phạm Văn

Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học
sinh viết, đúng viết đẹp, viết cẩn thận cũng là góp phần rèn luyện cho học
sinh, tính cẩn thận tính kĩ luật, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với
thầy với bạn mình”.
- Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy chữ viết của các em còn xấu, tốc
độ viết chậm, chữ viết cẩu thả, chưa đúng cỡ chữ, độ cao con chữ, khoảng
cách giữa tiếng với tiếng, từ với từ chưa xác định cụ thể, viết chưa liền
mạch.... Điều đó ánh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tiếng Việt nói
riêng và các môn học khác nói chung.
1.2 Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp:
Giáo viên nêu được cần làm gì để khắc phục việc rèn luyện chữ viết đẹp
cho học sinh lớp một ở Tiểu học. Giúp giáo viên hiểu được mục tiêu cụ thể
trong từng giờ dạy tập viết cho học sinh.
Giúp học sinh hiểu được những việc cần làm để có biện pháp khắc phục
rèn luyện chữ viết và ý thức giữ vỡ sạch
Qua môn học này giúp giáo viên hình thành ở học sinh phẩm chất, đạo
đức, tính cẩn thận, ngăn nắp sạch sẽ, giúp giáo viên hình thành và rèn luyện
chữ đẹp cho học sinh một kỹ năng cơ bản về chữ viết .

Trang: 2


Xác định mục tiêu dạy học môn tập viết , những vấn đề nêu trên là tổng
quan của nội dung cơ bản , vấn đề tìm ra các biện pháp khắc phục dạy tập viết
ở lớp 1 cấp Tiểu học.
1.3 Mục tiêu của giải pháp.
Hiện nay nền giáo dục nước nhà đang vươn mình lên tầm cao hơn để
sánh vai với nền giáo dục của các nước trong cùng khu vực. Vì vậy vấn đề
dạy Tiếng Việt ở tiểu học luôn được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên không
phải cứ đến trường là học sinh nào cũng học tốt mà có rất nhiều nguyên nhân

dẫn đến việc cũng có một số em học yếu môn Tiếng Việt như là đọc còn đánh
vần ê a, viết nét ngã, nét nghiêng, từ việc đọc không tốt dẫn đến viết sai. Từ
việc học yếu môn Tiếng Việt sẽ gây hậu quả lớn là học yếu kém luôn ở các
môn học khác. Vì vậy mục đích của đề tài này là đưa ra những phương pháp
thích hợp để rèn học sinh lớp 1 viết đúng và đẹp.
1.4 Căn cứ đề xuất của giải pháp:
+ Thuận lợi:
- Đựơc sư quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường.
- Bản thân giáo viên nhiệt tình, say mê với công việc rèn chữ, luôn coi
trọng chữ viết, lúc nào cũng có ý thức rèn chữ, chữ viết của giáo viên đúng
mẫu đẹp, luôn tham khảo sưu tầm những mẫu chữ đẹp để tham khảo, rèn cho
học sinh. Gia đình các em rất quan tâm đến việc học tập của các em. Đầu
năm học, phụ huynh đã mua đầy đủ đồ dùng sách vở, đồ dùng học tập cho
em. Nhiều phụ huynh đã dành thời gian để kèm cặp thêm cho các em học tập
ở nhà
- Cơ sở vật chất đầy đủ, bảo đảm cho việc dạy – học của giáo viên và học
sinh như phòng học, ánh sáng, bàn ghế, đồ dùng cho môn họ
- Về phía học sinh: nhìn chung học sinh chăm ngoan học tập, luôn chú ý
đến chữ viết, đến sách vở của mình.

Trang: 3


+ Khó khăn:
- Cách cầm bút, cách ngồi viết chưa đúng dẫn đến viết xấu, viết sai…
- Học sinh chưa nắm được quy rình viết chữ, đôi khi còn viết ngược
- Có một số học sinh tiếp thu chậm, chưa thuộc hết các chữ cái. Lại còn lười
- Có những em chưa biết viết, không xác định được dòng kẻ, ngồi viết
chưa đúng tư thế vì còn mải chơi nghịch ngợm.
- Các em chưa xác định được điểm đặt bút điểm dừng bút khi viết chữ.

