Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Quan hệ ngoại giao giữa việt nam với trung quốc và pháp dưới thời tự đức (1848 1883)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.71 KB, 38 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------

NGÔ THỊ QUÝ

QUAN HỆ NGOẠI GIAO
GIỮA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC VÀ PHÁP
DƯỚI THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2009

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------NGÔ THỊ QUÝ

QUAN HỆ NGOẠI GIAO
GIỮA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC VÀ PHÁP
DƯỚI THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Nguyễn Văn Khánh

Hà Nội, 2009



2


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ............................................................. 9
5. Những đóng góp của luận văn ..............................................................................13
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................ 14
B. NỘI DUNG ..........................................................................................................16
Chương 1. QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC DƯỚI
THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883) .......................................................................................... 16

1.1 Vài nét về quan hệ Việt Nam và Trung Quốc từ thời Gia Long đến Thiệu Trị ..16
1.2. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1848 đến 1858 ............................... 27
1.3. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ 1858 đến 1883Error!
not defined.

Bookmark

1.3.1. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam ................ Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Triều đình Huế cầu viện Mãn Thanh chống thực dân PhápError! Bookmark
not defined.
1.3.3 Triều Nguyễn yêu cầu Mãn Thanh giúp đỡ tiễu trừ giặc phỉ nước Thanh
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 2. QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ PHÁP DƯỚI THỜI
TỰ ĐỨC (1848 – 1883) ..................................................... Error! Bookmark not defined.


2.1. Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ đầu thế kỷ XIX đến 1848 .................. Error!
Bookmark not defined.
2.2 Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ 1848 đến 1858Error!
defined.

Bookmark

not

2.3. Quan hệ giữa Việt Nam và Pháp từ 1858 đến 1883Error!
defined.

Bookmark

not

Chương 3. VIỆT NAM TRONG MỐI QUAN HỆ TRUNG - PHÁPError! Bookmark
not defined.

3.1. Thực dân Pháp từng bước hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt
Nam ........................................................................... Error! Bookmark not defined.

3


3.2 Phản ứng của nhà Thanh trước cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.3 Trung – Pháp phân chia Việt Nam ...................... Error! Bookmark not defined.
C. KẾT LUẬN ......................................................... Error! Bookmark not defined.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................29
E. PHẦN PHỤ LỤC

4


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, triều Nguyễn tồn tại tuy không dài (1802-1945)
nhưng lại có vị trí hết sức đặc biệt. Đây là triều đại cuối cùng trong lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam, là triều đại gắn liền với thời kỳ có những
chuyển biến lớn lao trong lịch sử dân tộc.
Từ trước đến nay, việc nghiên cứu triều Nguyễn đã thu hút đông đảo học
giả trong và ngoài nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề
chính trị, kinh tế- xã hội, tôn giáo- tín ngưỡng, các chủ trương, chính sách đối
nội, đối ngoại dưới triều Nguyễn cũng như vai trò của triều Nguyễn đối với
lịch sử dân tộc, đặc biệt dưới thời vua Tự Đức trị vì (1848-1883).
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Trung Quốc và Việt Nam – Pháp
trong thời kỳ này được coi là một trong những vấn đề lịch sử quan trọng, góp
phần làm sáng tỏ lịch sử triều Nguyễn nói riêng và lịch sử cận đại Việt Nam
nói chung.
Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc dưới triều Tự Đức (1848-1883)
là một trong những thời kỳ tiêu biểu nhất của lịch sử quan hệ Việt –Trung.
Dưới triều Tự Đức, quan hệ Việt- Trung không chỉ thể hiện những nét đặc
trưng cơ bản nhất của mối quan hệ truyền thống giữa hai nhà nước phong
kiến, mà còn chứng tỏ tính chất phức tạp của mối quan hệ truyền thống này
trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, với tất cả sự biến chuyển của nó
được thể hiện rõ nét trên các mặt chính trị, ngoại giao và quân sự.
Từ sự phân tích những thay đổi trong mối quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc từ năm 1848 đến năm 1883, chúng ta cũng thấy rằng, việc thay


5


đổi trong chính sách ngoại giao của triều Nguyễn và triều Thanh là xuất phát
từ chính tình hình nội trị phức tạp của hai bên trong bối cảnh lịch sử mới, và
thực chất đó chính là một con đường để giải quyết những khó khăn của mỗi
nước.
Trong khi đó quan hệ Việt – Pháp lại có những nét phức tạp riêng thể
hiện đường lối đối ngoại “khép kín”, mang tính chất “bài trừ phương Tây”
của triều Nguyễn. Đây có thể nói là một trong những nguyên nhân dẫn tới
cuộc xâm lựơc của thực dân Pháp với Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XIX, và
cũng là một trong những nguyên nhân khiến triều Nguyễn không giữ được
chủ quyền dân tộc.
Với tất cả ý nghĩa trên, việc tìm hiểu quan hệ giữa Việt Nam - Trung
Quốc, Việt Nam - Pháp dưới triều Tự Đức (1848-1883) là một việc làm cần
thiết trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời kỳ cận đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, có thể nói chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên
cứu một cách toàn diện và hệ thống về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cũng
như Việt Nam - Pháp trong thế kỷ XIX, đặc biệt là ở giai đoạn nửa cuối thế
kỷ.
Trong một số sách lịch sử cận đại Việt Nam như: Việt Nam sử lược của
Trần Trọng Kim (Nxb Tân Việt, 1951), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam
(Từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX ) (Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Tập III, Nxb Giáo Dục, H, 1965), Việt Nam
thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh (Lửa thiêng, 1970), Việt Nam Pháp
thuộc sử của Phan Khoang (Tủ sách sử học, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn
hoá, 1971), Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884) (Nguyễn Phan Quang, Nxb


