Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Đảng bộ tỉnh phú thọ thực hiện chủ trương xóa bỏ dần dần phạm bi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến (1945 1953)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.31 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------******----------

ĐỖ KHÁNH CHI

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ THỰC HIỆN
CHỦ TRƢƠNG XOÁ BỎ DẦN DẦN PHẠM
VI BÓC LỘT VÀ THU HẸP CHẾ ĐỘ
CHIẾM HỮU RUỘNG ĐẤT CỦA ĐỊA CHỦ
PHONG KIẾN
(1945-1953)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2009

-1-


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA: LỊCH SỬ
---------******-----------

ĐỖ KHÁNH CHI

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG
XOÁ BỎ DẦN DẦN PHẠM VI BÓC LỘT VÀ THU HẸP
CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU


RUỘNG ĐẤT CỦA ĐỊA CHỦ

PHONG KIẾN
(1945-1953)

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản ViệtNam.
Mã số

: 602256
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.NGND LÊ MẬU HÃN

Hà Nội - 2009

-2-


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2

Chương 1: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng xoá bỏ

7

dần dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu ruộng
đất của địa chủ phong kiến (1945-1949)

1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở Phú Thọ trƣớc năm 1945
1.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện Chủ trƣơng xoá bỏ dần

7
18

dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa
chủ phong kiến (1945-1949)
1.2.1. Từ năm 1945 tới tháng 12 năm 1946

18

1.2.2. Từ năm 1946 tới năm 1949

32

Chương 2: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng giảm

46

tô, giảm tức (1949- 1953)
2.1. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng triệt để giảm

46

tô, giảm tức (1949- 1953)
2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện công tác thuế nông

60


nghiệp và tiếp tục tiến hành giảm tô, giảm tức cho nông dân (1951
– 1953)
Chương 3: Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện triệt để giảm tô,

79

giảm tức và thí điểm cải cách ruộng đất
3.1. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng phát động

79

quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức
3.2. Thực hiện thí điểm cải cách ruộng đất ở Phú Thọ
KẾT LUẬN

83
97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

PHỤ LỤC

110

-3-


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nông dân đã tham gia cuộc vận động cứu nƣớc, giải phóng dân tộc
thì bất cứ bao giờ và ở đâu họ cũng tham gia với tƣ cách là những ngƣời có
quyền lợi dân tộc và giai cấp phải đấu tranh. Vì vậy, đem lại quyền dân chủ
cho nông dân là một vấn đề hết sức quan trọng trong đƣờng lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lịch sử của nhân loại trong thế kỷ XX là lịch sử đấu tranh vì quyền
cơ bản của các dân tộc và con ngƣời. Kinh nghiệm của cách mạng Việt
Nam và thế giới trong thế kỷ XX cho thấy, ở nơi nào và thời điểm nào đó
mà vấn đề dân tộc và con ngƣời không đƣợc giải quyết đúng đắn thì tự nó
sẽ hạn chế triệt tiêu động lực và thậm chí cả những thành quả cách mạng
đƣợc xây đắp trong nhiều thập kỷ. Những gì đang diễn ra trên thế giới dù là
thuận lợi hay tạm thời thất bại ở chỗ này hay chỗ khác đều là những minh
chứng làm sáng tỏ sự đúng đắn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và con ngƣời trong hƣớng phát triển của dân tộc và nhân loại.
Đƣờng lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ngọn
đuốc dẫn đƣờng cho Đảng bộ các tỉnh đi theo. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ luôn
lấy cƣơng lĩnh, đƣờng lối của Đảng làm kim chỉ nam cho mọi hành động
của mình. Do đó, việc Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng xoá bỏ
dần dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ
phong kiến, đem lại quyền lợi cho nông dân trong các thời kỳ đều diễn ra
theo chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phú Thọ là vùng đất cổ có bề dày truyền thống lịch sử và văn hiến.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, nhân dân Phú Thọ cần cù trong lao động sản
xuất, sáng tạo nhiều loại hình văn nghệ dân gian phong phú. Nhân dân Phú
Thọ luôn phát huy truyền thống của tổ tiên, đoàn kết một lòng, kiên cƣờng,
dũng cảm trong xây dựng và bảo vệ quê hƣơng, đất nƣớc.

-4-



Truyền thống đó càng đƣợc nhân lên gấp bội khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng. Tháng 3 năm 1940, Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ đƣợc thành lập và tập hợp lực lƣợng đứng lên chống ách thống trị
của thực dân, phong kiến giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám và
tham gia vào cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống thực dân Pháp và sau đó là
chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Dƣới sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
hết sức chú trọng giải quyết ruộng đất cho nông dân và thực hiện chủ
trƣơng xoá bỏ từng bƣớc chế độ bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến.
Hiện nay, đất nƣớc ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, tình hình trong nƣớc, khu vực và trên thế giới đã có những thay đổi
căn bản, Phú Thọ cũng đang chuyển mình cùng với đất nƣớc. Giải quyết
vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn đang là vấn đề cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tôi nhận vấn đề Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
thực hiện chủ trương xoá bỏ dần dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ
chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến (1945-1953) làm đề tài
luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đảng lãnh đạo việc thực hiện giải quyết ruộng đất cho nông dân - bộ
phận chủ yếu trong xã hội Việt Nam đã đƣợc nhiều nhà khoa học thuộc các
lĩnh vực khác nhau của khoa học lịch sử nghiên cứu. Có thể nêu lên một số
tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Vấn đề dân cày - Trƣờng Chinh, Võ Nguyên Giáp,
1959, NXB Sự Thật, Hà Nội), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam - Trƣờng Chinh (1975), NXB Sự Thật, Hà Nội, Kháng chiến nhất
định thắng lợi -Trƣờng Chinh (1967), NXB Sự Thật, Hà Nội. Giai cấp vô
sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam- Lê Duẩn (1965),
NXB Sự Thật, Hà Nội. Nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng tháng
Tám- Ban công tác nông thôn Trung Ƣơng (1960), NXB Nông Thôn, Hà