- Chưa xác định được khoảng cách viết giữa các con chữ và các chữ trong
từ..
- Viết nét nối giữa các con chữ (ch, tr, nh, ph, ng, ngh, gh, gi) chưa
đúng chưa đẹp…
- Mặt khác các em chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học
nhiều hơn, phải viết nhiều mỏi tay các em nản trí khi viết…
- Học sinh không có nề nếp thói quen tốt trong khi viết, trình bày bài
vở.
1.5 Phương pháp thực hiện
Vào học được 1 tháng tôi phân loại chữ viết của học sinh phát hiện ra
những ưu điểm, nhược điểm về chữ viết của từng học sinh.
- Xếp chỗ ngồi cho phù hợp với từng đối tượng học sinh
- Trong giai đoạn học và tập viết âm, giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh thực hiện đúng quy định khi viết chữ.
- Muốn viết đúng thì phải đọc thành thạo các âm, vần tiếng từ, câu, bài
tập đọc đã học.
1.6 Đối tượng và phạm vi áp dụng:
Qua quá trình giảng dạy trực tiếp tại lớp 1 và qua tìm hiểu tình hình học
sinh viết chữ chưa đúng mẫu ở các lớp, tôi nhận thấy rằng hầu như lớp nào
cũng tồn tại một số học sinh yếu nguyên nhân chính là do các em tiếp thu bài

Trang: 4


chậm, đọc không tốt dẫn đến viết cũng không tốt. Vì vậy tôi đã đi tìm hiểu
qua tài liệu, trao đổi kinh nghiệp với đồng nghiệp để tìm ra một số phương
pháp nhằm giúp các em có tiến bộ trong chữ viết. Chính vì thế tôi đã chọn các
em học sinh lớp 1 mà mình trực tiếp giảng dạy làm đối tượng nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của giáo dục hiện nay
nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và học. Đổi mới chính là phải thực hiện

phương pháp giảng dạy tăng cường tính phát huy tính sáng tạo, chủ động của
học sinh trong lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên để đưa ra những phương pháp
dạy học có tính tích cực mà bất kì một học sinh nào cũng lĩnh hội được là một
điều vô cùng khó với người giáo viên. Nó đòi hỏi người giáo viên phải nổ lực,
kiên trì tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những biện pháp dạy học thích hợp với
đặc trưng học sinh lớp mình.
Qua thực tế giảng dạy một thời gian tại lớp 1 đầu năm của tôi, tôi nhận
thấy lớp mình có nhiều học sinh yếu môn Tiếng Việt nhất là yếu phần chữ
viết. Với trách nhiệm và lương tâm của một nhà giáo tôi nhất quyết không để
tình hình học sinh yếu vì thế tôi đã tìm hiểu rất nhiều về cách dạy học tốt môn
Tiếng Việt nói chung và môn tập viết nói riêng. Không chỉ nghiên cứu điều
tra cách học rèn chữ viết ở khối một mà tôi cũng tiến hành tìm hiểu cách rèn
chữ viết ở các khối khác. Nhờ vậy, tôi đã tìm ra một bí quyết nhỏ để hướng
dẫn các em học sinh lớp một của tôi rèn viết đúng và đẹp.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
2.1 Quá trình hình thành nên giải pháp:
- Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở
Tiểu học nhất là đối với học sinh lớp Một. Tập viết trang bị cho học sinh bộ
chữ cái Tiếng việt và những yêu cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong

Trang: 5


học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu
của việc học Tiếng Việt trong nhà trường đó là kỹ năng viết chữ.
- Dạy tâp viết cụ thể là dạy học sinh những khái niệm cơ bản về đường
kẻ dòng kẻ, hình dáng tên gọi các nét, độ cao cỡ chữ, cấu tạo chữ cái, vị trí
dấu thanh dấu phụ, các khái niệm liên kết chữ cái…Từ đó hình thành cho các
em về hình dáng độ cao, sự cân đối tính thẩm mỹ của chữ viết.
- Dạy học sinh biết những kỹ năng và thao tác viết chữ từ đơn giản đến

