Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Phát triển liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác ở thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.34 KB, 140 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN
VỚI CÁC CHỦ THỂ KHÁC..................................................................................5
I. LIÊN KẾT KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 5
1. Khái niệm về nông dân, hộ nông dân........................................................................5
3. Tổng quan về liên kết kinh tế trong nông nghiệp......................................................7
4. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp thông qua chuỗi giá trị....................................19
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN
VỚI CÁC CHỦ THỂ KHÁC.....................................................................................23
1. Yếu tố nhận thức......................................................................................................23
2. Yếu tố nguồn lực sản xuất........................................................................................24
3. Yếu tố thị trường......................................................................................................28
4 Yếu tố vĩ mô..............................................................................................................29
5. Liên kết kinh tế nông dân trong bối cảnh gia nhập WTO.......................................30
III. KINH NGHIỆM LIÊN KẾT GIỮA NÔNG DÂN VỚI CÁC CHỦ THỂ KHÁC
VÀ BÀI HỌC RÚT RA ĐỐI VỚI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................32
1. Kinh nghiệm liên kết giữa nông dân với các chủ thể khác ở một số quốc gia tương
đồng.................................................................................................................................32
2. Kinh nghiệm mô hình liên kết giữa nông dân và các chủ thể khác ở một số tỉnh
thành trong nước.............................................................................................................34
3. Một số bài học rút ra cho thành phố Đà Nẵng.........................................................38
II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY LIÊN KẾT KINH TẾ TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................56
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp và liên kết trong sản
xuất nông nghiệp.............................................................................................................56
2. Chính sách khuyến khích liên kết trong sản xuất nông nghiệp của Nhà nước.......58
3. Hiệu quả của các chính sách đối với việc thúc đẩy liên kết kinh tế giữa nông dân
và các chủ thể khác ở thành phố Đà Nẵng.....................................................................62
III. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ THỰC TRẠNG LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA
NÔNG DÂN VỚI CÁC CHỦ THỂ KHÁC TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...........65
1. Năng lực sản xuất của nông dân..............................................................................66


2. Thực trạng liên kết nông dân với các chủ thể khác tại Thành phố Đà Nẵng..........67
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG...........................................................................................75
1. Ưu điểm....................................................................................................................75
2. Hạn chế ....................................................................................................................75
I. NHỮNG CĂN CỨ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN MÔ HÌNH LIÊN KẾT GIỮA
NÔNG DÂN VỚI CÁC CHỦ THỂ KHÁC TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...........78
1. Xu hướng phát triển nông sản thế giới....................................................................78
3. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nông nghiệp, kinh tế
nông thôn tầm nhìn đến 2020.........................................................................................82
4. Định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng đến năm 2020
84
5. Quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thành phố Đà Nẵng đến năm
2020.................................................................................................................................87
6. Những chỉ tiêu chủ yếu của ngành nông nghiệp đến năm 2020.............................88
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VỚI
CÁC CHỦ THỂ KHÁC Ở ĐÀ NẴNG......................................................................92
i


1. Quan điểm phát triển................................................................................................92
3. Định hướng phát triển liên kết kinh tế giữa nông dân và các chủ thể khác ở Đà
Nẵng................................................................................................................................94
III. XÂY DỰNG MÔ HÌNH LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VÀ CÁC
CHỦ THỂ KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.............................97
1. Xây dựng mô hình liên kết dựa trên chuỗi giá trị nông sản....................................97
2. Hoàn thiện một số mô hình liên kết cụ thể hiện nay ở Đà Nẵng..........................101
3. Chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.................................................................................................................115
1. Tạo lập môi trường thuận lợi cho nông dân và các chủ thể khác tham gia liên kết
kinh tế............................................................................................................................120

2. Quy hoạch và rà soát điều chỉnh các quy hoạch làm cơ sở cho thực hiện các liên
kết 122
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông dân, các chủ thể tham gia liên kết........123
4. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân
với các chủ thể khác trên địa bàn thành phố................................................................124
6. Hình thành và phát huy vai trò của hiệp hội ngành hàng gắn với hướng kinh doanh
của từng nhóm hộ nông dân..........................................................................................127
7. Nâng cao vai trò của truyền thông, khuyến khích liên kết kinh tế........................129
V. KẾT LUẬN..........................................................................................................131

ii


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Biến động đất đai thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2000 - 2011 .................................41
Bảng 2.2: Cơ cấu các hoạt động kinh doanh của hợp tác xã.....................................................48
Bảng 2.3. Tình hình phát triển một số ngành nghề nông thôn năm 2011.................................51
Bảng 2.4:Nguồn lực đầu tư theo cho nông nghiệp – nông thôn – nông dân.............................64
Bảng 2.6: Khó khăn khi tham gia liên kết ................................................................................75
Bảng 2.7: Khó khăn khi vay vốn từ các tổ chức tín dụng ........................................................76
Bảng 2.8: Lý do nông dân không tham gia liên kết.................................................................76
Bảng 3.1: Đánh giá tính khả thi trong liên kết giữa các chủ thể ............................................101
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 2.1: Tình hình biến động giá trị sản xuất khu vực nông nghiệp ......................................41
Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1997-2010...........42
Hình 2.3: Năng suất lao động trong nông nghiệp theo giá thực tế............................................46
Hình 2.4: Năng suất lao động trong nông nghiệp theo giá cố định năm 1994..........................46
Hình 2.5: Liên kết thông qua bán vật tư, mua lại nông sản hàng hóa.......................................70
Hình 2.6: Liên kết trực tiếp giữa nông dân và doanh nghiệp....................................................71
Hình 2.7: Liên kết giữa nông dân và hợp tác xã thông qua phân tích chuỗi giá trị..................73

Hình 3.1: Mô hình liên kết chuỗi dự kiến giữa nhà nông và nhà khoa học............................107
Hình 3.2: Một ví dụ về mô hình liên kết chuỗi giá trị nấm ăn, nấm dược liệu......................110

iii


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Việc phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung, kinh tế hộ nông dân nói riêng góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, đồng thời có ý nghĩa to lớn về chính trị và
an ninh quốc phòng. Quan điểm này đã được nhiều nhà kinh tế nghiên cứu và chứng minh
như Lewis (1955)1, Hirschman (1958)2, Fei et Ranis (1964)3, Mellor (1966)4. Cũng theo
quan điểm này, tổ chức lương thực thế giới FAO nhận định rằng việc thực thi nhiều chính
sách hiệu quả nhằm khuyến khích phát triển kinh tế nông nghiệp là chìa khóa thành công
trong việc xóa đói, giảm nghèo, cũng như giải quyết bài toán cân bằng giữa phát triển
kinh tế và ổn định xã hội ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặt biệt là các nước kém và đang
phát triển như Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và thực thi
nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông nghiệp,
nông thôn. Trong thời gian qua, đi cùng với các cơ chế, chính sách hỗ trợ của Đảng và
Nhà nước, thành phố Đà Nẵng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn và bước đầu đã đạt
được những thành quả quan trọng, đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn của thành phố trên
tất cả các lĩnh vực, hạ tầng kinh tế-xã hội được xây mới và nâng cấp, đời sống vật chất
cũng như tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng
giảm v.v..., cơ cấu kinh tế nông thôn được chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó, tập
trung gia tăng phát triển hàm lượng về giá trị của sản phẩm và liên tục đổi mới các hình
thức tổ chức sản xuất.
Qua đó, có thể thấy rằng vai trò quản lý của nhà nước trong nông nghiệp là rất lớn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để nông nghiệp “tự đi vững trên đôi chân của mình“

thay vì luôn nhận được sự hỗ trợ và bảo hộ từ phía nhà nước trong bối cảnh Việt Nam đã
tham gia vào sân chơi WTO, cũng như ngày càng hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Theo Schultz (1964)5, nhà nước nên quan tâm đối phó với các nguyên nhân cơ bản
hơn là tập trung vào việc đề ra các chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp. Trong công trình
có ảnh hưởng nhất của ông, Chuyển biến nông nghiệp truyền thống (1964)“ Thu nhập của
1