-5-


Nội, Cách mạng ruộng đất - Trần Phƣơng - chủ biên (1968), NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, Một số ý kiến về nông dân Việt Nam - Minh Tranh
(1961), NXB Sự Thật, Hà Nội…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong
việc giải quyết ruộng đất cho nông dân đặc biệt là giải quyết ruộng đất cho
nông dân thời kỳ trƣớc cải cách ruộng đất có rất ít. Chủ yếu là công trình
nghiên cứu trong nội bộ tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài luận văn nhằm tìm hiểu quá trình chỉ đạo và thực hiện giải
quyết ruộng đất cho nông dân của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ 19451953 theo phƣơng pháp cải cách dần dần, thu hẹp phạm vi bóc lột và chiếm
hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, thực hiện khẩu hiệu ngƣời cày có
ruộng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Luận văn trình bày một cách hệ thống quá trình lãnh đạo và thực hiện
giải quyết ruộng đất cho nông dân trong những năm 1945-1953 về quan
điểm, chủ trƣơng và chỉ đạo thực tiễn của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ.
- Nêu kết quả, tác dụng, của đƣờng lối đó với cuộc kháng chiến của
dân tộc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài: “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ thực hiện chủ trƣơng xoá bỏ dần dần
phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong
kiến (1945-1953)” đi sâu tìm hiểu về những chủ trương, chính sách của
Đảng bộ Phú Thọ nhằm đem lại quyền lợi cho nông dân, những thành tựu về
ruộng đất mà nhân dân Phú Thọ đã đạt được trong giai đoạn từ 1945-1953.

-6-



5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng,
vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản
vào cách mạng Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn bên cạnh việc sử dung phƣơng pháp lịch sử là chủ yếu, còn
sử dụng thêm phƣơng pháp lôgic, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp để
thể hiện quan điểm toàn diện, hệ thống và trọng điểm.
5.3. Nguồn tư liệu
Luận văn khai thác các nguồn tƣ liệu chính sau:
- Văn kiện Đảng toàn tập; Hồ Chí Minh toàn tập (1945-1954).
-

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (tập 1: từ 1939-1968)

- Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc: gồm các nhà
lãnh đạo Đảng, Chính phủ và các nhà khoa học Lịch sử.
- Các bài nói chuyện của các đồng chí lãnh đạo Đảng, lãnh đạo tỉnh, tại
các cuộc họp hoặc các buổi tập huấn cán bộ.
- Các số liệu tại Tổng cục thống kê, Trung tâm lƣu trữ quốc gia III
- Các tƣ liệu tại phòng lƣu trữ Ban tuyên giáo tỉnh uỷ
- Các tài liệu lƣu trữ tại Văn phòng tỉnh ủy Phú Thọ
- Các tài liệu lƣu trữ tại Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ.
- Tài liệu lƣu trữ tại Sở Tài nguyên môi trƣờng tỉnh Phú Thọ
- Tại liệu lƣu trữ tại Sở Nông nghiệp Phú Thọ
Tuy nhiên, tài liệu đều hết sức rải rác, không tập trung, chủ yếu là các
tài liệu về ruộng đất thời kỳ sau năm 1954, tài liệu trƣớc năm 1954 có rất ít,

lại quá cũ, chữ mực in đã mờ, rất khó đọc chính xác, nên việc nghiên cứu
cũng gặp một số khó khăn.

-7-


6. Bố cục cơ bản
Chƣơng 1: Thực hiện chủ trƣơng xoá bỏ dần dần phạm vi bóc lột và thu
hẹp chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến (1945-1949)
Chƣơng 2: Thực hiện chủ trƣơng giảm tô, giảm tức (1949-1953)
Chƣơng 3: Thực hiện triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất

-8-


Chƣơng 1: THỰC HIỆN CHỦ TRƢƠNG XOÁ BỎ DẦN DẦN PHẠM VI
BÓC LỘT VÀ THU HẸP CHẾ ĐỘ CHIẾM HỮU RUỘNG ĐẤT CỦA
ĐỊA CHỦ PHONG KIẾN (1945-1949)
1.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở Phú Thọ trƣớc năm 1945
Sau khi bình định xong Việt Nam, Pháp bắt tay vào khai thác, bóc lột
nhân dân thuộc địa. Nhân dân Phú Thọ cũng nằm trong tình cảnh khổ cực
chung với nhân dân Bắc kỳ. Đế quốc Pháp thống trị và bóc lột nhân dân
trong đó chủ yếu là nông dân - giai cấp chiếm đại bộ phận dân số nƣớc ta.
Đối với đế quốc, chính trị là thủ đoạn, còn mục đích cƣớp nƣớc là kinh tế.
Mục đích kinh tế căn bản của chúng là khiến cho chúng đƣợc nhiều lợi
nhuận, mà muốn nhiều lợi nhuận thì dựa vào việc bóc lột lao động ở chính
quốc và thuộc địa. Mà bóc lột lao động thuộc địa, chủ yếu là bóc lột nông
dân, bán hàng hóa của chính quốc cho nông dân thuộc địa theo giá độc
quyền, mua sản phẩm của nông dân rẻ mạt, dùng nông dân để khai thác
hầm mỏ, đồn điền.

Trƣớc Cách mạng tháng Tám, Phú Thọ chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp. Với một hệ thống sông ngòi, đầm hồ phong phú cũng góp phần
thúc đẩy nông nghiệp trong tỉnh phát triển. Các đoạn sông lớn chảy qua
tỉnh nhƣ sông Hồng (sông Thao) dài 140km, sông Lô dài 70km, sông Đà
dài 41km, đã bồi đắp phù sa màu mỡ cho các cánh đồng ven sông, đồng
thời tạo điều kiện giao lƣu đƣờng thuỷ giữa các vùng trong tỉnh và các tỉnh
bạn.
Là một tỉnh miền núi, nhƣng địa hình Phú Thọ vừa có tính chất miền
núi, trung du, vừa có tính chất đồng bằng. Đoạn sông Hồng chảy qua Phú
Thọ (Sông Thao) đã chia Phú Thọ thành hai miền có những đặc điểm khác
nhau và hình thành địa hình mang ba tính chất trên.