phức tạp bao gồm những kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên kết
chữ cái tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí
cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu rõ ràng và cao hơn
là viết nhanh viết đẹp. Ngoài ra tư thể ngồi viết, cách cầm bút để vở, cách
trình bày bài viết cũng là một kỹ năng đặc thù của việc dạy tập viết mà giáo
viên cần thường xuyên quan tâm. Bên cạnh đó giáo viên cần nắm vững
chương trình tập viết hiện hành của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo để không những
nâng cao chất lượng dạy viết chữ mà còn phối hợp với các hợp phần khác
nhằm phát huy vai trò công cụ của việc Tập viết
2.2 Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn
- Học sinh lớp Một ngày đầu tiên đi học ở trường phổ thông còn rất nhiều
bỡ ngỡ. Việc làm quen với chữ viết đối với các em thật là khó khăn bởi đôi
tay còn vụng về, lóng ngóng. Là giáo viên lớp Một đã lâu năm, tôi luôn trăn
trở một câu hỏi : Ở lớp một có nên tiến hành dạy các em viết chữ đẹp ngay
không? Sau nhiều năm kinh nghiệm qua việc giảng dạy môn Tiếng Việt tôi
nhận thấy rằng đối với học sinh lớp một nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết
đúng viết đẹp ngay là một điều không thực tế, khó có thể thực hiện được. Do
vậy đối vối từng lớp giáo viên cần lựa chọn mục tiêu trọng tâm của môn học
phù hợp với lứa tuổi để học sinh tiếp thu bài một cách vững chắc nên tôi đã
xác định muốn viết chữ đẹp thì đầu tiên phải làm ở lớp Một là rèn kỹ năng

Trang: 6


viết chữ đúng cho các em, thì mới có cơ sở để viết chữ đẹp. Đó chính là yêu
cầu có tính quyết định trong việc rèn chữ đẹp cho suốt quá trình học tập của
học sinh
2.3 Nội dung của giải pháp mới:
2.3.1 Biện pháp thứ nhất:


+ Chuẩn bị mọi điều kiện để học sinh viết đúng:
- Những điều kiện về cơ sở vật chất:
Ánh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
- Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức
khoẻ của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong nội thành đều
đảm bảo các yêu cầu cơ bản. ánh sáng theo tiêu chuẩn học đường, có bảng
chống loá, có dòng kẻ rõ ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học
sinh lớp 1.
Đồ dùng học tập của học sinh:
Từ loại bút và mực thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết
cũng được tôi lưu tâm đến. Hướng dẫn học sinh, phụ huynh tìm mua cho các
em những quyển vở có đường kẻ đều, rõ ràng và khi viết không bị nhoè mực.
Đối với vở tập viết có nhãn vở, có tờ lót tay khi viết để thấm mồ hôi ở tay ra
giấy .
Có nhiều học sinh được bố mẹ mua cho bảng làm chất liệu mêca màu
trắng, dùng bút dạ viết bảng. Dùng loại bảng và bút này có nhiều hạn chế:
bảng trơn, học sinh viết không chủ động, mực ra đậm nhạt không đều, khi xoá
dễ gây bẩn, mất vệ sinh. Hơn nữa, do bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh
khiến các em khó điều khiển ngòi bút khi viết chữ.
Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển vở,
bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo.
+ Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết:
Trang: 7


Những đồ dùng dạy Tập viết hiện nay:
Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không
nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những
đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về
chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong

quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng
trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố
bài học.
- Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo
trên lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ
động sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả
những môn học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ.
- Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên.
+ Tư thế ngồi và cách cầm bút:
Để giúp các em viết được những nét chữ đúng mẫu, đẹp cần hướng dẫn
cả lớp tư thế ngồi viết: Tư thế ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không được tì
ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 - 30 cm. Tư
thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi
nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế
còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu cúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi
bị ảnh hưởng... nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc
biệt là giờ học Tập viết, tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết.
Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút
và cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: Khi
viết, cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay
phải, Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái phía bên trái, phía bên phải

Trang: 8


của đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm
bút vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển
bút khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở.
Còn vở viết khi viết bài, tôi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở.

Những yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đó góp phần
tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh
+ Cách để vở, xê dịch vở khi viết :
- Khi viết chữ đứng học sinh cần để vở ngay ngằn trước mặt, nếu tập viết
chữ nghiêng cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép
bàn tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy dù viết theo kiểu chữ đứng hay
chữ nghiêng, nét chữ luôn phải đúng mẫu và đẹp.
2.3.2 Biện pháp thứ hai:

+ Nắm vững các yêu cầu cơ bản khi dạy học sinh tập viết:
- Phần dạy học sinh các nét cơ bản là phần rất quan trọng để học sinh viết
thành các chữ cái. Do đó giáo viên cần hướng dẫn kĩ để học sinh xác định
được vị trí của các dòng kẻ, mỗi đơn vị dòng kẻ trong vở gồm có 5 dòng kẻ
ngang( dòng kẻ thứ nhất đậm hơn, 4 dòng kẻ sau được kẻ nhạt hơn), ta ký
hiệu các đường kẻ trên là đường kẻ số 1, các đường kẻ khác là 2,3,4,5 kể từ
dưới lên trên. Xác định rõ đường kẻ dọc và các ô vuông trong khung chữ, cần
phải hướng dẫn kĩ hơn các kĩ năng.