Lewis, W. A. 1955. Economic development with unlimited supplies of labor. The Manchester School of Economics and
Social Studies 22 (2): 139–191.
2
Hirschman, A. O. 1958. The strategy of economic development. New Haven, Conn.: Yale University Press.
3
Fei, J. C., and G. Ranis. 1961. A theory of economic development. American Economic Review 51 (4): 533–565.
4
Mellor, J. W. 1966. The economics of agricultural development. Ithaca, N.Y.: Cornell University Press.
5

Schultz, T. W. (1964), Transforming Traditional Agriculture, University of Chicago Press

1


nông dân thấp tại các nước đang phát triển không phải do họ không có kiến thức để sử
dụng hiệu quả các nguồn lực họ có sẵn mà do họ thiếu công nghệ có thể đem lại thu nhập
cao hơn. Việc các nhà tài trợ và các nhà hoạch định chính sách chú trọng đến nghiên cứu
và phát triển công nghệ nông nghiệp mới thông qua các tổ chức nghiên cứu cho thấy được
kết quả đáng ghi nhận“. Bên cạnh đó, trong cuốn Biến dạng các động cơ khuyến khích
trong nông nghiệp của Schultz (1978), các vấn đề về tiêu thụ sản phẩm, nhu cầu thị
trường, giá cả hàng hóa cũng được tác giả đề cập đến. Theo đó, các áp lực từ người tiêu
dùng (chất lượng, giá cả, thị hiếu), sự bất ổn thị trường đã gây khó khăn đến nhà sản xuất

nông nghiệp và lúc này sự can thiệp của chính phủ vào nông nghiệp dưới góc độ bảo trợ
cũng không còn phù hợp; thay vào đó cơ quan nhà nước nên tạo ra những cơ chế khuyến
khích sự liên kết giữa nhà sản xuất nông nghiệp và nhà doanh nghiêp nhằm tạo ra những
giá trị tăng thêm cho sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường và tăng thu nhập cho các
chủ thể liên quan.
Một vấn đề quan trọng mà nhóm nghiên cứu quan tâm đó là xu thế chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Thành phố Đà Nẵng trong Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2011-2015 theo hướng Dịch vụ: 54,2% - Công nghiệp, Xây dựng: 43,8% Nông nghiệp: 2,0%. Trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3-4%/năm.
Điều này cho thấy thực trạng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn có nguy cơ tụt hậu
sau khi đô thị hóa đang phát triển nhanh chóng cùng với sự phát triển của các ngành kinh
tế khác.
Mặt khác, theo kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, trong những năm qua, bên
cạnh những thành quả mà Thành phố Đà Nẵng đạt được, sản xuất nông nghiệp trên địa
bàn thành phố nói chung, sản xuất hộ nông dân nói riêng còn nhiều khó khăn, hạn chế:
Thiên tai dịch bệnh thường xuyên diễn ra; quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán;
công nghệ, kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu; thiếu vốn đầu tư cho sản xuất; ứng dụng công
nghệ mới còn hạn chế; tiêu thụ nông sản hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt , mối liên
kết giữa nông dân và các chủ thể khác còn tồn tại nhiều bất cập như: liên kết chưa chặt
chẽ, mang tính hình thức, còn nhiều mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, thiếu sự giám sát quản
lý của các cơ quan quản lý nhà nước, việc không tuân thủ hợp đồng thường xuyên diễn
ra...
Xuất phát từ những khó khăn, bất cập nêu trên đã đặt ra cho chính quyền thành phố
thách thức không nhỏ trong việc hoàn thành những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ lần thứ XX đề ra. Để thúc đẩy kinh tế nông hộ phát triển nhanh và bền vững theo
hướng cải thiện chất lượng và gia tăng giá trị sản xuất hàng hóa, việc xây dựng đề tài

2


“Phát triển liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác ở thành phố Đà Nẵng”

là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu của đề tài
Xây dựng và thực hiện đề tài nhằm các mục tiêu sau:
(1) Hệ thống hóa cơ sở lý luận về mối quan hệ liên kết giữa nông dân với các chủ
thể khác.
(2) Đánh giá thực trạng liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng; làm rõ các ưu điểm, hạn chế và các vấn đề đặt ra cần giải quyết.
(3) Xây dựng mô hình liên kết kinh tế giữa nông dân và các chủ thể khác ở thành
phố Đà Nẵng.
(4) Đề xuất các giải pháp phát triển các liên kết kinh tế giữa nông dân và các chủ
thể khác ở thành phố Đà Nẵng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác
Phạm vi nghiên cứu:
+ Nông dân trong phạm vi nghiên cứu bao gồm các hộ nông dân sản xuất trong các
lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), lâm nghiệp và thủy sản (ngoại trừ đánh bắt
hải sản xa bờ).
+ Các chủ thể khác: các nhà quản lý, doanh nghiệp và nhà khoa học
+ Địa bàn nghiên cứu: Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Đối tượng khảo sát:
Đề tài tập trung khảo sát vào 3 nhóm đối tượng: Nông dân, các chủ thể khác và các
nhà quản lý ở Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích hệ thống các hoạt động nông nghiệp trên địa bàn thành
phố;
- Phương pháp phân tích cạnh tranh SWOT;
- Phương pháp điều tra khảo sát: hộ nông dân, các chuyên gia và nhà quản lý, các
chủ thể khác tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp;


3


- Phương pháp phân tích thống kê các số liệu sơ cấp và thứ cấp về phát triển nông
nghiệp trên địa bàn thành phố;
- Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến các chuyên gia và thảo luận;
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác
Chương 2: Thực trạng liên kết kinh tế giữa nông dân với các chủ thể khác ở thành
phố Đà Nẵng
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển liên kết kinh tế giữa nông dân với
các chủ thể khác ở thành phố Đà Nẵng

4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA NÔNG DÂN VỚI
CÁC CHỦ THỂ KHÁC
I. LIÊN KẾT KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm về nông dân, hộ nông dân
Nông dân là một khái niệm đã xuất hiện từ rất lâu và được sử dụng rất phổ biến.
Tuy nhiên, xoay quanh khái niệm nông dân khá khác biệt. Thông thường, nông dân được
hiểu là những người mà hoạt động sản xuất chính của họ là nông nghiệp. Nông dân có thể
được định nghĩa rất đơn giản như: “Người điều hành một trang trại” hay là “Người sống
bằng hoạt động trồng trọt, chăn nuôi”
Nhưng cũng có không ít khái niệm phức tạp, theo Wikipedia thì: “Nông dân là một
người tham gia vào nông nghiệp, người nuôi sinh vật bằng thực phẩm hoặc nguyên liệu,
thường bao gồm chăn nuôi gia súc và trồng trọt như sản xuất và ngũ cốc. Một người
nông dân có thể sở hữu đất hoặc có thể làm việc như một người lao động về đất đai thuộc

sở hữu của người khác, nhưng trong nền kinh tế tiên tiến, nông dân thường là một chủ
trang trại, trong khi nhân viên của trang trại là lao động nông nghiệp…”6
Còn theo Bách khoa toàn thư Việt Nam thì “Nông dân là những người lao động cư
trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng
vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia,
từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình
thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội…”.
Dưới góc độ của liên kết kinh tế, nông dân tham gia vào chuỗi liên kết với vai trò
là một chủ thể kinh tế, hộ nông dân, là loại hình kinh tế trong đó hoạt động sản xuất chủ
yếu của họ là nông nghiệp, dựa vào lao động gia đình (lao động không thuê)7.
2. Đặc điểm sản xuất nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp
2.1. Đặc điểm sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản xuất
nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành sản xuất khác không thể có đó là:
- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm trên cho thấy ở đâu có đất
6
7

/>Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Bình, Phát triển kinh tế hộ gia đình.