-9-


Miền tả ngạn sông Hồng, gồm đất đai các huyện Đoan Hùng, một
phần đất huyện Hạ Hoà, Thanh Ba, Phù Ninh, Lâm Thao và ngoại thành
Việt Trì, có nhiều đồi gò nối tiếp nhau san sát nhƣ bát úp, rất phù hợp cho
phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây nguyên liệu giấy,
cây ăn quả…Nhờ nằm ven các sông Hồng, sông Lô, sông Chảy, nên miền
này hàng năm đƣợc phù sa bồi đắp, đất tốt, có nhiều cánh đồng lớn, vựa lúa
của tỉnh.
Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đƣợc thể hiện cụ thể trong bảng
thống kê sau:
STT Các huyện, Diện tích Diện tích đất Diện tích đất Diện tích Diện
thành phố

tự nhiên

nông nghiệp


lâm nghiệp

đất ở

đất chƣa sử
dụng

1

Việt Trì

11098,83

2308

3602

1090

54

2

Phù Ninh

18637,32

8981


4149

675

2431

3

Cẩm Khê

13096

8769

3370

546

1436

4

Đoan Hùng 30240

16012

5469

879


547

5

Thanh Sơn

120921

15365

61196

1063

4245

6

Thanh

12097

6906

9657

496

1324


Thuỷ
7

Thanh Ba

19503,43

10873

2679

1497

376

8

Hạ Hoà

33930

20674

4078

768

548

9


Lâm Thao

9754,59

4098

980

974

231

10

Tam Nông

14659

11500

453

487

164

11

Yên Lập


102892

16856

56731

451

2879

Bảng 1.1: Diện tích đất nông nghiệp phân bố ở Phú Thọ (đơn vị: ha)
(Nguồn: Sở nông nghiệp Phú Thọ, thống kê năm 1944)

- 10 -

tích


Qua bảng số liệu cho thấy diện tích đất nông nghiệp thời kỳ trong
kháng chiến chống Pháp chiếm tới hơn 2/3 diện tích tự nhiên toàn tỉnh, còn
lại là diện tích đất ở và đất lâm nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp tập trung
ở các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Thanh Thuỷ, Tam Nông, Hạ Hoà do
sông Hồng, sông Đà bồi đắp, thích hợp cho việc trồng lúa, cây hoa màu,
nhƣng năng suất thời kỳ này không cao lắm, chủ yếu là do hạn hán, lũ lụt
mất mùa, không tập trung khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Diện tích đất chƣa sử dụng cũng chiếm diện tích lớn, chủ yếu tập
trung ở các huyện miền núi có diện tích núi đá vôi lớn nhƣ: Thanh Sơn,
Phù Ninh, Yên Lập. Các dãy núi ở đây thuộc đoạn cuối của mạch núi
Hoàng Liên Sơn. Vì đây là miền núi nên các căn cứ chống Pháp thời kỳ

Cần Vƣơng, các chiến khu thời kỳ tiền khởi nghĩa, các kho tàng của Trung
ƣơng thời kỳ kháng chiến chống Pháp…đều xây dựng ở vùng này. Diện
tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp thời kỳ trước cách mạng tháng Tám lại
chủ yếu nằm trong tay địa chủ và thực dân Pháp.
Ngoài số ruộng đất nằm trong tay Pháp và địa chủ ngƣời Việt thì số
ruộng của nhà thờ, của đình làng, chùa cũng chiếm đáng kể. Phú Thọ tính
tới thời điểm năm 1945 thì có 117 nhà thờ, 318 đình và 112 chùa, 208 nhà
thờ họ [7, 1-3]. Trong thời kỳ Pháp thống trị thì các nhà thờ đƣợc Pháp ƣu
ái tặng cho nhiều ruộng, còn đình chùa chủ yếu là do dân đóng góp, tự
nguyện cắt đất của mình ra hiến cho đình, chùa, và xây nhà thờ họ. Bảng
thống kê diện tích đình chùa thời gian từ 1943 tới 1954 cho thấy sở hữu của
đình chùa, nhà thờ cũng có sự chênh lệch:
Năm

Diện tích ruộng Diện tích ruộng Diện tích ruộng thờ
của nhà thờ

của đình chùa

cúng làng họ

1940

441

54

12

1944


454

23

14

- 11 -


1946

201

89

11

1950

154

105

29

1951

150


112

32

1953

121

104

21

Bảng 1.2: Bảng thống kê diện tích ruộng của nhà thờ, đình chùa, nhà
thờ họ qua các năm (đơn vị: Ha)
(Nguồn: Sở nông nghiệp Phú Thọ, tài liệu thống kê các năm 1940,
1944, 1946,1950,1951,1953)

500
450
400
350
300

ruéng ®Êt nhµ
thê
ruéng ®Êt ®×nh
chïa
ruéng ®Êt cña
nhµ thê hä


250
200
150
100
50
0
1940

1944

1946

1950

1951

1953

Bảng 1.3: Biểu đồ thể hiện sự thay đổi diện tích của ruộng đất thờ
cúng họ, ruộng đất của nhà thờ, đình chùa qua các năm.
Qua biểu đồ trên có thể nhận thấy, trƣớc năm 1945 diện tích ruộng
của nhà thờ Công giáo ở Phú Thọ khá lớn. Chủ yếu là do thực dân Pháp và
địa chủ Pháp dựng lên, tuyên truyền, tặng nhiều ruộng đất cho nhà thờ.
Pháp lấy nhà thờ làm trụ sở truyền giáo của mình. Hơn nữa, ở Phú Thọ, lực
lƣợng dân đi theo Công giáo khá lớn nên giáo dân cũng tích cực đóng góp
cho nhà thờ. Tới sau năm 1945, số lƣợng ruộng có giảm do giáo dân di cƣ