Điểm đặt bút:
- Là điểm bắt đầu khi viết một nét chữ trong chữ cái. Điểm đặt bút

có thể nằm trên dòng kẻ ngang, hoặc không nằm trên dòng kẻ ngang.


Điểm dừng bút:

- Là vị trí kết thúc của một nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng bút
có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên dòng kẻ ngang.



Viết liền mạch :
Trang: 9


- Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng
trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau. Viết liền mạch là viết tất cả các hình
cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới bắt đầu đặt dấu (Kể
cả dấu phụ của chữ cái và dấu thanh) theo trình tự: dấu phụ trước (từ trái sang
phải), dấu thanh sau:
- Ví dụ: Viết vần ương: Viết liền mạch các hình cơ bản của chữ cái
thành uong, sau đó đặt dấu ( dấu phụ ) trên u, o để thành ương.
- Ví dụ: Viết chữ ghi tiếng mường: Viết liền mạch các nét cơ bản của
chữ cái thành muong, sau đó đặt đặt dấu (dấu phụ) trên u,o và dấu huyền (dấu
thanh) trên ơ để thành mường.


Kỹ thuật lia bút:

- Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết nối giữa các chữ cái với nhau,
nét bút được thể hiện liên tục những dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn)
không chạm vào mặt phẳng viết ( giấy, bảng).


Kỹ thuật rê bút:

- Đó là những trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ
vừa viết. Ở đây xãy ra với trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy
nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau
- Sau khi đã hướng dẫn kĩ các thao tác trên giáo viên cần phải hình thành

cho học sinh nắm chắc tên gọi và cách viết các nét cơ bản.
2.3.3 Biện pháp thứ ba:
+ Rèn viết đúng trọng tâm từ nhóm chữ:
- Nếu cùng một lúc đòi hỏi học sinh viết đúng và đẹp ngay là điều rất khó
thực hiện, mặt khác căn cứ vào đặc điểm cấu tạo nét và mỗi quan hệ về cách
viết các chữ cái để học sinh viết đúng kĩ thuật ngay từ đầu tôi chia nhóm chữ
và xác định chữ trọng tâm đại diện cho mỗi nhóm chữ học sinh hay sai chỗ
nào, học sinh gặp khó khăn gì khi viết các chữ ở nhóm đó

Trang: 10


Nhóm 1: Gồm các chữ m, n, i, u, ư, v, r, t
- Với nhóm chữ này học sinh hay thắc mắc lỗi viết chưa đúng nét nối
giữa các nét, nét móc thường bị đổ nghiêng, khi hất lên thường choãi chân ra
nên không đúng.
- Để khắc phục nhược điểm trên ngay từ nét bút đầu tiên tôi đặt trọng
tâm rèn luyện học sinh viết nét móc ngược, móc hai đầu thật đúng, tật ngay
ngắn trước khi ghép các nét tạo thành chữ. Khi ghép chữ tôi luôn chú ý minh
hoạ rõ nét điểm đặt bút, điểm dừng bút của mỗi nét để chữ viết cân đối, đẹp.
- Từ các nét cơ bản ở nhóm chữ thứ nhất được viết đúng kĩ thuật học
sinh sẽ có cơ sở viết chữ ở nhóm thứ 2 dễ dàng hơn.
Nhóm 2: Gồm các chữ: l, b, h, k, y
- Ở nhóm chữ này học sinh hay viết sai điểm giao nhau của nét và chữ
viết còn cong vẹo.
- Để học sinh viết đúng điểm giao nhau của các nét khuyết tôi luôn cho
học sinh xác định rõ ràng điểm giao nhau của nét khuyết bằng 1dấu chấm nhỏ
và rèn cho học sinh có thói quen luôn đưa bút từ điểm bắt đầu qua đúng chấm
rồi mới đưa bút lên tiếp thì mới viết đúng.
- Đối với học sinh lớp 1để viết được nhóm chữ này thẳng ngay ngắn thì