6


Thành phố Hồ Chí Minh, 1999)… quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc, và
Việt Nam - Pháp thế kỷ XIX nói chung và dưới triều Tự Đức nói riêng đều
được đề cập đến, nhưng chủ yếu là trình bày một cách tóm lược, khái quát
với ý nghĩa đó là một phần trong chính sách ngoại giao của triều Nguyễn.
Một số sách chuyên khảo về ngoại giao Việt – Trung từ trước tới nay
như Việt Hoa bang giao sử (Xuân Khôi, Huyền Quang, Chấn Hưng văn hoá
xuất bản cục,1942), Việt Hoa thông sứ sử lược (Sông Bằng, Quốc học thư xã,
1943) và gần đây là Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước (Nguyễn
Lương Bích, Nxb Quân đội nhân dân, H, 2003). Bên cạnh đó là các bài
nghiên cứu về ngoại giao Việt Nam của các tác giả: Bửu Cầm, Văn Tân, Văn
Phong, Vũ Trường Giang, Đinh Xuân Lâm… Ngoài ra còn khá nhiều công
trình, chuyên luận nghiên cứu riêng về triều Nguyễn. Tất cả các tác giả đều đã
ít nhiều quan tâm đến vấn đề quan hệ Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XIX,
song hầu như cũng chỉ dừng lại ở việc trình bày những biểu hiện cụ thể của
mối bang giao truyền thống giữa triều Nguyễn và triều Thanh thông qua các
việc đi sứ, tiếp sứ....và chủ yếu cũng chỉ quan tâm đến mối quan hệ này ở nửa
đầu thế kỷ.
Trong số các công trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc,
và Việt Nam – Pháp, có một số công trình đáng chú ý sau.
Một tác phẩm rất đáng chú ý của học giả người Nhật Yoshiharu Tsuboi
khi nghiên cứu về thời Tự Đức là cuốn Nước Đại Nam đối diện với Pháp và
Trung-Hoa (1847-1885) ( Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1993). Nội dung
chính của tác phẩm là trình bày và phân tích cụ thể diễn biến bên trong của xã
hội Việt Nam khi phải “đối diện” với cuộc tấn công xâm lược của thực dân
Pháp và sức ép của Mãn Thanh. Một loạt vấn đề được đề cập tới theo lát cắt
thời gian và không gian: Việt Nam trước khi Tự Đức lên ngôi với những mối
quan hệ ngoại giao độc lập, kể cả đối với Trung Hoa, tình hình phát triển đất


7


nước trên tất cả các mặt, âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp với chiến
lược “ngoại giao pháo hạm” được thực hiện qua các giáo sĩ thừa sai, các
thương nhân, các nhà ngoại giao Pháp….Đặc biệt tác giả đã dành một phần
đáng kể trình bày và phân tích về mối quan hệ giữa triều Nguyễn, mà chủ yếu
là dưới thời Tự Đức với nhà Thanh trên các vấn đề như : quan hệ giữa hai
nhà nước với việc trình bày quan điểm của cả Việt Nam, Trung Quốc và các
quan hệ chính thức (bang giao sứ), rồi vấn đề về thương mại giữa hai nước,
và cuối cùng là vấn đề người Hoa sống ngoài vòng pháp luật với các loại hải
tặc, thổ phỉ người Thanh…Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến mối quan hệ
giữa Việt Nam và Pháp, trong mối quan hệ Việt – Trung – Pháp. Một trong
những điểm nổi bật là tác giả đã có điều kiện khai thác rất nhiều nguồn tư liệu
khác nhau, đặc biệt là tư liệu trong các lưu trữ của Pháp, nhưng tác giả lại
chưa sử dụng một cách hiệu quả triệt để các tư liệu gốc của Việt Nam và
Trung Quốc, từ đó đưa ra một số kết luận đáng để cho chúng ta phải xem xét
lại. Song đây vẫn là một cuốn sách thực sự có giá trị, cung cấp cho chúng ta
nhiều thông tin quý giá.
Một tác phẩm khác của nữ sử gia G.F.Murasheva (thuộc Liên Xô cũ) là
Quan hệ Việt –Trung thế kỷ XVII-XIX (Bản dịch tiếng Việt, tư liệu khoa Lịch
sử). Nội dung được tác giả kiến giải chủ yếu là trong mối quan hệ với Trung
Quốc, Việt Nam độc lập hay phụ thuộc? Từ chỗ phân tích bản chất của chế độ
triều cống và phân ban được coi là quy tắc của quan hệ giữa hai nước trong
thời kỳ phong kiến, tác giả muốn chứng minh tính chất xen nhau giữa hai yếu
tố nửa độc lập, nửa phụ thuộc của Việt Nam đối với Trung Quốc. Tác giả đã
dành ra chương cuối (chương 3) nói về mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc
trong nửa đầu thế kỷ XIX (trước khi thực dân Pháp xâm lược), “nó còn giữ
được những dấu hiệu lệ thuộc cổ truyền nhưng dấu hiệu đó có tính chất hình

thức nhiều hơn các thời kỳ trước kia” [13;15].