- 12 -



ra nƣớc ngoài, đi sơ tán và đặc biệt là do chính sách đem lại ruộng đất cho
nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam nên một số nhà thờ phải nhƣờng lại
đất cho nông dân sở hữu cày cấy.
Ruộng đất của đình chùa thì không có sự chuyển biến nhiều. Trƣớc
năm 1945, ruộng đất đình chùa ít, do thực dân Pháp tìm cách phá hoại
nhiều đình chùa của ta, phá hoại nền văn hoá của ta. Do đó mà nhiều ruộng
đất của đình chùa bị bỏ hoang. Sau năm 1945, do chính sách khôi phục văn
hoá của Đảng và nhà nƣớc ta mà các đình chùa đƣợc tu bổ, xây dựng lại.
Ruộng đất của nhà thờ họ qua các năm thì ít chuyển biến, chiếm ít
diện tích, chủ yếu là do con cháu trong họ đóng góp và chủ yếu là họ lớn,
có kinh tế mới đóng góp đƣợc nhiều ruộng cho nhà thờ họ.
Dƣới ách đế quốc, kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế Phú Thọ
nói riêng phát triển rất chậm, không cân đối, nƣớc Việt Nam luôn lệ thuộc
vào nƣớc Pháp về mặt kinh tế cũng nhƣ chính trị và văn hóa, không thể
phát triển một cách độc lập, tự chủ đƣợc.
Trƣớc cách mạng tháng Tám, dân cƣ Phú Thọ rất thƣa thớt, nhất là
các huyện miền núi, hầu nhƣ dân số không phát triển lên đƣợc: Theo số
liệu trong Dƣ địa chí thì năm 1901 Phú Thọ có 259.000 ngƣời, năm 1932
có 275.000 ngƣời, năm 1939 có 301.500 ngƣời. Nguyên nhân của tình
trạng này là một phần do điều kiện sinh sống khó khăn, ăn ở không hợp vệ
sinh, nạn sốt rét, nạn hữu sinh vô dƣỡng đã cƣớp đi nhiều sinh mạng ngƣời,
một phần khác, Phú Thọ là căn cứ địa của nhiều cuộc khởi nghĩa nên đã bị
thực dân Pháp mở các cuộc hành quân chống phá, làm cho dân phải lƣu tán
đi nơi khác. Do dân cƣ thƣa thớt nên dƣới thời phong kiến cũng nhƣ thời
Pháp thống trị, dân nghèo vùng đồng bằng đã lên đây khai khẩn lập nghiệp
trở thành dân địa phƣơng. Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán
triều Nguyễn biên soạn cho biết: “Đất này vì bị binh lửa lâu ngày, hộ khẩu

- 13 -



điêu tán, mƣời phần chỉ còn độ năm ba mà thôi, nhân dân sợ hãi mà lƣu
tán, nên ngƣời hạt Sơn Tây lên khai khẩn ruộng hoang” [27, 267]
Thời kỳ Pháp thống trị, Phú Thọ là tỉnh có nhiều đồn điền, mà tá
điền phần lớn là dân nghèo vùng đồng bằng do chủ chiêu mộ lên, mặt khác
bọn thống trị thực dân đã khuyến khích dân nghèo vùng xuôi lên khai khẩn
lập nghiệp. Vì vậy dân số tăng thêm, một số xóm làng mới ra đời. Nhƣ vậy,
dân cƣ Phú Thọ là sự hoà quyện, hoà nhập một cộng đồng giữa ngƣời dân
bản địa sống lâu đời ở địa phƣơng với đồng bào các tỉnh khác chuyển đến
xây dựng quê hƣơng mới qua các thời kỳ từ lịch sử phong kiến, thời Pháp
thống trí, đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trƣớc cách mạng tháng Tám, Phú Thọ là tỉnh tập trung nhiều đồn
điền, quá trình sở hữu ruộng đất, đồn điền của từng giai cấp trong dân cƣ
Phú Thọ cũng khác nhau. Ruộng đất tập trung chủ yếu trong tay giai cấp
địa chủ và thực dân Pháp, chỉ còn một phần nhỏ ruộng đất là do nông dân
sở hữu. Nông dân phải đi làm thuê, nộp tô, thuế cho địa chủ và tƣ bản
Pháp, bị địa chủ ngƣời Việt và ngƣời Pháp bóc lột sức lao động và quyền
dân chủ một cách cùng kiệt.
Địa chủ ở Phú Thọ cũng có đặc điểm chung của giai cấp địa chủ
Việt Nam. Để bóc lột nhân dân lao động, đế quốc Pháp vẫn duy trì chế độ
bóc lột phong kiến, nuôi dƣỡng chế độ phong kiến chính là để bóc lột theo
lối tƣ bản chủ nghĩa một cách nặng nề. Chúng tìm mọi cách mở rộng sự
bóc lột theo lối phong kiến, làm cho nông dân sản xuất ra nhiều lúa gạo
hơn nữa, nhƣng phải mua hàng hóa của chúng và bán rẻ sức lao động cho
chúng. Nông dân không những bị địa chủ bóc lột mà còn bị tƣ bản đế quốc
bóc lột. Muốn bóc lột nông dân, bọn đế quốc đã làm cho tất cả nông dân
phải mua hàng hóa của tƣ bản Pháp thông qua bọn địa chủ làm trung gian.
Ở Phú Thọ, thực dân Pháp tạo điều kiện cho bọn tƣ bản Pháp và một
số địa chủ ngƣời Việt chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, lập đồn điền.