5


và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Do điều kiện đất đai khí hậu
không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ nét.
- Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu khó có thể thay thế
được (chỉ có thể thay thế một phần dựa vào công nghệ). Chính vì thế trong quá trình sử
dụng phải biết sử dụng tiết kiệm, cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng
màu mỡ, sản xuất theo hướng thâm canh tăng năng suất trên cùng một diện tích.

- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống - cây trồng và vật nuôi, phát
triển theo quy luật sinh học (sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với
yếu tố ngoại cảnh, mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp
đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển hình nhất của
sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt trong quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái
sản xuất kinh tế gắn chặt với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời
gian sản xuất xen kẽ vào nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời
vụ cao trong nông nghiệp.
Có nhiều yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp, như: ánh sáng, ôn độ, độ ẩm,
lượng mưa, không khí. Nếu biết lợi dụng hợp lý có thể sản xuất ra những nông sản với chi
phí thấp, chất lượng cao. Do đó, trong nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc
những khâu công việc ở thời vụ tốt nhất như thời vụ gieo trồng, bón phân, làm cỏ, tưới
tiêu...
Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động đòi hỏi
phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư - kỹ thuật kịp thời, trang bị
công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát
triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời kỳ nông nhàn.
2.2. Đặc điểm nông sản
Mặt hàng chính của quá trình sản xuất nông nghiệp chính là các loại nông sản. Đặc
điểm của các loại nông sản chịu sự tác động rất lớn của đặc điểm sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể:
- Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán nông sản mang tính thời vụ. Vào những
lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều
và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ, nông sản khan hiếm, chất lượng không

6


đồng đều và giá bán thường cao. Ngoài ra, do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt

động thu hoạch nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn.
- Nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu năm nào, khu
vực nào có mưa thuận gió hòa, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao, hàng nông sản sẽ
tràn ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào, khu vực nào có khí hậu, thời
tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có
chất lượng thấp mà giá lại cao.
- Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá cả hàng
nông sản xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không
những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế
biến vì tính dễ ẩm, mốc, biến chất của nó.
- Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một
mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một
mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Với một loại nông sản nó có thể được ưa
thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở
thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác.
3. Tổng quan về liên kết kinh tế trong nông nghiệp
3.1. Các cách tiếp cận khác nhau về liên kết kinh tế
Cùng với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển sâu rộng của chuỗi giá trị toàn cầu,
liên kết kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra sự thành công đối
với một quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Chính các mối quan hệ liên kết đã đưa
đến cho các chủ thể những cơ hội để nhận được những lợi ích lớn hơn, an toàn hơn và
nhân bản hơn. Xét ở tầm vĩ mô, liên kết kinh tế thể hiện thông qua việc thiết lập các liên
minh kinh tế giữa các quốc gia, địa phương hoặc vùng lãnh thổ để hình thành nên các
định chế khu vực ở các mức độ khác nhau. Chính việc liên kết này đã giúp xác lập các
không gian kinh tế rộng lớn hơn, an toàn hơn cho các hoạt động kinh tế của mỗi đối tác
tham gia trên cơ sở phân công và hợp tác lao động, phân bố dân cư hợp lý cho toàn vùng.
Trong khi đó, liên kết ở tầm vi mô được thực hiện thông qua sự thiết lập các mối quan hệ
hợp tác kinh doanh giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Việc đẩy mạnh liên kết ở tầm vi
mô, đến một mức độ nhất định sẽ tác động ngược lại đối với liên kết vĩ mô, nó thúc đẩy
các quan hệ liên kết vĩ mô phát triển, chuyển hóa theo hướng thuận lợi cho liên kết vi mô

phát huy tác dụng.
7


Như vậy, liên kết ở tầm vĩ mô là tiền đề tốt để thúc đẩy việc thiết lập và mở rộng
các quan hệ liên kết kinh tế ở tầm vi mô giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia
vào quá trình liên kết. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu mối
kết ở tầm vi mô, cụ thể là mối liên hệ giữa hộ nông dân và các chủ thể khác trong nền
kinh tế.
Vậy, liên kết kinh tế là gì? Trong nông nghiệp và cụ thể là các hộ nông dân liên
kết với các chủ thể khác thông qua những hình thức, nội dung và cơ chế liên kết như thế
nào để có thể đảm bảo tính bên vững và phát huy lợi thế của từng chủ thể tham gia?
Theo Lê Xuân Bá (2003) thì liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối quan hệ giữa
các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có thể giữa các doanh nghiệp thuộc cùng lĩnh vực hoạt
động, giữa các đối tác cạnh tranh hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính
chất bổ sung, nhằm tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn các khả
năng, mở ra những thị trường mới.
Trong khi đó, Hồ Quế Hậu (2008) và Dương Đình Giám (2007) đã đưa ra khái
niệm liên kết kinh tế ở tầm khái quát hơn. Theo Hồ Quế Hậu, liên kết kinh tế là sự chủ
động nhận thức và thực hiện mối liên hệ kinh tế khách quan giữa các chủ thể kinh tế trong
nền kinh tế - xã hội, nhằm thực hiện mối quan hệ phân công và hợp tác lao động để đạt tới
lợi ích kinh tế - xã hội chung. Còn theo Dương Đình Giám, liên kết kinh tế là sự hợp tác
của hai hay nhiều bên trong quá trình hoạt động kinh tế, cùng mang lại lợi ích cho các bên
tham gia. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp thiếu hụt và khắc phục
hạn chế của mình từ sự phối hợp hoạt động với đối tác.
Nhìn chung, Liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao
của con người trong quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm các hoạt động hợp tác và
phối hợp thường xuyên do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đưa ra và thực
hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các
bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất.

Nguyên tắc thực hiện liên kết phải dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có
lợi. Những cơ sở này phải được thống nhất, thể hiện trên văn bản hợp đồng ký kết giữa
các bên tham gia và phù hợp với khuôn khổ pháp luật của các quốc gia.
Dù phát triển ở hình thức nào, các mối quan hệ liên kết kinh tế đều hướng đến
những mục tiêu chung là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định. Thông qua các hợp đồng
kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và
hợp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của từng đơn vị tham gia liên kết.