8


Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn
(1802 –1858) (Trần Nam Tiến, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) là
một trong những công trình phân tích khá toàn diện về mối quan hệ giữa Việt
Nam và các nước phương Tây, trong đó có Pháp. Song công trình chỉ tập
trung vào mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước phương Tây ở nửa đầu thế
kỷ XIX, hơn nữa quan hệ Việt Nam với Pháp chỉ là một khía cạnh nhỏ được
đề cập đến, vì vậy mối quan hệ Việt – Pháp dưới thời Tự Đức vẫn chưa được
tác giả làm sáng tỏ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn bước đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam với Trung Quốc và Pháp dưới triều Nguyễn, đặc biệt là dưới
triều Tự Đức (1848 – 1883). Thời kỳ trị vì của vua Tự Đức là thời kỳ đất
nước ta có những biến động to lớn, trực tiếp đối mặt với nguy cơ ngoại xâm
của các nước phương Tây. Năm 1858, tiếng súng đại bác của thực dân Pháp
bắn vào cửa biển Đà Nẵng là dấu hiệu mở ra một thời kỳ mới của Việt Nam,
thời kỳ phải đương đầu với cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Trong bối cảnh
lịch sử đó, mối quan hệ Việt – Trung – Pháp thể hiện những nét đặc thù riêng,
mang dấu ấn lịch sử. Chính vì vậy luận văn sẽ đi sâu phân tích, đánh giá mối
quan hệ Việt – Trung, Việt – Pháp dưới thời Tự Đức.
Qua việc thống kê, phân tích, đánh giá, tổng hợp…các nguồn tư liệu lịch
sử phong phú, luận văn cố gắng đưa ra cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc và Pháp. Đặc biệt, qua
việc đối chiếu, so sánh giữa các tư liệu lịch sử, luận văn sẽ xem xét lại một số
đánh giá về chính sách ngoại giao dưới triều Nguyễn của một số học giả, từ
đó mong muốn đưa ra cái nhìn xác đáng hơn.


9


Do những hạn chế về mặt tư liệu, nên luận văn chỉ tập trung khai thác
mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam – Trung Quốc và Việt Nam – Pháp ở
cấp độ giữa các nhà nước chính quyền mà cụ thể ở đây là triều Nguyễn, triều
Thanh và chính phủ Pháp, trên hai lĩnh vực chủ yếu là chính trị, quân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
a. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của các ngành
khoa học lịch sử:
 Phương pháp lịch sử;
 Phương pháp logic;
 Phương pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, thống kê, tổng hợp…
Khi xem xét mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc và Pháp
trong thế kỷ XIX, chúng ta cần đặt nó trong bối cảnh lịch sử cũng như trong
mối quan hệ với những lĩnh vực khác như sự phát triển về kinh tế, xã hội, tư
tưởng…của xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn. Từ việc phân tích, tổng hợp
luận văn cố gắng đưa ra những đánh giá khách quan về bản chất của mối quan
hệ Việt – Trung, Việt – Pháp dưới triều Nguyễn. Từ việc đối chiếu, so sánh
các sự kiện lịch sử, luận văn sẽ làm sáng tỏ sự thay đổi trong mối quan hệ
ngoại giao giữa triều Nguyễn, triều Thanh và thực dân Pháp qua mỗi giai
đoạn, từ đó đưa ra những lý giải về sự thay đổi cũng như hệ quả của những
thay đổi đó đã tác động như thế nào tới triều Nguyễn.
b. Nguồn tư liệu
Luận văn đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu lịch sử phong phú. Trước hết
và quan trọng nhất là bộ Đại Nam thực lục chính biên do Quốc sử quán triều
Nguyễn biên soạn.
Đại Nam thực lục gồm hai phần, phần Tiền biên và Chính biên. Đại

Nam thực lục chính biên gồm 38 tập, ghi chép về toàn bộ lịch sử triều Nguyễn

10


từ triều vua Gia Long đến triều vua Đồng Khánh. Vì thế qua đây, chúng ta sẽ
thấy được một bức tranh toàn cảnh về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX trên tất cả
các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, quân sự, văn hoá…cho nên các
khía cạnh trong quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam và Pháp thế kỷ
XIX được phản ánh khá đầy đủ và chi tiết. Tất nhiên, đây là một bộ sử chính
thống nên các sự kiện được ghi chép đều là các sự kiện xoay quanh và có ảnh
hưởng đến hoạt động của triều đình, vì thế nó cũng không thể tránh khỏi
những hạn chế.
Vào năm 1962, Đại Nam thực lục đã được nhóm dịch giả Đào Duy Anh
biên dịch trong vòng 16 năm. Cho đến nay đây vẫn là lần dịch duy nhất đã
được các học giả trong và ngoài nước đánh giá rất cao và đặc biệt tin dùng.
Do giới hạn về mặt thời gian của đề tài nên chúng tôi sử dụng bộ Đại
Nam thực lục chính biên chủ yếu là các tập ghi chép từ triều Gia Long đến
triều Tự Đức trong đó đặc biệt là 8 tập (từ tập XXVII đến tập XXXV) biên
soạn về triều Tự Đức.
Bổ sung cho Đại Nam thực lục là bộ Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ
(Nxb Thuận Hoá, Huế, 1993) có phần chính biên gồm 262 quyển do Nội Các
triều Nguyễn khởi biên từ năm 1843 hoàn tất vào năm 1851. Đây là bộ sách
ghi chép về các điển lệ, các quy chế của triều đình trên mọi phương diện
trong khoảng thời gian từ đầu triều Gia Long đến đầu triều Tự Đức. Toàn bộ
các vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại như nghi thức tiếp sứ, đi sứ,
triều cống, sắc phong…đều được phản ánh trong mục Bang giao ghi chép từ
quyển 128 đến quyển 132. Đây là phần bổ sung trực tiếp cho Đại Nam thực
lục khi xem xét về mối quan hệ truyền thống giữa Việt Nam và Trung Quốc
dưới triều Nguyễn.