- 14 -


Phú Thọ là tỉnh liên tiếp diễn ra các cuộc nổi dậy chống Pháp của nghĩa
quân trong phong trào Cần Vƣơng. Thực dân Pháp coi tất cả ruộng đất của
đồng bào đi sơ tán là ruộng đất vô chủ và ngang nhiên cấp cho tƣ bản Pháp
lập đồn điền. Các chủ đồn điền Pháp không những không phải bỏ tiền ra
mua đất, mà còn đƣợc miễn thuế 5 năm liền. Nhiều tên tƣ bản địa chủ lập
tới ba, bốn đồn điền, diện tích chiếm đoạt lên tới hơn 2000 ha, tên ít nhất
cũng chiếm 10 ha (tên Ru-ê (Rouet) có 4 đồn điền ở Thanh Sơn và Tam
Nông rộng 1.595ha; Bi-sô (Bichot) có 3 đồn điền ở Phù Ninh diện tích
2.246ha; Đuy-sơ-manh có 2 đồn điền ở Đoan Hùng rộng 1.113ha…) Làm
cho 80% nông dân Phú Thọ không có ruộng.
Việc chiếm đất lập đồn điền của thực dân Pháp ở Phú Thọ tiến hành
rất sớm, ngay trong thời gian đánh chiếm và bình định (1886 -1893) và kéo
dài cho đến khi Nhật đóng chiếm Phú Thọ. Vì vậy, Phú Thọ là một trong
những tỉnh ở Bắc kỳ có nhiều đồn điền của Pháp và diện tích chiếm đoạt
rất lớn. Nếu tính từ tên địa chủ Pháp đầu tiên lập đồn điền ở Phú Thọ là tên
Đuy-sơ-manh (Duchemin) lập đồn điền ở Đoan Hùng với diện tích 500ha
theo nghị định toàn quyền Đông Dƣơng cấp ngày 4 tháng 5 năm 1889, đến
tên cuối cùng là tên Rơniê (Renie) chiếm 22 ha ở Đồng Lƣơng – Cẩm Khê
năm 1942 thì toàn tỉnh Phú Thọ có cả thảy 23 tên địa chủ Pháp lập 45 đồn
điền với tổng diện tích là 10.521 ha [1, 29]. Tất nhiên số chủ đồn điền này
Pháp này không cố định mà chúng mua đi bán lại cho nhau và bán lại cho
các địa chủ ngƣời Việt.
Trong các đồn điền của Pháp phần lớn trồng lúa, cây ăn quả với kỹ
thuật canh tác thô sơ, lạc hậu, và hình thức bóc lột vẫn là tô thuế nhƣ thời
phong kiến. Cũng có một số tên bỏ vốn kinh doanh trồng cây công nghiệp
nhƣ sơn, chè, cà phê và chăn nuôi đại gia súc, bóc lột theo lối tƣ bản. Ở
những đồn điền này, công nhân nông nghiệp hƣởng lƣơng theo ngày, mỗi

ngày làm việc từ 10 –12 giờ dƣới sự giám sát chặt chẽ của cai ký. Số công

- 15 -


nhân làm trong các đồn điền Pháp một phần là nông dân trong tỉnh bị bần
cùng hoá, bị mất ruộng, phần khác là nông dân đói khổ các tỉnh vùng đồng
bằng lên.
Chính quyền thực dân có cho xây dựng một số công trình tiểu thuỷ
nông nhƣ cống đập, kênh mƣơng và lập trại thí nghiệm Phú Hộ. Nhƣng các
công trình và trại thí nghiệm này không phải là để “mở mang kinh tế”, là
“khai hoá” cho dân thuộc địa Việt Nam nhƣ chúng vẫn tuyên truyền, mà
chủ yếu để phục vụ cho các đồn điền lớn, để bọn thực dân vơ vét của cải
của nhân dân tỉnh ta ngày càng nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu của
chúng thì chỉ có thể áp dụng đƣợc ở đồn điền còn ngƣời nông dân lao động
thì không có điều kiện và không biết chữ để áp dụng.
Địa chủ dựa vào thực dân Pháp và đƣợc thực dân Pháp nuôi dƣỡng,
chúng đã chiếm đoạt nhiều ruộng đất và bóc lột nông dân rất thậm tệ. Có
tên địa chủ đồn điền rộng tới 1360 ha nhƣ Trịnh Xuân Nghĩa ở Phù Ninh,
nhiều tên khác đồn điền rộng 400-500 ha. Theo số liệu của ty Địa chính
Phú Thọ lập ngày 12 tháng 8 năm 1946 thì đến Cách mạng tháng Tám năm
1945, trừ hai huyện Thanh Ba và Hạc Trì chƣa thống kê đƣợc, còn lại 9
huyện trong tỉnh có các đồn điền lớn, số địa chủ và diện tích chiếm đoạt
nhƣ sau:
- 27 địa chủ ngƣời Việt chiếm 7018,1 ha lập 41 đồn điền.
- 16 địa chủ ngƣời Pháp chiếm 6210,52 ha lập 22 đồn điền.
- 2 địa chủ ngƣời Hoa chiếm 361,2 ha lập 2 đồn điền.
Chỉ 45 địa chủ (Pháp, Việt, Hoa) chiếm 13589,83ha lập 65 đồn
điền trên tổng số diện tích toàn tỉnh là 73.740 ha.
Nếu kể cả các đồn điền nhỏ và số địa chủ nhỏ không đủ điều kiện lập

đồn điền, chỉ cho phát canh thu tô thì tổng số ruộng đất giai cấp địa chủ đã
chiếm đoạt lên tới gần 70% tổng số diện tích toàn tỉnh.

- 16 -


Hình thức bóc lột của địa chủ: Địa chủ có 3 hình thức bóc lột chính:
bóc lột hoàn toàn phong kiến, bóc lột bán phong kiến, bóc lột tƣ bản. Hình
thức bóc lột của địa chủ trong các đồn điền là địa tô và nhân công tá điền
đƣợc chủ giao trâu và giao ruộng để cày cấy, đến vụ thu hoạch tá điền phải
trả công trâu và nộp địa tô. Lấy đồn điền Phú Lộc của địa chủ Trịnh Xuân
Nghĩa làm thí dụ: Đồn điền Phú Lộc có 500 tá điền, mỗi mẫu ruộng cấy lúa
phải nộp 8 thúng thóc khô địa tô (mỗi thúng 25 kg); đất trồng sơn, sắn nộp
tô tiền, mỗi mẫu 2.5 đồng. Trâu thuê mỗi năm nộp 10 đồng, 8 đồng hoặc 6
đồng tuỳ theo loại trâu khoẻ, trung bình hay yếu. Ngày tết, giỗ, tá điền phải
đến phục dịch và có lễ vật biếu chủ. Ngoài số tá điền làm trong đồn điền,
chủ còn thuê nhân công đến làm sơn, chè, cà phê, với giá công rất rẻ mạt,
chỉ có 0,12 đồng đến 0,18 đồng một ngày, trong khi giá công làm thuê bên
ngoài mỗi ngày là 0,2 đồng. Vì bị bóc lột nên tá điền đấu tranh đòi giảm tô,
đòi ruộng đất, nhƣng các cuộc đấu tranh đòi giảm tô, đòi ruộng đất, nhƣng
các cuộc đấu tranh của tá điền đều bị chủ báo cho bọn thống trị đƣa binh
lính về đồn điền đàn áp, bắt giam ngƣời cầm đầu.
Nói chung giai cấp địa chủ, nhất là đại địa chủ, cấu kết rất chặt chẽ
với đế quốc. Chúng nắm giữ bộ máy hào lý ở làng xã, bóc lột hà hiếp nông
dân. Chúng là đối tƣợng của cách mạng. Tuy nhiên, trong cao trào chống
Nhật cứu nƣớc, do bị bọn Pháp – Nhật động chạm mạnh mẽ về quyền lợi
do tiếng vang của các chiến khu cách mạng dội về nên một số địa chủ nhỏ
có tinh thần yêu nƣớc đã ủng hộ cách mạng, tham gia và cho con em tham
gia các đoàn thể cứu quốc, một số gia đình họ là nơi lui tới của cán bộ cách
mạng.