8


Hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị
thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau và giảm thiểu,
dàn trải các rủi ro nếu có.
Liên kết kinh tế trong nông nghiệp thì sao?
Trong nền nông nghiệp mới, sự liên kết kinh tế là rất cần thiết. Sự liên kết kinh tế
trong nông nghiệp được hiểu là liên kết giữa các vùng sản xuất nông nghiệp trong những
ngành hàng liên vùng, giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và giữa chính nông dân
với nhau để tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm chi phí giao dịch, tăng cạnh tranh.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, khái niệm liên kết kinh tế trong nông nghiệp sẽ
được cô đọng trong mối quan hệ liên kết kinh tế giữa nông dân với một hoặc nhiều chủ
thể kinh tế khác ở thành phố Đà Nẵng. Đó có thể là sự liên kết giữa chính nông dân với
nhau; hay giữa nông dân với chính quyền địa phương; giữa nông dân với nhà khoa học,
các trường, viện nghiên cứu; giữa nông dân với doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ tín dụng;
hoặc giữa nông dân với nhiều chủ thể khác trong nền kinh tế mà thuật ngữ phổ biến hiện
nay gọi là “Liên kết bốn nhà”: nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, và nhà doanh nghiệp.
Tổ chức GTZ có nhiều nghiên cứu về liên kết kinh tế nông nghiệp thông qua mô
hình chuỗi giá trị tại một số tỉnh thành ở Việt Nam. Kết quả của các nghiên cứu này cho
thấy rằng mặc dù có rất nhiều tiềm năng đã được khám phá trong chuỗi giá trị ở một số
ngành như cà phê, bơ, rau sạch…Tuy nhiên, việc liên kết này vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót

và trở ngại chính trong quá trình thực hiện như:
-

Mối liên hệ và hợp tác lỏng lẻo của các tác nhân dọc theo chuỗi

-

Người sản xuất thường không chú ý đến thị trường và các yêu cầu của thị
trường

-

Cơ cấu hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu và phát triển còn lạc hậu

-

Chưa có một cơ chế liên kết rõ ràng

-

Hoạt động tự phát và không có chiến lược, mục tiêu dài hạn…

Do vậy, để triển khai và nhân rộng mô hình này được thành công và bền vững, các
bên tham gia cần hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong liên kết chuỗi, việc phân
chia lợi ích, chia sẻ rủi ro phải rõ ràng và phải có một chương trình hành động cụ thể, xác
định mục tiêu dài hạn mong muốn đạt tới với sự tham gia của tất các bên là điều cần thiết.
3.2. Vai trò của liên kết kinh tế
3.2.1. Vai trò của liên kết kinh tế trong phát triển kinh tế xã hội

9



Từ khái niệm liên kết kinh tế ở trên cho thấy, cho dù liên kết ở hình thức nào, thì
những lợi ích mà liên kết kinh tế mang lại đều có vai trò rất lớn và rất đa dạng. Lê Xuân
Bá (2003), Lê Đình Giám (2007) đã chỉ ra trong các nghiên cứu của mình về một số vai
trò chủ yếu của liên kết kinh tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội như sau:
Thứ nhất, liên kết kinh tế giúp đạt được hiệu quả kinh tế theo qui mô. Thông qua
liên kết kinh tế tạo điều kiện cho các chủ thể mở rộng qui mô thị trường, gia tăng sản
lượng và giảm chi phí sản xuất. Nhờ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh, bảo đảm sự
phát triển bền vững.
Thứ hai, liên kết kinh tế làm giảm chi phí và tiêu hao nguồn lực, tăng hiệu quả đáp
ứng nhanh nhạy yêu cầu phát triển. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi chủ thể
đều có một hoặc vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo, mang tính đặc thù, chuyên biệt; bên cạnh
đó, là một loạt các hoạt động phụ, mà bản thân một chủ thể không thể thực hiện được,
nhưng nó lại không thể thiếu đối với dây chuyền sản xuất chính. Tạo điều kiện giảm nhẹ
cơ cấu bên trong mỗi chủ thể, thông qua việc chuyên môn hóa trong các công đoạn sản
xuất, kinh doanh.
Thứ ba, liên kết kinh tế giúp phản ứng nhanh với những thay đổi của môi trường
kinh doanh. Liên kết kinh tế tạo điều kiện tăng khả năng linh hoạt cho các chủ thể thông
qua giảm thiểu cơ cấu theo cấp bậc và như vậy, sẽ dễ dàng hơn trong việc thay đổi, tập
trung hơn cho một lĩnh vực mà mối liên kết đó có thế mạnh.
Thứ tư, liên kết kinh tế giúp giảm thiểu các rủi ro. Khi tham gia liên kết, rủi ro sẽ
được phân bổ cho các đối tác tham gia, chứ không phải chỉ tập trung vào một chủ thể, khi
đó khả năng vượt qua khó khăn sẽ cao hơn.
Thứ năm, liên kết kinh tế giúp các chủ thể trong thị trường tiếp cận nhanh chóng
hơn với các công nghệ mới. Các bên tham gia liên kết có thể chuyển giao công nghệ cho
nhau, với những chi phí hợp lý và thời gian nhanh chóng, do sự tin cậy lẫn nhau.
Thứ sáu, liên kết kinh tế tạo sức mạnh nội sinh, hạn chế sự tác động tiêu cực từ bên
ngoài, đồng thời tạo môi trường thu hút đầu tư có hiệu quả.
Thứ bảy, Liên kết kinh tế tăng thêm sự phân công chuyên môn hóa và phát triển

kinh tế tổng hợp, xóa bỏ sự phát triển đơn cực, cục bộ, khép kín, mở rộng sự hợp tác và
phân công quốc tế, mở rộng thị trường. Liên kết kinh tế giúp doanh nghiệp chinh phục
những thị trường mới do khả năng tài chính, tận dụng lợi thế chi phí thấp (hợp đồng cung
cấp sản phẩm, hợp đồng nhượng quyền…).
Tuy nhiên, sự liên kết kinh tế đôi khi cũng có thể gây ra những mặt tiêu cực như là

10


việc tạo ra sự độc quyền. Gây ra ảnh hưởng xấu đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham
gia thị trường, dẫn đến gây thiệt hại cho người mua (do độc quyền bán) hoặc người bán
(do độc quyền mua). Ngoài ra, liên kết còn có thể dẫn đến tình trạng sụp đổ dây chuyền
khi mà một trong những chủ thể tham gia bị phá sản… gây mất ổn định cho cả nền kinh
tế.
3.2.2. Vai trò của liên kết kinh tế trong nông nghiệp qua mô hình “liên kết bốn nhà”
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Đại bộ phận người dân sống ở vùng nông thôn
lấy sản xuất nông nghiệp làm nghề chính. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đảm
bảo an ninh lương thực và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến và
xuất khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của nông nghiệp, để góp phần phát triển nông
nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp
tục khẳng định “Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp”.
“Liên kết bốn nhà” về bản chất là một hình thức liên kết thị trường, thông qua các
chính sách giúp điều hòa mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên tham gia, đặc biệt khi nhu cầu
và giá cả thị trường biến động mạnh (Vũ Thành Tự Anh, 2011). Ngoài ra, qua nghiên cứu
thực tiễn của Nguyễn Công Thành (2011) còn chỉ ra nhiều lợi ích mà liên kết bốn nhà đã
mang lại như:
- Giúp đỡ lẫn nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp: Ví dụ nhà doanh nghiệp đầu tư vật
tư ban đầu cho nhà sản xuất (nông dân). Giúp đỡ bao tiêu sản phẩm và tiêu thụ đầu ra với
giá ổn định cho người sản xuất an tâm và có lợi nhuận, đảm bảo đời sống và phát triển

kinh tế.
- “Một nhà” là chỗ dựa, là hậu thuẫn, là mốc đầu trong liên hoàn với “các nhà”
khác: Nhà nông dựa vào vốn, chính sách, pháp luật của Nhà nước (nhà quản lý) để sản
xuất đúng hướng và có hiệu quả. Nhà quản lý cung cấp vốn thông qua ngân hàng, cung
cấp thông tin, thị trường cho nông dân. Nhà quản lý có thể đứng ra tổ chức việc liên kết
sản xuất và kinh doanh đi đúng hướng và có hiệu quả. Nhà khoa học tạo ra giống, quy
trình kỹ thuật và đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho người nông dân... Chẳng hạn
mốc đầu tiên là giống/quy trình kỹ thuật có từ các nhà khoa học đem đến cho người nông
dân sản xuất và “nhà sản xuất” là mốc đầu tiên trong liên hoàn với “nhà doanh nghiệp” để
tiêu thụ sản phẩm. Nhà doanh nghiệp thường là “mốc cuối cùng” trong liên hoàn vì là nơi
tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có thể là “mốc khởi đầu” trong nhiều trường hợp. Ví
dụ, không những bao tiêu sản phẩm cho nông dân mà họ còn đầu tư giống ban đầu (để
chủ động chất lượng), vật tư, tiền vốn… Như vậy nhà doanh nghiệp trong liên kết cũng có
11