11


Đại Nam chính biên liệt truyện (Viện sử học, 4 tập, Nxb Thuận Hoá,
Huế 1997) cũng do Quốc sử quán biên soạn vào giữa thế kỷ XIX, ghi chép
tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng của các công thần, liệt nữ và gia phả
nhà Nguyễn trước và sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi. Nó sẽ góp phần để chúng
ta tìm hiểu về các quan triều Nguyễn đã từng là sứ thần sang Trung Quốc hay
lập công lớn trong việc dẹp giặc.
Châu bản triều Tự Đức (1848-1883) (Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
Nxb Văn học, H, 2001) và Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu (3 tập,
Nxb Khoa học xã hội, H, 1993) tuy là những công trình chọn lọc và lược dịch
về các tấu sớ, chiếu dụ… của vua Tự Đức hay chỉ là giới thiệu về các tập nhật
ký, các bài thơ đi sứ…nhưng nó cũng thật sự cần thiết để chúng ta đối chiếu
với các bộ chính sử của triều Nguyễn. Bổ sung cho phần này là tập Tự Đức
ngự chế văn tam tập (2 tập, Uỷ ban dịch thuật, Phủ quốc vụ khanh đặc trách
văn hoá xuất bản, 1971) do Tây Hồ Bùi Tấn Niên biên dịch và chú thích đầy
đủ cả phần chữ Hán và dịch nghĩa các bài dụ, văn tế, cáo phó, biểu, phú,
chiếu, sớ…dưới thời Tự Đức cho thấy khá rõ tư tưởng ngoại giao của Tự Đức
đối với Trung Hoa và với nước Pháp.
Có thể nói, các nguồn sử liệu của Việt Nam rất đa dạng, phong phú
không chỉ phản ánh được khá đầy đủ các khía cạnh của mối quan hệ Việt
Nam và Trung Quốc dưới triều Nguyễn, mà còn bổ sung cho nhau nhằm so
sánh, đối chiếu các sự kiện, để từ đó có thể tìm ra các sự kiện gần với sự thực
lịch sử nhất.
Tuy không phong phú bằng nguồn sử liệu Việt Nam, nhưng nguồn sử
liệu Trung Quốc mà chúng tôi được tiếp cận cũng hết sức quý giá. Các nguồn
sử liệu này, không chỉ soi sáng mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ
“phía bên kia” là các quan điểm, chính sách, hoạt động của nhà Thanh mà đây


12


cũng chính là một nguồn tư liệu để chúng ta kiểm tra lại những thông tin
trong chính sử triều Nguyễn trên cùng một trục thời gian.
Đại Thanh thực lục (Thanh sử) là bộ chính sử ghi chép theo lối biên niên
về toàn bộ lịch sử triều Thanh. Trong đó, một phần quan trọng là Những việc
bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thế kỷ XIX, ghi chép từ năm
1802 Gia Khánh thứ 7- triều Thanh (tương đương với Gia Long thứ 1- triều
Nguyễn) đến năm 1902 Quang Tự thứ 28- triều Thanh (Thành Thái thứ 14triều Nguyễn) đã được tổ phiên dịch của Khoa Lịch sử (Trường
ĐHKHXH&NV- Hà Nội) biên dịch và chú thích. Tư liệu này hiện đang lưu
giữ tại phòng tư liệu khoa, gồm có 4 quyển:
-Quyển 1: (Q.1, Ký hiệu LS-TL/ 00031)
-Quyển 2A: (Q.2A, Ký hiệu LS-TL/01492)
-Quyển 2B: (Q.2B, Ký hiệu LS-TL/01493)
-Quyển 3: (Q.3, Ký hiệu LS-TL/003300)
Một bộ tư liệu khác rất quan trọng là tác phẩm Trung- Pháp chiến tranh
(Nguyễn Trọng Hân dịch, Tập IX-XI, Tư liệu Viện thông tin khoa học xã
hội), đã cung cấp cho chúng ta những thông tin khá thú vị về một số hoạt
động của nhà Thanh đối với Pháp trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam mà
trong Đại Thanh có đề cập tới nhưng không chi tiết.
Như vậy, với những nguồn tư liệu trên, trong đó Đại Nam thực lục được
coi là nguồn tư liệu chính, chúng ta có thể nhìn nhận mối quan hệ Việt –
Trung thế kỷ XIX đặc biệt là dưới triều Tự Đức trên nhiều khía cạnh, từ cả
hai phía Việt Nam và Trung Quốc.
Bên cạnh các nguồn sử liệu đó, chúng tôi còn tham khảo nhiều công
trình, chuyên luận của các nhà nghiên cứu có đề cập đến vấn đề này.

13



Có thể nói, triều Nguyễn nói riêng và lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX nói
chung đã trở thành một trong những vấn đề lịch sử cận đại cuốn hút nhất đối
với các nhà sử học trong và ngoài nước. Trong đó chính sách ngoại giao của
triều Nguyễn là vấn đề hết sức quan trọng. Trong phạm vi của luận văn này,
chúng tôi chỉ cố gắng bước đầu tìm hiểu tới quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam – Trung Quốc và Việt Nam – Pháp dưới triều Tự Đức từ năm 1848 đến
năm 1883, từ đó góp phần để chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về lịch
sử Việt Nam giai đoạn này.
5. Những đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và
Pháp trong từng giai đoạn từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1883, đặc biệt từ năm
1848 đến 1883, từ đó xác định những biến đổi trong mối quan hệ Việt –
Trung, Việt – Pháp qua mỗi thời kỳ.
- Phân tích, đánh giá tác động của mối quan hệ Trung – Pháp đối với
Việt Nam.
- Góp phần làm sáng tỏ chính sách ngoại giao của triều Nguyễn và
nguyên nhân triều Nguyễn để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp nửa cuối thế
kỷ XIX.
- Hệ thống lại những sự kiện lịch sử liên quan tới quan hệ giữa Việt Nam
– Trung Quốc và Việt Nam – Pháp qua các tư liệu lịch sử, đặc biệt là qua bộ
Đại Nam thực lục.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về chính sách ngoại giao từ
triều Nguyễn.