Nông dân chiếm 90% dân số của tỉnh nhƣng chỉ có 30% có diện tích
ruộng đất canh tác. Bị mất ruộng, bị bần cùng hoá, nhiều nông dân đã phải
lĩnh canh ruộng địa chủ nộp tô thuế, một số ngƣời đến làm tá điền ở các
đồn điền lớn. Vốn có mâu thuẫn truyền kiếp với giai cấp địa chủ phong

- 17 -


kiến, nên lại thêm mối hận thù sâu sắc với đế quốc Pháp, nên nông dân Phú
Thọ đã tham gia hầu hết các phong trào yêu nƣớc chống Pháp. Từ khi đƣợc
cán bộ Đảng giác ngộ, trở thành lực lƣợng chủ yếu hoạt động trong các
phong trào và tổ chức cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Do thuỷ lợi không đƣợc chú ý, thiên tai dịch bệnh xảy ra thƣờng
xuyên, phƣơng pháp canh tác vẫn lạc hậu nhƣ thời phong kiến, nên nhìn
chung diện tích lúa chỉ cấy một vụ chiêm hoặc mùa, sản lƣợng lƣơng thực
rất thấp. Theo Địa chí Phú Thọ năm 1931 tỉnh Phú Thọ có 38.400 ha cấy
lúa, tổng sản lƣợng đạt 46.000 tấn, năng suất bình quân chỉ đạt hơn 10 tạ/ha
(thống kê của Sở địa chính Phú Thọ).
Tƣ bản Pháp và địa chủ thẳng tay bóc lột nhân dân bằng chính sách
thuế khoá rất nặng nề. Thuế đinh (thuế thân) đánh vào xuất đinh từ 18 – 60
tuổi có từ thời phong kiến vẫn đƣợc thực dân Pháp duy trì và tăng cao dần.
Những huyện miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, thực dân
Pháp không thu thuế đinh mà thu thuế theo gia đình và theo từng dân tộc
khác nhau. Mỗi gia đình ngƣời Mƣờng mỗi năm phải đóng 3,5 đồng, gia
đình ngƣời Dao mỗi năm phải đóng 2 đồng. Thuế điền đánh vào diện tích
đất canh tác theo đầu mẫu gồm năm hạng: hạng nhất 2,5 đồng, hạng nhì 1,5
đồng, hạng ba 1 đồng, hạng tƣ 0,2 đồng và hạng năm 0,05 đồng một mẫu.
Phân bổ nhƣ vậy nhƣng khi phân bổ thuế, bọn kỳ hào thƣờng đánh đồng
xấu tốt nhƣ nhau, nên ngƣời nông dân vừa ít ruộng lại phải đóng thuế thay
cho bọn địa chủ có nhiều ruộng toàn ruộng tốt. Riêng năm 1930, Phú Thọ

có 62.960 xuất đinh, phải đóng 151.220, 15 đồng thuế đinh và 192.762,16
đồng thuế điền; cả 2 loại thuế phải đóng là 343.982,31 đồng, tƣơng đƣơng
với 7490 tấn thóc.
Ngoài hai loại thuế trực thu (thuế đinh và thuế điền), nhân dân còn
phải gánh chịu thuế gián thu đánh vào hàng hoá, cũng tức là đánh vào
ngƣời tiêu dùng, nhất là hàng hoá thiết yếu đối với ngƣời dân nhƣ muối,

- 18 -


vải, dầu thắp. Ở thị xã, ngoài thuế đinh, nhân dân phải đóng thuế thổ trạch,
thuế xe cộ, thuế biển hàng…
Thuế khoá đủ loại và ngày càng tăng đã đem lại cho bọn thực dân
nguồn thu lớn, còn đối với ngƣời nông dân là một tai họa. Khi đến vụ thuế
nhiều nông dân phải bán chạy tài sản vốn đã ít ỏi hoặc đến nhà địa chủ vay
lãi với lãi suất cắt cổ để có tiền nộp thuế. Những cảnh quan lại, ký hào sai
tuần đinh bắt trói đánh những ngƣời dân thiếu thuế ở đình, ở điếm, năm nào
cũng xảy ra. Có ngƣời không đủ tiền nộp thuế phải nhận làm tá điền ở các
đồn điền hoặc sợ bị tù, bị đánh mà phải bỏ làng trốn đi nơi khác kiếm ăn.
Do đó vấn đề trƣớc mắt mà Đảng bộ Phú Thọ cần phải giải quyết là
vấn đề đem lại quyền dân chủ cho nông dân. Nông dân trở thành một hạng
vô sản, bị đế quốc và địa chủ bóc lột tới tận xƣơng tủy. Trong khi địa chủ,
thực dân chiếm tới 60-70% tổng số ruộng đất thì hơn 90% dân số chỉ có
khoảng 30%. Mức chiếm hữu ruộng đất khác nhau đã dẫn tới sự khác nhau
căn bản về địa vị trong quá trình sản xuất về nguồn sống và mức sống. Sự
phân phối ruộng đất không đều cùng với phƣơng thức khai thác những
ruộng đất đó đã nói lên tính chất phong kiến và thuộc địa của chế độ ruộng
đất ở Phú Thọ nói riêng cũng nhƣ của nƣớc ta nói chung dƣới thời Pháp
thống trị. Chế độ ruộng đất đó có xu hƣớng ngày càng bành trƣớng thêm
lên bằng cách chèn ép và làm phá sản những ngƣời tiểu nông độc lập và