thuận lợi là chủ động nguồn hàng, định hướng đầu ra, chủ động chất lượng, số lượng ngay
từ đầu để hạch toán và lên kế hoạch kinh doanh, hạn chế rủi ro so với kinh doanh không
liên kết. Thường những doanh nghiệp làm ăn lớn thường liên kết với nông dân và liên kết
“4 nhà”. Và sự liên kết rất đảm bảo, nâng cao uy tín và kinh doanh có hiệu quả hơn những
nhà doanh nghiệp không liên kết và thường là những nhà kinh doanh nhỏ.
- Thông qua liên kết, sản xuất mang tính quy mô cao, hiện đại, hạn chế rủi ro và
hiệu quả cao: Do có kế hoạch từ đầu về phương hướng sản xuất, giống kỹ thuật gì? Ai
chịu trách nhiệm từng khâu thế nào, đầu ra ai bao tiêu? Giá cả được định sẵn có sự thống
nhất từ đầu và thị trường đã được các doanh nghiệp định hướng theo hoạt động kinh
doanh thường xuyên của họ. Từ đó, người sản xuất và người kinh doanh lên phương án và
hạch toán sản xuất, kinh doanh ngay từ ban đầu để biết được chi phí và lợi nhuận một
cách chủ động. Với trí tuệ và sức mạnh tổng hợp của liên kết “nhiều nhà” chắc chắn sẽ
hạn chế rủi ro và thất bại trong sản xuất. Thực tế chứng minh những nơi có sự liên kết tốt,
cả doanh nghiệp và nông dân đều phấn khởi khi mà vụ mùa nào cũng có lợi nhuận cao và

ổn định so với những hộ nông dân sản xuất tự phát và nhỏ lẻ, manh mún không có cả sự
liên kết hoặc hợp tác với nhau.
Như vậy, liên kết không chỉ có lợi cho sản xuất của nông dân mà cho cả nhà doanh
nghiệp và các chủ thể khác. Ngoài ra, giá trị của nông sản cũng được gia tăng sau mỗi
công đoạn của quá trình liên kết, tạo nên sức mạnh cạnh tranh trên thị trường và đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
3.3. Những nội dung cơ bản trong liên kết kinh tế
3.3.1. Mối liên hệ giữa hộ nông dân với các chủ thể khác
Một trong những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường
là, đối với một loại nông sản, nhiều nông dân (có khi lên tới hàng chục ngàn) thường bán
sản phẩm của mình cho một doanh nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ trên thị trường
trong và ngoài nước. Còn sản phẩm của doanh nghiệp chế biến thường bán cho rất nhiều
tổ chức và cá nhân trên thị trường. Cả nhà nông và nhà doanh nghiệp đều rất cần liên kết
với nhau một cách bền vững trong việc bán và mua nông sản.
Nhờ vào sự hợp tác này mà nhà doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản sẽ có
“chân hàng” ổn định, cung ứng nông sản nguyên liệu chất lượng, giá cả hợp lý nhằm đáp
ứng những những đòi hỏi khắt khe hơn từ phía người tiêu dùng. Tuy hiện nay đã có một
vài mô hình liên kết giữa hai chủ thể này nhưng còn rất lỏng lẻo và thiếu tính bền vững.
Hàng hóa nhiều nhưng sản xuất không đồng loạt, mạnh ai nấy làm, hàng nông sản cứ luẩn
12


quẩn trong vòng vây giá cao thì nông dân hết hàng, khi dư hàng thì rớt giá. Nếu cứ lặp lại
tình trạng ấy thì rõ ràng khó có thể tạo ra mối quan hệ hợp tác lâu dài.
Ở một khía cạnh khác của liên kết nông nghiệp là để chiếm lĩnh thị trường, giành
thắng lợi trong cạnh tranh, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản ngoài việc “đặt
hàng” với các nhà khoa học nghiên cứu giải quyết các vấn đề công nghệ chế biến, bảo
quản nông sản mà cả các vấn đề sản xuất nông phẩm của các hộ nông dân. Nhờ đó, sự
liên kết giữa nhà doanh nghiệp, nhà nông với các nhà khoa học được thiết lập ngày càng
vững chắc trên qui mô lớn, dẫn đến thương mại hóa các kết quả nghiên cứu của giới khoa

học ở các trường, các viện nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên thể chế thị trường nông sản nếu chỉ dựa vào quan hệ nông dân - doanh
nghiệp theo kiểu hợp đồng nông nghiệp thì sẽ dẫn đến sự độc quyền của doanh nghiệp
chế biến và lưu thông, làm cho việc phân phối lợi nhuận không công bằng. Người nông
dân không có quyền mặc cả trên thị trường vì giá cả do doanh nghiệp quyết định. Vì vậy
trong mối liên kết này cần phải có vai trò điều tiết của nhà nước. Hơn nữa, nhà nước còn
đóng vai trò hỗ trợ cho người nông dân thông qua các dịch vụ công, đảm bảo phục vụ
phát triển nông nghiệp và quyền lợi cho người nông dân.
Nhìn chung, muốn phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao được giá
trị của sản xuất nông nghiệp thì tất yếu phải liên kết và liên kết chặt chẽ hơn giữa “4 nhà”,
phát huy vai trò của từng chủ thể trong mối liên kết này.
3.3.2. Nhiệm vụ của từng chủ thể trong liên kết nông nghiệp
Thông qua mối liên kết giữa nông dân với các chủ thể khác trong sản xuất, chế
biến và tiêu thụ nông sản đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp,
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất của một số mặt hàng nông sản. Tuy
nhiên để có thể phát huy tốt được mối liên kết này chúng ta cần phải hiểu rõ đặc điểm, vị
trí, nhiệm vụ của từng chủ thể trong sản xuất nông nghiệp cũng như tính cầp thiết phải
liên kết kinh tế giữa nông dân và các chủ thể kinh tế khác.
+ Nông dân
Là chủ thể chính tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp nên vai trò của
người nông dân gắn kết chặt chẽ với vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế.
- Nông dân sản xuất ra nguyên liệu gia dụng, lương thực, thực phẩm phục vụ cho
đời sống của con người. Hầu hết các nước đang phát triển như nước ta đều phải dựa vào
13


nông nghiệp trong nước để cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng, nó tạo nên sự
ổn định, đảm bảo sự an toàn cho phát triển.
- Sản xuất, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến, sản xuất đồ gia dụng. Nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan

trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản trong giai đoạn đầu
quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước đang phát triển.
- Cung cấp vốn cho các ngành kinh tế thông qua các nguồn thuế.
- Người nông dân cũng là một người tiêu thụ hàng hóa. Việc tiêu dùng của người
nông dân đối với hàng hóa công nghiệp, hàng hóa tiêu dùng là tiêu biểu cho sự đóng góp
về mặt thị trường của nông dân đối với quá trình phát triển kinh tế.
Như vậy có thể thấy vai trò của người nông dân trong nền kinh tế so với các chủ
thể khác là rất quan trọng. Nếu người nông dân không tham gia vào nền kinh tế thì lúc đó
sẽ không thể nào có sự phát triển về kinh tế.
+ Nhà nước
Vai trò của nhà nước thể hiện trước tiên là định hướng phát triển. Trong nghị quyết
06 - NQ/TW8 về “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn” đề ra những cơ chế
và chính sách mới, tạo sự thông thoáng hơn trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp.
+ Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công
nghiệp chế biến, ngành nghề gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết nông công nghiệp - dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn và trên phạm vi cả nước;
+ Phát huy lợi thế từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh ra xuất khẩu.
+ Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo... Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và
những người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Theo quan điểm này thì nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát
triển. Trong đó, khuyến khích sự liên kết giữa các thành phần kinh tế và sự hợp tác giữa
các chủ thể khác nhau nhằm nâng cao khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, tìm kiếm
thị trường và nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp.
8

Chính phủ Việt Nam (01/1998), Nghị quyết 06 - NQ/TW về “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn”,
Nghị quyết.