14


6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương. Cấu trúc cụ thể của luận văn như sau:
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG (gồm 3 chương)
Chương 1: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc dưới thời
Tự Đức (1848 – 1883)
Trước hết, luận văn phác họa một vài nét về mối quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam với Trung Quốc từ thời vua Gia Long đến Thiệu Trị, sau đó
tìm hiểu sâu mối quan hệ này dưới thời Tự Đức. Luận văn cố gắng thể hiện
lại mối quan hệ truyền thống với những thi thức bang giao Thiên triều –
Thuộc quốc giữa triều Nguyễn – triều Thanh qua từng thời kỳ. Đặc biệt luận
văn đi vào phân tích những biến đổi của mối quan hệ truyền thống đó dưới
triều Tự Đức, nhất là sau năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước
ta. Kỳ vọng cũng như sai lầm của triều vua Tự Đức trong mối quan hệ ngoại
giao với nhà Thanh là gì, mối quan hệ đó tác động như thế nào đến cuộc chiến
đấu chống thực dân Pháp của triều đình… sẽ được luận văn làm rõ.
Chương 2: Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp dưới thời Tự Đức
(1848 – 1883)
Trong chương này, luận văn sẽ điểm qua một vài nét nổi bật về quan hệ
giữa Việt Nam và Pháp từ thời vua Gia Long đến Thiệu Trị. Đường lối ngoại
giao với Pháp được đặt nền móng từ thời Gia Long, được vua Minh Mạng và
Thiệu Trị kế thừa, củng cố sẽ phát triển như thế nào dưới thời Tự Đức. Khi
âm mưu thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam trở thành nguy cơ thực sự, triều
Nguyễn đã có những chính sách ngoại giao như thế nào với Pháp? Khi thực

15


dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, triều Nguyễn đã lần lượt ký với Pháp
các hiệp ước đầu hàng trong khi cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của

nhân dân ta vẫn diễn ra mạnh mẽ ở khắp nơi. Chính sách ngoại giao thỏa hiệp
của triều đình Huế đã phần nào đẩy nhanh quá trình đánh chiếm nước ta của
thực dân Pháp.
Từ việc phân tích chính sách ngoại giao của triều Nguyễn với Pháp,
luận văn góp phần đánh giá về trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để
nước ta rơi vào tay thực dân Pháp.
Chương 3: Việt Nam trong mối quan hệ Trung - Pháp
Chương này luận văn sẽ làm rõ mối quan hệ Trung – Pháp đã ảnh
hưởng tới Việt Nam như thế nào, những cố gắng của Pháp trong việc hạn chế
ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam, và những phản ứng của nhà
Thanh trước cuộc xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp. Trung Quốc và
Pháp đều ra sức tranh quyền ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam. Và khi
cuộc tranh giành đó bất phân thắng bại thì hai bên đã phân chia Việt Nam mà
không cần biết tới phản ứng của Việt Nam là gì. Điều này cũng chính là hệ
quả tất yếu từ đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc và
Pháp.
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC

16


B. NỘI DUNG
Chương 1
QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
DƯỚI THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883)

1.1


Vài nét về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ thời Gia
Long đến Thiệu Trị

Đã có khá nhiều tác giả khi nghiên cứu về các vấn đề lịch sử Việt Nam,
hay về lịch sử ngoại giao Việt Nam với Trung Quốc đã ít nhiều đề cập đến
quan hệ Việt - Trung nửa đầu thể kỷ XIX. Nhưng hầu hết các tác giả đều tập
trung phân tích ý nghĩa của việc sắc phong và triều cống giữa triều Nguyễn
và triều Thanh để tìm hiểu bản chất mối quan hệ giữa hai nhà nước phong
kiến Việt Nam và Trung Quốc.
Chúng ta không phủ nhận rằng ở nửa đầu thế kỷ XIX, trong mối quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc, thì một trong những nét quan trọng nhất là
vấn đề sắc phong và triều cống- đặc trưng căn bản của quan hệ ngoại giao
Việt –Trung trong lịch sử phong kiến. Đề cập đến đặc trưng căn bản này, các
nhà nghiên cứu đều tập trung vào một số điểm:
- Lý giải nguyên nhân vì sao các triều đại phong kiến Việt Nam thường
xuyên phải xin cầu phong và chịu triều cống đối với Trung Hoa. Việt Nam là
một nước nhỏ, ở cạnh Trung Quốc lớn hơn nhiều lần và là một đế chế luôn
nuôi ý đồ thôn tính Việt Nam. Để tồn tại độc lập và sống hoà mục, các triều
đại Việt Nam đều phải chịu “thần phục” Trung Hoa. Điều này, Phan Huy Chú
cũng đã từng viết ở thế kỷ XIX: “Nước Việt ta cõi đất ở phương Nam mà

17


thông hiếu với Trung Quốc, tuy nuôi dân dựng nước có quy mô riêng, nhưng
ở trong thì xưng đế mà đối ngoại thì xưng vương vẫn chịu phong hiệu, xét lý
thực phải như thế”[7; 135]. Mặt khác, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc
biệt là từ triều Lê trở đi, hầu hết đều chịu ảnh hưởng sâu sắc học thuyết
Khổng Mạnh, với hệ tư tưởng cốt lõi là Thiên mệnh, trong đó Thiên tử thay
trời trị dân, thống trị các nước chư hầu và thuộc quốc, cho nên các triều đại

Việt Nam đều coi Trung Quốc là Thiên triều.
- Xin phong vương và triều cống Trung Hoa là một dạng quan hệ đặc
biệt giữa nước nhỏ với nước lớn. Việc được Trung Quốc sắc phong có ý nghĩa
khẳng định tính chính thống của một ông vua, hay một triều đại mới được
thiết lập. Đồng thời nó còn khẳng định sự hợp pháp của triều đại đó đối với
Thiên triều, Thiên triều có nghĩa vụ bảo vệ an ninh, toàn vẹn lãnh thổ cho
quốc gia được phong vương, không thể vô cớ tự đem quân sang xâm chiếm.
- Nhận Trung Quốc là Thiên triều và chịu sự thần phục, nhưng điều đó
chỉ trên danh nghĩa, còn thực tế, các triều đại Việt Nam đều giữ vững quyền
tự trị độc lập của mình.
- Đây là sự thể hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo,“lấy nhu thắng
cương”của Việt Nam mà triều đại phong kiến nào cũng áp dụng trong ứng xử
với Trung Quốc.
Đến đầu thế kỷ XIX, trong mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, có thể
nói những biểu hiện trên vẫn còn nguyên giá trị của nó.
Trong Hội điển của triều Nguyễn đã quy định rất chặt chẽ, cụ thể những
nghi thức trong quan hệ bang giao với nhà Thanh. Cho đến trước năm 1858
khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các vua Nguyễn đều thực hiện rất đầy đủ
các nghi thức trong việc xin phong và triều cống các triều đình phong kiến
Trung Hoa.