nuốt chửng những mảnh đất nhỏ bé của họ. Nó đặt tuyệt đại đa số nông
dân Phú Thọ trong tình cảnh bần cùng, đói rách, và giam hãm nông dân
trong vòng nghèo nàn, lạc hậu.
Ngƣời nông dân bị dồn vào tình thế cùng quẫn bởi sƣu cao, thuế
nặng, địa tô nợ lãi cùng đủ mọi sự áp bức nghẹt thở ở nông thôn, cuối cùng
phải rời bỏ vợ con và nơi chôn rau, cắt rốn, bán mình cho bọn chủ đồn điền
và nhận lấy một cuộc sống cơ cực, tù hãm, nô lệ thực sự.

- 19 -


Nhìn chung trƣớc cách mạng tháng Tám kinh tế nông nghiệp Phú
Thọ cũng nhƣ nông dân trong tỉnh hoàn toàn phụ thuộc vào đế quốc thực
dân Pháp và bọn tay sai. Nhân dân Phú Thọ đặc biệt là ngƣời nông dân bị
áp bức về chính trị và bị bóc lột về kinh tế, bị chà đạp về văn hóa, họ bị bóc
lột tàn nhẫn và nặng nề. Một yêu cầu đặt ra cho Đảng bộ Phú Thọ là phải
làm sao để thu hẹp và xóa bỏ phạm vi bóc lột của đế quốc và tay sai, đem
lại quyền lợi cho ngƣời dân trong tỉnh, đặc biệt là nông dân.
1.2. Thực hiện Chủ trƣơng xoá bỏ dần dần phạm vi bóc lột và thu hẹp
chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến (1945-1949)
1.2.1. Từ năm 1945 tới tháng 12 năm 1946
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nhà nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc đã có sự biến
đổi căn bản. Nếu nhƣ trƣớc cách mạng tháng Tám, nhiệm vụ chủ yếu là đấu
tranh giành chính quyền thì ngày nay, nhiệm vụ trung tâm là đấu tranh để
củng cố chính quyền, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ quyền độc
lập, tự do của dân tộc trong một tình thế "nghìn cân treo sợi tóc".
Sau ngày tuyên bố với quốc dân đồng bào và toàn thế giới về quyền
tự do, độc lập của Việt Nam, sáng ngày 3-9-1945, tại trụ sở của Chính phủ
lâm thời ở Bắc Bộ phủ, Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề cấp bách đang

đặt ra trƣớc chính phủ:
Vấn đề thứ nhất: Nhân dân đang đói.
Vấn đề thứ hai: Nạn dốt…hơn 90% đồng bào chúng ta mù chữ
Vấn đề thứ ba: Trƣớc chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị,
rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nƣớc ta không có
hiến pháp. Nhân dân ta không đƣợc hƣởng quyền tự do, dân chủ.
Vấn đề thứ tƣ: Chế độ thực dân đã đầu độc nhân dân ta bằng rƣợu và
thuốc phiện. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân

- 20 -


chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nƣớc, yêu lao động.
Vấn đề thứ năm: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò là lối bóc lột vô nhân
đạo. Hồ Chí Minh đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy.
Vấn đề thứ sáu: Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ
đồng bào Công giáo và đồng bào Lƣơng để dễ thống trị [29, 3].
Ngày 25-11-1945, Ban thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng đã ra bản chỉ thị
quan trọng Kháng chiến kiến quốc, xác định nhiệm vụ chiến lƣợc, nhiệm
vụ trƣớc mắt và những chính sách lớn để chỉ đạo hành động của toàn Đảng,
toàn dân trong cuộc đấu tranh nhằm giữ vững quyền độc lập, tự do, bảo vệ
chế độ mới.
Phân tích cụ thể tình hình trong nƣớc, đánh giá thái độ, âm mƣu của
các thế lực đế quốc đối với cách mạng Đông Dƣơng, bản chỉ thị nêu rõ:
Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì
nước ta chưa được hoàn toàn độc lập.
Nhiệm vụ cứu nƣớc của giai cấp vô sản chƣa xong. Giai cấp vô sản
vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu

hiệu vẫn là "Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết".
Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp xâm lƣợc và phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Chiến thuật của ta lúc này là thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Mở rộng Việt Minh cho nó bao gồm mọi
tầng lớp nhân dân (chú trọng lôi kéo: địa chủ, phong kiến và đồng bào công
giáo…). Chỉ thị đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách song rất cơ bản của
nhân dân ta lúc này là:
1. Củng cố chính quyền cách mạng.
2. Chống thực dân Pháp xâm lƣợc.

- 21 -


3. Bài trừ nội phản.
4. Cải thiện đời sống nhân dân. [29, 26-27]
Trong đó bảo vệ chính quyền cách mạng là nhiệm vụ bao trùm, khó
khăn và nặng nề nhất vì trong điều kiện nƣớc ta lúc bấy giờ "việc giành
chính quyền dễ bao nhiêu thì việc giữ chính quyền khó bấy nhiêu". Muốn
hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải tăng cƣờng và mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân, hòa hợp dân tộc, xây dựng và củng cố đất nƣớc về mọi mặt:
Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và ngoại giao, chống giặc ngoại
xâm gắn liền với chống giặc đói và giặc dốt.
Thực hiện khẩu hiệu "dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết", hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc là nhiệm vụ thiêng liêng và cấp bách
nhất của nhân dân ta lúc bấy giờ. Vì vậy, phải mở rộng khối đoàn kết dân
tộc, gạt bỏ những bất đồng trong nội bộ quốc gia - dân tộc, chĩa mũi nhọn
vào kẻ thù xâm lƣợc bên ngoài và các lực lƣợng phản động tay sai.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám đã đƣa đến việc thành lập
bộ máy chính quyền từ Trung ƣơng tới cơ sở. Chính quyền là công cụ sắc