14


Bên cạnh đó, nhà nước cũng thể hiện vai trò của mình thông qua một số chính
sách, và các chương trình phát triển trong nông nghiệp, cụ thể là việc tạo ra công ăn việc
làm, hỗ trợ sản xuất và xóa đói giảm nghèo (Peter Timmer P., 2010)9 và cũng được xem
như chủ thể chính tạo ra môi trường liên kết thông thoáng, khuyến khích cho các chủ thể
khác tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất nông nghiêp (GTZ, 2011).
+ Nhà khoa học
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, các nhà khoa học đã liên kết với nhân dân,
giúp họ tạo ra nông sản có sản lượng cao, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của xã hội.
Sau đây là một số minh chứng cho thấy vai trò của nhà khoa học là không thể thiếu
trong các mô hình liên kết nông nghiệp;
- Giúp bảo tồn và nâng cao chất lượng các sản phẩm của nhà nông như: Tám thơm
Hải Hậu, vải thiều Thanh Hà... Đây là những liên kết dựa trên cơ sở giúp nông dân bảo
tồn giống sản phẩm truyền thống, tạo dựng thương hiệu; Qua các doanh nghiệp kinh
doanh, sản phẩm đã đi vào thị trường, thúc đẩy ngành sản xuất lúa tám thơm Hải Hậu cổ
truyền và vải thiều Thanh Hà phát triển.
- Các nhà khoa học còn lai ghép nhiều giống cây mới, có sức chống bệnh cao,
thích nghi tốt với môi trường để mở rộng ra trồng tại những nơi không thuận lợi như việc
đưa cây điều ghép mở rộng ra trồng ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ - vùng còn nhiều đất
trống, đồi núi trọc, cát trắng mênh mông thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và
Quảng Bình. Cây điều ghép đã phát triển thành công trên vùng đất cát và đất đồi ở vùng
này, bắt đầu cho thu hoạch thành sản phẩm hàng hóa. Như vậy, sản phẩm mới - cây điều
ghép, đã được tạo ra trên cơ sở sự liên kết giữa nông dân và nhà khoa học.
- Giúp nông dân áp dụng KHCN để đạt sản lượng cao, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp,
đáp ứng yêu cầu của thị trường. Bên cạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ để tạo ra
giống mới, với điều kiện khí hậu ngày càng biến đổi thất thường như hiện nay, các nhà
khoa học còn phải nghiên cứu các giải pháp nhằm ứng phó với những tác động của biến

đổi khí hậu đến sản xuất của người nông dân. Nhà khoa học dựa trên cơ sở khoa học để
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng đến ngập lụt, môi trường và hệ
thống thủy lợi của địa phương. Từ đó đề xuất những quy hoạch, giải pháp để đối phó.
9

Peter Timmer P.(2010), Vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp, Tố Như dịch.

15


- Trong bối cảnh đất đai ngày càng khan hiếm, chất lượng đất ngày càng kém,
nguồn nước thì ngày càng ô nhiễm, mực nước ngầm xuống rất thấp dễ có hiện tượng thiếu
nước vào mùa khô như hiện nay, các nhà khoa học còn nghiên cứu các mô hình, công
nghệ quy trình sản xuất sao cho tiết kiệm được nguồn nước, cải thiện, phục hồi được
những phần đất suy thoái nhưng lại không gây ra ô nhiễm môi trường.
- Nhà khoa học chính là việc bảo tồn và phát huy những giống gen cây trồng, vật
nuôi quý hiếm có nguy cơ biến mất. Lai tạo những giống cây, con này với các giống cây,
con hiện tại để tạo ra nguồn gen quý.
Như vậy có thể thấy, để nông nghiệp phát triển một cách bền vững thì vai trò của
những nhà khoa học là rất quan trọng.
+ Doanh nghiệp nông nghiệp
Sản phẩm của nhà nông muốn được trao đổi trên thị trường, chuyển đến người tiêu
dùng đều phải thông qua các doanh nghiệp. Việc các nhà doanh nghiệp hỗ trợ nông dân,
liên kết nông dân, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm cũng là mắt xích quan trọng thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp phát triển. Mặt khác, ba vấn đề lớn của kinh tế thị trường mà từng
nhà nông không thể giải quyết được là (i) thị trường tiêu thụ và thương hiệu, (ii) công
nghệ mới, (iii) vốn đầu tư; Mà chỉ có doanh nghiệp mới có thể giải quyết tốt ba vấn đề
này. Giải quyết ba vấn đề này không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nông mà cho cả nhà
doanh nghiệp chế biến - tiêu thụ nông sản.
Các doanh nghiệp còn “đặt hàng” với các nhà khoa học nghiên cứu giải quyết các

vấn đề từ công nghệ chế biến, bảo quản nông sản đến sản xuất nông phẩm nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất trong cả chuỗi giá trị “từ trang trại đến
bàn ăn”.
Cụ thể là họ không chỉ đầu tư áp dụng các công nghệ mới nhất do các nhà khoa
học tạo ra trong khâu chế biến - bảo quản - tiêu thụ nông sản, mà còn đầu tư giúp nhà
nông áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nông sản ở mỗi trang trại.
Do vậy, hoạt động khuyến nông vì lợi nhuận do các doanh nghiệp thực hiện ngày
càng phát triển, làm cầu nối giữa các nhà khoa học và nhà nông, đóng vai trò quyết định
trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và góp phần đưa sản xuất nông nghiệp theo hướng tập
trung quy mô lớn.
3.3.3. Cơ chế liên kết kinh tế
Để đảm bảo thành công của các liên kết kinh tế, cần có một cơ chế liên kết hợp lý
để tạo môi trường chính sách minh bạch, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia.
16


Theo “Thuyết thiết kế cơ chế10” (Mechanism design Theory) đã đạt giải Nobel
2007 của ba nhà Kinh tế học người Mỹ là Leonid Hurwicz, Eric Maskin và Roger
Myerson thì cơ chế có thể là mọi thể chế và “luật chơi” chi phối các sinh hoạt kinh tế, từ
việc xây dựng kế hoạch trong một nền kinh tế chỉ huy, tổ chức nội bộ một công ty, đến
việc buôn bán nhỏ lẻ trên thị trường. Theo quan điểm này, tất cả các cá nhân, tổ chức khi
tham gia vào một “cuộc chơi” đều phải tuân theo những quy tắc chung của “cuộc chơi”
đó và các chủ thể khi tham gia vào chuỗi giá trị nông sản cũng không nằm ngoài quy luật
này. Do vậy, quá trình liên kết giữa các bên mang tính bền vững và thành công đòi hỏi
phải có một cơ chế liên kết rõ ràng, phù hợp với năng lực và hoàn cảnh nhất định.
Trong nghiên cứu về “Cơ chế liên kết kinh tế giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long
và Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đinh Sơn Hùng (2011) đã nhận định rằng “Hiện
nay, cơ chế liên kết kinh tế chỉ mới dừng lại ở những hợp đồng hợp tác, biên bản thỏa
thuận giữa các bên chứ chưa có một cơ chế liên kết cụ thể, xác định vai trò, trách nhiệm
và những ràng buộc của các bên liên quan”. Chính vì đặc điểm này khiến cho liên kết