cần rèn cho học sinh biết viết nét sổ thật đúng, thật thẳng ở ngay các bài nét
chữ cơ bản khi nào thành thạo thì mới tiến hành viết nét khuyết.
Nhóm 3: Gồm các chữ: o, ô, ơ, ă, â
- Với nhóm chữ này nhiều người cứ nghĩ là đơn giản nhưng thực tế hầu
hết học sinh viết sai từ chữ o như chiều ngang quá rộng hoặc quá hẹp, nét chữ
không đều đầu to đầu bé. Chính vì vậy ở nhóm chữ này tôi xác định cần dạy
học sinh viết đúng chữ o để làm cơ sở cho viết đúng các chữ khác trong
nhóm. Vậy thì o viết thế nào cho đúng ? Điểm đặt bút ở đâu ? chiều ngang
chiểm tỉ lệ bao nhiêu so với chiều cao ? Đó là việc làm rất khó để cho học

Trang: 11


sinh xác định được. Vì vậy khi dạy chữ o tôi kẻ một ô vuông trên bảng rồi
chia ra 3 phần bằng nhau, đánh dấu 4 điểm ở giữa các cạnh hình hình chữ
nhật dùng phấn màu chấm hình chữ o sau đó tô lên các dấu chấm vừa tô vừa
giảng kĩ, nhẫn mạnh điểm đặt bút đầu tiên và điểm dừng bút chính là điểm để
viết thêm dấu “,” chữ o và điểm để nổi các nét chữ khác khi viết nhanh. Viết
được chữ o đúng học sinh dễ dàng viết đúng các chữ khác trong nhóm.
* Giai đoạn viết hoa:
- Sau mấy năm dạy chương trình cải cách tôi nhận thấy phần dạy học
sinh làm quen với việc tô chữ hoa và viết chữ hoa còn có sự mâu thuẫn:
Trong sách hướng dẫn quy trình là:
- Giáo viên tô chữ hoa mẫu trên bảng lớp.
- Học sinh viết chữ hoa vào bảng con trước rồi mới tập tô chữ hoa vào vở
nên rất khó khăn cho học sinh, cử đến giờ viết chữ hoa nhiều em lo lắng vì
viết quá khó. Sau khi tìm hiểu tâm lý và thử nghiệm tôi mạnh dạn chuyển đổi
quy trình khác sách hướng dẫn đó là:
- Giáo viên tô màu trên bảng lớp.
- Học sinh tô vào vở.

- Phần củng cố học sinh mới viết vào bảng con.
- Bằng cách suy nghĩ thay đổi quy trình sách hướng dẫn học sinh bớt
căng thẳng và khẩn khới khi đã được tô chữ trước khi tập viết chữ hoa của
học sinh lớp tôi có nhiều tiến bộ.
- Sau khi chia các nhóm chữ, xác định trọng tâm cần dạy kĩ ở mỗi nhóm
tôi luôn đặt ra một kế hoạch rèn chữ hàng tuần, hàng tháng một cách cụ thể.
Mỗi tuần tôi rèn một nhóm chữ nhất định, rèn đúng loại chữ này thì mới
chuyển sang loại chữ khác, loại chữ này viết đúng kĩ thuật mới chuyển sang
loại chữ khác, loại chữ này viết đúng kĩ thuật mới chuyển sang rèn loại chữ

Trang: 12


khác rồi mới tiến tới viết đẹp nên học sinh rất say mê, phấn khới, không lo
lắng, căng thẳng khi tập viết.
- Khi viết thấy mỏi tay mồ hôi tay ra nhiều, hoặc hoa mắt, nhức đầu, có
nghĩa là ngồi quá lâu phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp
như: vươn vai, hít thở, tập thể dục ... Sau 4 đến 5 phút trở lại ngồi viết sẽ có
hiệu quả hơn.
2.3.4. Biện pháp thứ tư:
Sự mẫu mực chữ viết của giáo viên là phương tiện quan trọng để dạy
học sinh viết đúng viết đẹp.
a) Người giáo viên phải coi trọng việc trình bày trên bảng là trang viết
mẫu mực của mình cho học sinh noi theo. Vì vậy việc khổ công rèn luyện,
viết đúng viết đẹp, viết rõ ràng và ngay ngắn là tiêu chỉ mọi giáo viên đều
phải đặt ra và thực hiện bằng được trong từng giờ học, trong từng cách trình
bày bảng sao cho khoa học, đẹp mắt.
b) Ngoài yêu cầu viết đúng, viết đẹp tôi còn luôn chú ý tạo sự thống
nhất trong cách trình bày ở từng phân môn và thể hiện bài dạy. Từ đó quy
định bài viết trong vở của học sinh để tạo ra sự thống nhất, chuẩn mực từ các