18


Dưới triều Nguyễn, mối quan hệ truyền thống với Trung Quốc vẫn được
thực hiện chủ yếu thông qua các đoàn sứ bộ. Ghi chép trong chính sử triều
Nguyễn cho biết các đoàn sứ bộ dưới ba triều vua Gia Long, Minh Mệnh và
Thiệu Trị diễn ra như sau:
Bảng 1: Các đoàn Sứ bộ được cử sang Trung Hoa từ năm 1802 đến 1847


Năm

Sứ bộ

Mục đích đi sứ

Nhâm Tuất Chánh sứ: Trịnh Hoài Đức
(1802)

Mang dấu ấn vàng và sắc phong

Phó sứ: Ngô Nhâm Tĩnh

mà nhà Thanh phong cho triều

Huỳnh Ngọc Uẩn

Tây Sơn sang trả. Báo tin Nguyễn
Ánh chiến thắng Tây Sơn lập triều
đại mới
Giao nộp cho nhà Thanh 3 tên
cướp biển người Tàu [48; 495]

Chánh sứ: Lê Quang Định

Xin phong vương cho vua Gia

Phó sứ: Lê Chánh Lộ

Long và xin đổi tên nước ta thành


Nguyễn Gia Cát

Nam Việt. Vua nhà Thanh chuẩn
cho tên nước là Việt Nam.
[78; 306]

Giáp
(1804)

Kỷ
(1809)

Tý Chánh sứ: Lê Bán Khâm

Tạ ơn việc nhà Thanh cử Tề Bố

Phó sứ: Trần Minh Nghĩa

Sâm sang phong vương cho vua

Nguyễn Đăng Đệ

Gia Long [78; 306]

Tỵ Chánh sứ: Nguyễn HữuThiện

Tuế cống theo lệ[48; 748]

Phó sứ: Ngô Vị

Lê Đắc Tần
Chánh sứ: Vũ Trịnh

Mừng lễ ngũ Tuần Đại khánh của

Phó sứ: Nguyễn Đình Chất

vua Gia Khánh [78; 307]

Nguyễn Văn Thinh

19


Quý Dậu

Chánh sứ: Nguyễn Du

(1813)

Phó sứ: Trần Văn Đại

Tuế cống theo lệ [78; 307]

Nguyễn Văn Phong
Đinh

Sửu Chánh sứ: Hồ Công Thuận

Tuế cống theo lệ


Phó sứ: Nguyễn Huy Trinh

(1817)

[78; 307]

Phan Huy Thực
Kỷ Mão

Chánh sứ: Nguyễn XuânTình

Mừng lễ lục tuần Đại Khánh của

(1819)

Phó sứ: Đinh Phiên

vua Gia Khánh [78; 307]

Nguyễn Hựu Bổng
Canh

Thìn Chánh sứ: Ngô Vị

Báo tang vua Gia Long và xin

Phó sứ: Trần Bá Kiên

phong


Hoàng Văn Thịnh

Mạng[78; 307]

Ất Dậu

Chánh sứ: Hoàng Kim Hoán

Tạ ơn việc nhà Thanh cử tổng đốc

(1825)

Phó sứ: Phan Huy Chú

Quảng Tây là Phan Cung Thân

Trần Chẩn

sang phong vương cho Minh Mạng

(1820)

vương

cho

vua

Minh


năm 1821[51;91]
Chánh sứ: Hoàng Văn Quyền

Tuế cống theo lệ[51;91]

Phó sứ: Nguyễn Trọng Vũ
Nguyễn Hựu Nhân
Kỷ Sửu

Chánh sứ Nguyễn Trọng Vũ

( 1829)

Phó sứ: Nguyễn Đình Tân

Tuế cống theo lệ[78;308]

Đặng Văn Khải
Tân Mão

Chánh sứ: Hoàng Văn Đản

Mừng lễ Ngũ Tuần đại khánh Vua

(1831)

Phó sứ: Trương Hảo Hợp

Đạo Quang


Phan Huy Chú

[78;308]

20


Quý Tỵ

Chánh sứ: Trần Văn Trung

(1837)

Phó sứ: Phan Thanh Giải

Tuế cống theo lệ[78;309]

Nguyễn Huy Chiểu
Đinh Dậu

Chánh sứ: Phạm Thế Trung

(1840)

Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt

Tuế cống theo lệ[78;309]

Nguyễn VănNhượng

Tân Sửu

Chánh sứ: Lý Văn Phức

Báo tang vua Minh Mạng và xin

(1841)

Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt

phong cho vua Thiệu Trị [78;309]

Bùi Phụ Phong
Ất Tỵ

Chánh sứ: Trương Hảo Hợp

Tạ ơn việc nhà Thanh cử Bảo

(1845)

Phó sứ: Phạm Chi Hương

Thang sang tuyên phong cho vua

Vương Hữu Quang

Thiệu Trị vào năm 1842 [78;310]