vẫn còn rời rạc, mang tính chủ quan, chưa phát huy được hết tìm năng, thế mạnh của từng
chủ thể. Điều cần thiết là có một cơ chế liên kết với sự tham gia của tất cả các bên. Như
vậy liên kết mới có cái nhìn mang tính tổng thể, tránh được tình trạng mạnh ai nấy làm,
dẫm chân nhau giữa các bên hoặc khi gặp những tranh chấp diễn ra, không có cơ sở pháp
lý để giải quyết.
Bên cạnh đó, khi nói đến liên kết kinh tế thì chắc chắn sẽ phát sinh nhiều vấn đề
mới vì mỗi chủ thể đều có một lợi ích khác nhau. Do vậy, bên cạnh có một cơ quan điều
phối thì cần phải có một cơ chế chung để dung hòa lợi ích của các bên tham gia. Để đạt
được điều đó, cơ chế liên kết kinh tế cần phải đạt được một số đặc điểm sau:
- Cơ chế liên kết phải được xây dựng dựa trên sự đồng thuận của các bên tham gia
trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Cần hình thành hệ thống cơ chế sao
cho vừa có tính ràng buộc, tổng quát, vừa có khả năng điều chỉnh uyển chuyển. Hệ thống
các cơ chế có thể bao gồm:
+ Cơ chế mang tính ràng buộc: xây dựng theo hướng tổng quát, mang tầm nhìn lớn
cho toàn chuỗi liên kết, dựa trên các định chế, quy phạm pháp luật của Việt Nam và quốc
tế.
Cơ chế (mechanism) theo Oxford Advanced Learner’s Dictionary thì đó là “a method or a system for
achieving something” nghĩa là “một phương pháp hoặc một hệ thống để đạt được mục đích nào đó”
10

17


+ Cơ chế uyển chuyển, để có thể điều chỉnh cho thích hợp với những diễn biến mới
của nền kinh tế, phù hợp với điều kiện phát triển riêng của từng địa phương. Thứ nhất,
cơ chế liên kết ở cấp độ chính quyền. Hình thức thực thi của cơ chế này rất phong phú:
đối thoại thông qua diễn đàn, các tổ công tác, hay cuộc gặp định kỳ với các nhà lãnh đạo
địa phương với các cơ quan ban ngành chức năng và các doanh nghiệp...Thứ hai, cơ chế
thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, hội doanh nghiệp. Hỗ trợ xây dựng và phát triển
thêm các hiệp hội có tổ chức tốt và đại diện được cho quyền lợi của các thành viên. Từ

đó tạo tiền đề để mở rộng quy mô hoạt động, thu hút thêm các thành viên tham gia.
- Tuy nhiên, nguyên tắc đồng thuận chỉ phát huy tác dụng ở giai đoạn khởi động,
song khi hợp tác đi vào chiều sâu, đối với một số vấn đề lớn hoặc hiệu quả nhanh, nếu
căn cứ theo nguyên tắc đồng thuận sẽ mất đi cơ hội, hoặc giá thành cao, không hiệu quả
và mang tính hình thức. Do vậy cũng cần xây dựng cơ chế “đa số quyết định”. Điều này
có thể xảy ra một số ảnh hưởng đối với lợi ích riêng lẻ của một địa phương nào đó. Tuy
nhiên, để liên kết tổng thể thật sự hiệu quả và bền vững, đôi khi cũng cần hy sinh vì lợi
ích chung và lâu dài của chuỗi liên kết.
Như vậy, Về mặt lý thuyết cơ chế liên kết kinh tế là một hệ thống các quy định do
cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền ban hành, nhằm vận
hành, điều chỉnh, quản lý hệ thống các quan hệ, các yếu tố trong quá trình liên kết kinh tế
giữa các chủ thể kinh tế nhằm đạt tới hiệu quả tối ưu cho sự phát triển kinh tế - xã hội
tổng thể của địa phương. Trong phạm vi nghiên cứu về sự hợp tác, liên kết kinh tế trong
nông nghiệp, các bên tham gia vào chuỗi liên kết này cần thiết phải xây dựng một cơ chế
hoạt động rõ ràng và phù hợp nhằm tạo niềm tin và động lực phát triển cho từng chủ thể
kể cả hộ nông dân, các cơ quan nghiên cứu, các doanh nghiệp hay cơ quan quản lý nhà
nước.
Trong phạm vi nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung tìm hiểu mức độ liên kết của
các chủ thể khác nhau (Hộ nông dân, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và nhà nước) từ khâu
sản xuất - tiêu thụ sản phẩm (chuỗi giá trị). Việc tạo ra sự liên kết của tất cả các chủ thể
tham gia trong toàn bộ quy trình chuỗi theo nhận định sẽ rất khó khăn và phức tạp. Do đó,
dựa trên những bài học thành công của các mô hình liên kết hiện nay, nhóm nghiên cứu
cố gắng tạo ra mô hình liên kết nhỏ (có thể có hai, ba hoặc bốn chủ thể tham gia). Trong
đó, tập trung vào việc nghiên cứu các cơ chế, vai trò, nhiệm vụ cũng như những điều kiện
tác động nhằm đề xuất một mô hình bền vững, khắc phục những hạn chế nêu trên. Để
thực hiện được mục tiêu này, phần trình bày dưới đây sẽ giới thiệu và tìm hiểu mô hình
18


liên kết kinh tế nông nghiệp thông qua chuỗi giá trị.

4. Liên kết kinh tế trong nông nghiệp thông qua chuỗi giá trị
4.1. Khái niệm Chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị là một khái niệm từ quản lý kinh doanh đầu tiên đã được mô tả và phổ
cập bởi Michael Porter vào năm 1985 trong cuốn sách bán chạy nhất của ông có tựa đề:
Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance (Tạm dịch: Lợi
thế Cạnh tranh: Tạo ra và duy trì hiệu suất cao). Khi đề cập đến chuỗi giá trị tức là nói
đến một loạt những hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm (hoặc một dịch vụ) từ lúc
còn là khái niệm, thông qua các giai đoạn sản xuất khác nhau, đến khi phân bố đến người
tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng (Kaplinsky 1999 11; Kaplinsky và Morris
200112). Mục tiêu quan trọng nhất của chuỗi giá trị là đạt được hiệu quả cao nhất, một
chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động để tạo ra giá trị
tối ưu.
Từ những khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu được chuỗi giá trị là một quy
trình liên kết các hoạt động và các bên tham gia từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
Trong đó, những người tham gia chuỗi giá trị làm việc cùng nhau, tận dụng những thế
mạnh của mỗi bên và khắc phục những hạn chế bằng việc thiết lập tính hỗ trợ và các quy
tắc quản trị nhằm tạo ra giá trị cao hơn, mang lại lợi ích tốt hơn cho các bên.
4.2. Phân tích chuỗi giá trị
Tùy theo mục đích mà xem xét mức độ chi tiết khi phân tích chuỗi giá trị. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng ta tìm hiểu hai loại chuỗi giá trị giản đơn và chuỗi
giá trị mở rộng
Chuỗi giá trị nông sản giản đơn
Hoạt động trong các khâu cơ bản từ điểm khởi đầu sản xuất ra nông sản đến điểm
kết thúc của sản phẩm, tức bán trực tiếp đến tay người tiêu dùng cuối cùng (từ thiết kế sản xuất, phân phối - tiêu dùng). Chẳng hạn, hộ nông dân trồng rau xanh, sau khi thu
hoạch, mang ra chợ bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Có thể trước khi đem ra bán, hộ
nông dân có sơ chế rau xanh của mình bằng cách nhặt bỏ rễ, lá sâu… và rửa sơ qua bằng
11

Kaplinsky, R (1999). Globalisation and Unequalization: What can be learned from Value Chain Analysis. Journal
of Development Studies 37(2).