chi tiết nhỏ nhất ( gạch chân kẻ hết bài, kẻ hết buổi, cách ghi phân môn,cách
trình bày bài thơ lục bát thơ tự do và bài văn xuôi

3 . HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP:
3.1 Thời gian áp dụng giải pháp
- Sau một thời gian áp dụng biện pháp nêu trên tôi nhận thấy rõ mỗi
tháng chữ viết của học sinh có tiến bộ về chữ viết cụ thể:

Trang: 13


+ Viết tốt đảm bảo chiều cao, độ rộng của các con chữ, đúng tốc độ, biết
cách nối nét trong các con chữ, viết liền mạch, viết đúng khoảng cách giữa
các con chữ trong một chữ, giữa các tiếng trong từ. Tất cả học sinh có ý thức
trong giờ viết bài, các em viết nắn nót cẩn thận đã trở thành một thói quen.
Không những trong phân môn tập viết, mà tất cả các môn học khác , như toán,
những môn làm bài các em đều có ý thức viết cẩn thận. Các em luôn tự giác
học tập, bản thân giáo viên khi dạy cũng thấy hứng thú say sưa nâng cao chất
lượng giờ dạy cao hơn.
- Như chúng ta đã biết nếu dạy cho học sinh lớp Một mà không có kĩ
năng rèn chữ theo từng bước tỉ mỉ thì hiệu quả của việc rèn chữ sẽ không có
hiệu quả, chữ viết của học sinh không đúng mẫu, không đúng độ cao độ rộng,
dẫn đến không có chất lượng, học sinh không hứng thú trong giờ học mà giáo
viên cũng thấy khó khăn áp lực khi dạy học sinh viết chữ.
3.2 Hiệu quả đạt được:
Năm học 2014 - 2015
Thời điểm
Xếp loại A
Xếp loại B
Đầu năm học

2 ( 5,5% )
24 (66,7%)
Học kỳ I
12 (33.3%)
21 ( 58,3%)
Cuối năm học
25 ( 69,4% )
11 ( 30,6 % )
3.3 Khả năng triển khai áp dụng giải pháp:

Xếp loại C
10 ( 27,8% )
3 (8.3% )

Sáng kiến này sẽ áp dụng với tất cả đối tượng học sinh lớp 1 những em
có tổ chất phát triển bình thường.
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp:
- Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy với biện pháp và kết quả
nêu trên : Tôi rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
Để học sinh viết đúng, viết đẹp rất cần ở giáo viên tỉ mỉ uốn nắn cho cả
lớp, cho từng em, sự kiên nhẫn làm đi làm lại nhiều lần với tất cả tấm lòng
yêu thương của giáo viên .

Trang: 14


Mỗi giáo viên phải nắm chắc kiến thức, quy trình kỹ thuật viết chữ để
dạy tốt môn tập viết cho học sinh, phải đưa ra phương pháp dạy học cụ thể để
phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình , tuân theo nguyên tắc từ dễ đến
khó , từ đơn giản đến phức tạp .