Như vậy, vua Nguyễn nào lên ngôi, việc làm trước hết cũng là cử một

đoàn sứ bộ sang Trung Hoa xin được sắc phong. Theo cách đánh giá của một
giám mục phương Tây: “Lễ phong sắc đem lại uy quyền cho vua An Nam.
Trước khi phong sắc, vua An Nam chỉ mang tên quốc trưởng (người đứng đầu
trong nước) hay là (thủ lĩnh của nước) hay cũng chỉ là vương, hay vua là
cùng. Khi đã được phong sắc các vua ở Huế tự xưng là Hoàng Đế”[88; 311]
Khác với các vương triều trước đó thường thiết lập sau khi giành được
thắng lợi trong công cuộc chống giặc ngoại xâm hay phong trào giải phóng
dân tộc, nhờ đó khẳng định được tính chính thống của mình trước nhân dân,
còn triều Nguyễn đã vấp phải lòng trung thành của hầu hết các nho sĩ cũng
như nhân dân Bắc Hà đối với triều Lê. Bởi vậy, để khẳng định tính chính
thống của mình, việc được Thiên triều Trung Hoa sắc phong như các triều đại
trước càng trở nên có ý nghĩa và cần thiết. Ở một mặt nào đó, việc sắc phong
này cũng có nghĩa là công nhận sự sụp đổ hoàn toàn của triều đại Tây Sơn.

21


Ghi chép của L.Cadierè trong Hội truyền giáo Paris cho biết: “Năm 1802, khi
chiếm được Huế, thì vua tóm ngay được các ấn tín và sắc vàng của Tây Sơn
vì hấp tấp chạy mà bỏ sót lại. Gia Long gửi cho Bắc Kinh. Kết quả cuộc vận
động này rất nhanh: Tây Sơn đã bị tuyên bố thất bại”[88;307]. Trong Đại
Nam cũng cho biết, năm 1802 “vua đã cùng bầy tôi bàn việc thông sứ với
nước Thanh. Vua cho rằng: Nước ta tuy cũ nhưng mệnh đã đổi mới…Nay bắt
được ấn sách của giặc Tây Sơn là do nhà Thanh phong cho…ta có thể sai
người đưa sang trả trước và đem việc Bắc phạt báo cho họ biết, đợi khi bình
định được Bắc Hà sẽ nối lại việc bang giao cũ thì khéo hơn”[48; 495]. Cũng
trong năm 1802, nhà vua đã cử hai đoàn sứ thần sang nhà Thanh để trao trả
quốc ấn, sắc phong của Tây Sơn trước kia và để xin phong vương cho mình.
Hai đoàn sứ thần có nhiệm vụ quan trọng vì “còn yêu cầu Hoàng đế Trung
Hoa đặt tên cho nước đã được vua thống nhất” [88; 307]. Kết quả là, vua

Thanh đã ra chỉ dụ đổi tên nước ta từ An Nam thành Việt Nam, sai làm sắc
phong và khắc khuôn dấu bạc mạ vàng có khắc hình lạc đà, rồi cử quan án sát
tỉnh Quảng Tây sang Việt Nam để phong vương cho Nguyễn Phúc Ánh. Lễ
sắc phong vua Gia Long, sau này cả Minh Mệnh và Thiệu Trị đều diễn ra ở
Thăng Long- Hà Nội. Sau lễ sắc phong, các vua Nguyễn chính thức trở thành
“phiên thần” của nhà Thanh, thể hiện sự thần phục của mình bằng việc thực
hiện triều cống theo định kỳ.
Đến triều vua Minh Mệnh, năm 1839, vua Thanh đã ra chỉ dụ, quy định
triều Nguyễn 4 năm sang Thiên triều triều cống 1 lần và chỉ phải nộp một nửa
số cống vật ngày trước”[10; 81].
Ngoài ra, triều đình còn quy định rất tỉ mỉ về công văn dâng cho hoàng
đế Trung Hoa, cho các tỉnh biên giới đón tiếp sứ thần, về sứ quán, sứ thuyền
...đón rước đoàn sứ thần của Trung Quốc sang làm lễ sắc phong.

22


Tất cả những quy định đó đã nói lên nghi lễ sắc phong và triều cống
được chuẩn bị cẩn thận và có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với triều
Nguyễn. Nó tỏ rõ thái độ “thần phục” nhà Thanh của triều Nguyễn. Song
đúng như nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, dù Việt Nam thần phục nhưng
đó chỉ là trên danh nghĩa, còn thực tế Việt Nam không hề bị bó buộc vào mối
quan hệ với Thiên triều.
Mặt khác, có lẽ Mãn Thanh cũng chỉ cần duy trì mối quan hệ với các
nước phiên thuộc xung quanh bằng việc sắc phong và triều cống. Trong nửa
đầu thế kỷ XIX, nhà Thanh đã thi hành chính sách không can thiệp vào công
việc đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Năm 1820, khi Gia Long mất, nội bộ
triều đình Huế có sự tranh giành việc nối ngôi, vua Thanh Gia Khánh đã dụ
các quân cơ đại thần: “Trước nghe Nguyễn Nguyên tâu rằng tự vương nước
Việt Nam sai sứ dâng biểu cáo phó. Rồi viên ấy lại tâu rằng nghe nói nước ấy

chú cháu tranh nối ngôi. Trẫm xét việc ấy là việc nội bộ của nước ấy, họ
muốn làm gì thì làm, thiên triều không hề can thiệp đến, làm ngơ như là
không biết đến. Các viên đốc thần biên cương chỉ nên nghiêm sức các viên
chức văn võ diên biên bí mật thăm dò tình hình nước ấy và canh phòng các
biên giới cẩn mật là được”[10; 28]. Điều này cho thấy, dù sắc phong của
Thiên triều là một nghi lễ không thể thiếu nhưng thực sự không đóng vai trò
quyết định trong việc nối ngôi của các vua triều Nguyễn, bởi triều đình Mãn
Thanh sẵn sàng tuyên phong cho bất cứ một vua Nguyễn nào mà không quan
tâm đến việc ai là người nối ngôi.
Việt Nam dự hàng phiên thuộc nên Thiên triều phải có nhiệm vụ giúp đỡ
phiên thuộc những lúc khó khăn. Nhưng trên thực tế, triều Thanh đã tìm mọi
cách để không phải can dự vào công việc của Việt Nam hay nói cách khác tìm
mọi cách để chối từ sự giúp đỡ Việt Nam (nếu Việt Nam có yêu cầu). Năm
1837, trước tình hình nổi loạn của các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình ở