12

Kaplinsky, R and M.Morris (2001). A Handbook for Value Chain Research. Brighton, United Kingdom, Institute
of Development Studies, University of Sussex.

19


nước. Trong chuỗi giá trị chỉ có sự tham gia của người nông dân - người sản xuất trực tiếp
và người tiêu thụ nông sản cuối cùng.
Chuỗi giá trị nông sản giản đơn
Đầu vào sản xuất
Lao Động
Phân bón
Giống cây trồng
Dịch vụ tín dụng
Dịch vụ làm đất

Quá trình sản xuất
của người nông dân

Người tiêu dùng

Chuỗi giá trị nông sản mở rộng
Chuỗi giá trị nông sản mở rộng là được chi tiết hóa hay chuyên môn hóa các hoạt
động và các khâu trong chuỗi giá trị nông sản giản đơn. Mức độ chi tiết, chuyên môn hóa
càng cao thì thể hiện càng nhiều bên tham gia và có liên quan đến nhiều chuỗi giá trị khác
nhau. Cũng giống như chuỗi giá trị nông sản giản đơn, vấn đề ở đây là những hoạt động
nào và thành phần nào của chuỗi được phối hợp và có khả năng tăng giá trị. Quan trọng
hơn là tác nhân nào đóng vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị, giữ vai trò phối hợp và thúc

đẩy hoạt động hiệu quả của toàn bộ chuỗi.
Chuỗi giá trị nông sản mở rộng
Quá trình sản xuất
của người nông dân

Quá trình sản xuất
của người nông dân

Quá trình sản xuất
của người nông dân

Quá trình sản xuất của
người nông dân

Thu mua,
bán buôn

Người thu
gom

Người thu
gom

Người thu
gom

Người bán lẻ

Người bán
buôn


Sơ chế

Người thu
gom

20

Người bán lẻ
Người
tiêu dùng
Phân phối

Người
bán lẻ

Người thu gom


Các tác nhân tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị
Các nhân tố và các liên kết chính trong chuỗi giá trị cần được xác định và làm rõ.
Giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị được tạo ra bởi các liên kết giữa các tác nhân với nhau
và ngay trong tác nhân (intra và inter actor) qua thấu kính của các vấn đề về quản trị, nâng
cấp và phân phối
Tùy theo tính chất của sản phẩm (có thể tiêu dùng ngay hay phải qua sơ chế/chế
biến), vị trí của người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường (trong vùng hay ngoài vùng,
trong nước hay ngoài nước) mà số lượng các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị của sản
phẩm có sự khác nhau. Ngoài ra cũng tùy tính chất của mỗi tác nhân chính trong chuỗi
mà có yêu cầu các hoạt động hỗ trợ khác nhau, qua đó mức độ tham gia của các tác nhân
này cũng khác nhau trong chuỗi giá trị nông sản. Cùng với việc nâng cao hiệu quả hoạt

động của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị thì vấn đề quan trọng là xác định
những hoạt động, thành phần nào của chuỗi cần được hay có thể phối hợp và gia tăng giá
trị cho sản phẩm cuối cùng. Điều quan trọng là phải xác định được ai đóng vai trò chủ đạo
trong chuỗi giá trị, ai sẽ phối hợp và thúc đẩy toàn bộ hoạt động của toàn chuỗi.
Theo đó, trong chuỗi giá trị nông sản, sự tham gia trực tiếp vào chuỗi có thể ở công
đoạn sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản phẩm thô (tươi sống), hoặc công đoạn chế biến
bao gồm sơ chế và tinh chế nông sản. Tham gia vào khâu sản xuất nông nghiệp thường là
những hộ nông dân, các trang trại với quy mô sản xuất rất khác nhau do điều kiện đất đai,
nguồn nước và các điều kiện khác quyết định. Tham gia vào công đoạn chế biến nông sản
lại gồm nhiều hình thức khác, như chế biến thủ công, chế biến cơ giới, chế biến tự động
hóa và kết hợp giữa thủ công và tự động hóa.
Điều quan trọng là giá trị gia tăng được tạo ra ở hai nhóm công đoạn trên khác
nhau, thường thì ở công đoạn sản xuất nông nghiệp chỉ tạo ra giá trị gia tăng rất thấp do
năng suất của ngành nông nghiệp thấp hơn so với khu vực chế tạo, quá trình sản xuất với
đối tượng là cây trồng, vật nuôi là những sinh vật sống có quy luật sinh trưởng và phát
triển riêng, lại chịu sự ảnh hưởng của khả năng sử dụng đất đai, nguồn nước cũng như ảnh
hưởng của các điều kiện khí hậu, thời tiết… nên có rất nhiều hạn chế.
Ngoài ra, tại các nước đang phát triển như Việt Nam, quy mô sản xuất nông nghiệp
nhỏ bé, tính chất sản xuất hàng hóa chưa cao, còn mang nặng tính tự cấp tự túc, lao động
thủ công là chính nên năng suất lao động thấp và hạn chế, hơn nữa, khả năng thay đổi
công nghệ sản xuất rất khó khăn, khả năng đầu tư vào công nghệ mới rất hạn chế; nông
dân thường sản xuất theo tập quán, kinh nghiệm từ xưa đến nay, truyền từ đời này sang

21


đời khác, lạc hậu… nên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của sản xuất và vị thế của
nông dân trong đàm phán nói chung và tham gia vào chuỗi giá trị nông sản nói riêng.
Trong khi đó, sở hữu công đoạn chế biến là những nhà đầu tư có vốn, có mục đích
kinh doanh vì lợi nhuận, họ giữ bí quyết chế biến, và sử dụng nó để mưu cầu lợi nhuận.

Một nhà chế biến có thể có mối quan hệ với nhiều hộ nông dân sản xuất, vì vậy họ thường
mua bán với hộ nông dân theo nguyên lý “mua đứt, bán đoạn”. Sự chia sẻ lợi ích giữa hai
công đoạn sản xuất và chế biến là hết sức khó khăn và luôn ẩn chứa những mâu thuẫn, đôi
khi nảy sinh quan hệ đối kháng, bất hợp tác.
Sự hợp nhất giữa hai nhóm công đoạn nói trên tạo ra mối liên kết dọc và là điều
kiện tiên quyết của sự hình thành và phát triển chuỗi giá trị nông sản.
Trong trường hợp chuỗi giá trị nông sản mang tính toàn cầu thì hai công đoạn này
phải được tổ chức rất chặt chẽ để tạo nên mối liên kết dọc giữa sản xuất nông nghiệp với
chế biến công nghiệp, điều này là vô cùng khó vì nhà chế biến thường không quan tâm tới
sự hài lòng hay không của người nông dân đã cung cấp đầu vào sản phẩm cho mình. Vì
vậy sự tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị nông sản ở công đoạn sản xuất nông nghiệp tuy
không khó khăn, do không đòi hỏi nhiều vốn và kỹ thuật cao, nhưng gặp trở ngại lớn về
khả năng liên kết với các tác nhân ở công đoạn chế biến, tức là liên kết giữa tầng lớp nông
dân và các doanh nghiệp, nhà đầu tư.

22


×