Sử dụng phương pháp làm mẫu bắt chước, mỗi giáo viên phải tự rèn
luyện mình từ chữ viết ở bảng ở vở, đến tư thể ngồi viết cách cầm bút để làm
gương nhất là trước mặt học trò.
Trong dạy tập viết cần phải tổ chức trò chơi thi viết nhanh viết đẹp tạo sự
hứng thú rèn luyện cho học sinh.
Sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh với giáo viên sẽ tạo điều kiện về cơ sở
vật chất về mọi mặt giúp ích rất nhiều cho việc nâng cao chữ viết cho học
sinh.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KHUYẾN NGHỊ
4.1 Kết luận:
- Muốn đạt được mục đích mà mình mong muốn thì bản thân phải có
niềm tin, niềm say mê thực sự, luôn kiên trì, nhẫn nại, rèn luyện không
ngừng. Chính niềm say mê ấy sẽ giúp ta có thêm sức mạnh to lớn, cuốn hút ta
đi vào tìm tòi sáng tạo.
- Chữ viết của giáo viên phải đúng mẫu, chuẩn nét, đúng độ cao, kích
thước làm mẫu cho học sinh noi gương.
- Giáo viên dùng hình thức nêu gương em viết chữ đúng và đẹp ở lớp, ở
khối cho học sinh biết. Từ đó học sinh xác định động cơ học tập đúng đắn của
mình. Mặt khác, tự tạo điều kiện để học bạn. Ngoài ra, thường xuyên nhận
xét, tuyên dương sự tiến bộ về chữ viết của học sinh trong từng bài viết để
học sinh thấy sự tiến bộ của mình dù chỉ là một tiến bộ nhỏ. Từ đó, học sinh
có động lực tích cực rèn luyện nhiều hơn nữa.
4.2 Đề xuất, khuyến nghị:

Trang: 15


- Tìm hiểu nguyên nhân từng đối tượng học sinh về kĩ năng cầm bút, tốc
độ viết chữ, cách đưa nét bút,… phân nhóm đối tượng học sinh để kịp thời
uốn nắn, sửa đổi hoặc gặp trực tiếp với phụ huynh để trao đổi giúp đỡ các em

rèn luyện ở nhà.
- Rèn chữ viết cho học sinh là một công việc đòi hỏi người giáo viên
phải kiên trì và nhẫn nại, không nôn nóng, tận tâm nhiệt tình, yêu nghề mến
trẻ. Trong mỗi giờ dạy tạo sự say mê cho bản thân mình cũng như hứng thú
cho học sinh, không những rèn cho các em viết đúng mà tiến tới viết đẹp, với
óc thẩm mỹ năng lực sáng tạo đã giúp con người chúng ta tạo ra nhiều mẫu
chữ để trang trí và phục vụ nhu cầu đời sống con người .
- Phát huy vai trò trách nhiệm của người giáo viên trong việc tự rèn
luyện chữ viết cho bản thân để góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, đồng
thời quan tâm chăm lo chữ viết cho học sinh tiểu học, và đặc biệt hơn là học
sinh lớp Một.
- Huy động sự chú ý quan tâm giúp đỡ của phụ huynh học sinh đối với
việc: “Luyện chữ viết – Rèn nết người”.
- Bản thân giáo viên phải tâm huyết với nghề nghiệp, nhiệt tình, tận
tụy, gần gủi học sinh tạo môi trường thân mật trong quá trình giúp đỡ các em
rèn luyện ở bất kì môi trường nào và làm động cơ thúc đẩy quá trình học tập
thân thiện giữa thầy và trò tránh rào cản khoảng cách vì sợ sệt, tâm lý.
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, thâm nhập quy trình tạo các nét, con
chữ để hướng dẫn học sinh tỉ mỉ về quy trình, kĩ thuật viết.
- Xây dựng phong trào rèn chữ viết xuyên suốt trong năm học và rèn
chữ viết trong tất cả các phân môn. Trong từng buổi học, hằng tuần, hằng
tháng phải có kiểm tra vở, kiểm tra cách viết, cách trình bày chữ viết trong
các loại vở để phân nhóm, khoanh vùng khuyết điểm để kịp thời điều chỉnh
để lần sau không tái phạm và tiến bộ hơn lần trước.

Trang: 16


- Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi về rèn chữ cho
học sinh lớp Một, đặc biệt là rèn kĩ năng viết chữ cho các em mà tôi tôi đã áp

dụng trong nhiều năm có hiệu quả.
- Để thực hiện tốt và đạt hiệu quả trong phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp”
tôi rất mong sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của cấp Lãnh Đạo và các bạn đồng
nghiệp.
Xác nhận đánh giá, xếp loại của đơn vị Bà Rịa, ngày 20 tháng 1 năm 2016
…………………………………………

Tôi xin cam đoan đây là

………………………………………….

SKKN của bản thân tôi viết không

………………………………………….. sao chép nội dung của ai khác.
………………………………………….
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Người viết

( ký tên đóng dấu )
Đoàn Thị Thạch Đức

Trang: 17



×