23


Việt Nam đặc biệt là khởi nghĩa Nông Văn Vân, vua Thanh đã dụ các đại thần
phải canh phòng biên giới Việt – Trung hết sức cẩn mật để quân nổi loạn ở
Việt Nam không chạy sang được Trung Quốc, đồng thời căn dặn quan quân
“nếu Việt Nam không đủ sức càn quét mà xin Thiên triều viện trợ, thì phải lấy
lời lẽ nghiêm chính từ chối”[10;79]. Đến năm 1840, vua Thanh lại tiếp tục ra
lệnh quan quân phải canh giữ nghiêm ngặt biên giới Việt – Trung để “Tuyệt
đối không cho một người lính hay một người dân nước ấy vào nội địa, và
cũng không để nhân dân nội địa sang nước ấy làm càn…”[10;82]
Tuy Việt Nam chịu hàng phiên thuộc, nhưng không phải Trung Quốc
không có những kiêng nể đối với Việt Nam. Trung Quốc cũng từng có ý định
nhờ vào sự giúp đỡ của Việt Nam. Năm 1841 qua lời một người lái buôn Việt
Nam ở Trung Quốc nói rằng: “Việt Nam chế được các thứ súng bắn nhanh đi

xa, và tinh tế hơn súng của nước Anh” thì vua Quang Tự đã có ý định nhờ
đến Việt Nam giúp đỡ. “Nếu thiên triều đưa thư cho nước ấy (Việt Nam) thì
nước ấy tất phải hết sức giúp đỡ. Nhưng có phải người Anh vẫn ghê sợ nước
Việt Nam hay không? Các thứ hoả khí của Việt Nam có chế ngự được người
Anh không? Việt Nam giúp ta là tự lòng thành hay còn có ý gì khác? Việc này
rất hệ trọng không nên hàm hỗn, đừng có tiết lộ”[10; 83] và triều Thanh đã
mật sai người đi dò xét. Một năm sau, vua Thanh nhận được một bản tường
trình về tình hình thuyền, súng của Việt Nam và được biết “Việt Nam đã
không thể chống cự được người Anh”. Như vậy, nhà Thanh có thể nhờ vào
mối quan hệ thuộc quốc- Thiên triều với Việt Nam, nhưng không thể bắt Việt
Nam hoàn toàn phụ thuộc vào mình, hơn nữa nhà Thanh cũng thực sự có
những lo lắng, không phải là không có những đề phòng khi có ý định dựa vào
sự giúp đỡ của Việt Nam.
Như vậy, một mặt triều Thanh chỉ chú ý tới việc sắc phong và triều cống
của Việt Nam thể hiện sự thần phục đối với mình, mặt khác triều Thanh,

24


ngoài việc duy trì mối quan hệ truyền thống này, đã tỏ ra rất e dè trong việc
đặt các quan hệ khác với Việt Nam.
Đối với triều Huế, ngoài mối liên hệ với Thiên triều bằng việc chịu nhận
sắc phong và triều cống, hầu như cũng không có mối quan tâm nào khác.
Nhưng đến những năm 40, 50 của thế kỷ XIX, những biến động của Trung
Quốc đã tác động không nhỏ đến triều Nguyễn.
Như chúng ta đã biết, ngay trong nửa đầu thế kỷ XIX, Trung Quốc đã
phải đối diện trực tiếp với sự xâm lược của các nước tư bản phương Tây, mà
trước hết là cuộc chiến tranh thuốc phiện lần thứ nhất (1839-1842) do Anh
gây ra. Những biến động này không phải là “triều đình Huế mù tịt không biết
một tí gì”[82; 30], mà ngược lại đã thực sự rất quan tâm. Trong những năm

cuối đời, Minh Mệnh đã liên tiếp cử các đoàn công cán sang Quảng Đông,
Hương Cảng (Trung Quốc) mượn tiếng là đi mua hàng hoá nhưng thực chất là
để dò xét tình hình nước Thanh. Ngay năm 1839, phái viên thuyền Nam Hưng
sang Quảng Đông công cán về cho biết tình hình nước Thanh là “tổng đốc
Lâm Tắc Từ kháng cự với quân Hồng mao (Anh), hai bên đều có người chết,
người bị thương, chưa biết rõ bên nào được”. Minh Mệnh cho rằng: “binh
thuyền của Hồng mao bất quá mấy chiếc, Lâm Tắc Từ đem quân toàn tỉnh
đánh sao lại không đánh nổi. Hơn nữa quân Hồng mao vượt biển mà đến,
trông lương thực vào đâu mà có thể đánh với nhà Thanh lâu được? Chẳng
qua chúng giở cái thói ngoan ngạnh, kiệt hiệt ấy ra để tỏ ý khinh nhờn đó
thôi. Nước Đại Thanh trước kia 1 lữ quân (1 lữ là 500 người) lấy được thiên
hạ, binh lực lúc đó sao hùng thế, mà bây giờ sao lại hèn yếu thế. Lòng trẫm
thực lấy làm bất bình cho nước Thanh”[64;295]. Đến năm 1840, tình hình
nước Thanh ngày càng phức tạp, vua bảo với đình thần: “Gần đây nghe nói
nước Thanh đánh nhau với nước Hồng mao đã 5, 6 tháng mà chưa thắng
được. Kể ra nước Thanh đường đường là một nước lớn, thiên hạ trông vào

25


×