bén để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ quyền độc lập tự do. Vì vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải củng cố và tăng
cƣờng sức mạnh của bộ máy chính quyền từ Trung ƣơng đến địa phƣơng,
làm cho chính quyền đó thực sự là của dân, do dân và vì dân. Trong phiên
họp của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hà Nội ngày 3-9-1945, chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ : "Trƣớc chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai
trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nƣớc ta không
có hiến pháp. Nhân dân ta không đƣợc hƣởng quyền tự do, dân chủ. Chúng
ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm
càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu" [49, 8].
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, bất chấp sự khủng bố của kẻ thù, cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên của chế độ mới vẫn tiến hành, với 90% cử tri đi bỏ

- 22 -


phiếu. Tổng tuyển cử đã bầu ra quốc hội khóa I với 333 đại biểu thuộc các
giai cấp, tôn giáo và các đảng phái khác nhau. "Tổng tuyển cử là một dịp
cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những ngƣời có tài, có đức, để gánh
vác công việc nƣớc nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử hễ là những ngƣời
muốn lo việc nƣớc thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử. Không phân chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống,
giai cấp, đảng phải, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ
đó nên tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết" [49,
133].
Tổng tuyển cử là mốc quan trọng đầu tiên đánh dấu tiến trình xây
dựng thể chế nƣớc Việt Nam mới, theo chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội họp kỳ đầu tiên tại nhà hát lớn
đã thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch.

Quốc hội thông qua bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của nƣớc
Việt Nam độc lập, tuyên bố chính thể dân chủ cộng hòa, khẳng định quyền
lợi và nghĩa vụ của tất cả các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, tuyên bố
kiên quyết bảo vệ nền độc lập, quyền tự do của nhân dân Việt Nam.
Quốc hội họp kỳ thứ 2 từ 28 tháng 10 tới 9/11/1946 đã thảo luận ra
các nghị quyết về nội trị, ngoại giao thông qua Hiến Pháp, lập chính phủ
mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và bầu Ban thƣờng trực Quốc hội.
Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để
bảo vệ quyền lợi tự do dân chủ nhân dân. Hiến pháp nƣớc Việt Nam dân
chủ cộng hòa đƣợc Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946 đã quy định chính
thể, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, chức năng, vị trí của các cơ quan
lập pháp và hành pháp. Đó là "Bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nƣớc
nhà…Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nƣớc Việt Nam đã độc lập… dân
tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do…" [49, 440].

- 23 -


Với 70 điều Hiến Pháp đã chứa đựng những tƣ tƣởng lớn về nhà
nƣớc Pháp quyền, nhà nƣớc dân chủ kiểu mới và các quyền tự do dân chủ
rộng rãi cho nhân dân.
Trong hai năm 1945-1946, quyền dân chủ về chính trị, xã hội đã
đƣợc thực hành căn bản, ngƣời dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở
thành ngƣời chủ có thực quyền của nƣớc nhà. Họ có mọi quyền tự do ngôn
luận, xuất bản, hội họp, tín ngƣỡng, cƣ trú, tƣ hữu tài sản, bảo vệ nhân
phẩm, bí mật thƣ tín… và quyền đi học.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ở Hà Nội ngày 3 tháng
9 năm 1945, vấn đề giải quyết nạn đói cho nhân dân đƣợc coi là nhiệm vụ
cấp bách đầu tiên. Công cuộc đấu tranh chống "giặc đói" đƣợc phát động
bằng phong trào tăng gia sản xuất và bằng sự đoàn kết của nhân dân. Chính

phủ động viên toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, tổ chức lạc quyên, lập
"hũ gạo tiết kiệm", ban hành kịp thời các sắc lệnh tiết kiệm gạo, cấm tích
trữ lƣơng thực, ƣu tiên vận chuyển lúa gạo từ Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc
Bộ…nhờ đó nạn đói tạm thời đƣợc khắc phục trong các tỉnh phía Bắc.
Chính phủ đã có chính sách điều hòa lợi ích giữa điền chủ và nông
dân nhằm bảo toàn yêu cầu tăng gia sản xuất.
Ngày 20 tháng 11 năm 1945 Chính phủ thông cáo cho các điền chủ
và nông dân phải thực hiện: Điền chủ có nhiệm vụ giảm tô 25% địa tô cho
tá điền, bỏ địa tô phụ và hoãn nợ cho tá điền. Tá điền và nông dân có trách
nhiệm phải nộp tô cho địa chủ, giữ gìn hoa màu, tôn trọng quyền tƣ hữu
của địa chủ. Kết quả của những hoạt động khuyến nông trên đã làm cho đời
sống nông dân dần đƣợc ổn định.
Về pháp luật: Chính phủ ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để bảo
vệ quyền dân chủ cho mọi công dân: Sắc lệnh số 40/SL ngày 29 tháng 3
năm 1946 về bảo vệ quyền tự do cá nhân; Sắc lệnh số 41/SL quy định chế
độ tự do báo chí; Sắc lệnh số 52/Sl ngày 22 tháng 4 năm 1946, quy định

- 24 -


chế độ tự do lập hội; Sắc lệnh số 35/SL ngày 20 tháng 9 năm 1945, bảo vệ
quyền tự do tín ngƣỡng.
Một số thành tựu to lớn khác là công tác xóa mù chữ. Hƣởng ứng lời
kêu gọi của Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh, các lớp bình dân học vụ
đƣợc mở khắp nơi. Hệ thống giáo dục các bậc từ tiểu học, trung học và đại
học đƣợc sớm khai giảng trở lại.
Những thành tựu trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa trong những
năm đầu xây dựng chế độ mới đã thực sự đem lại quyền dân chủ cho nhân
dân, đặc biệt là nông dân.
Cùng với cả nƣớc những ngày sau Cách mạng tháng Tám, Đảng bộ

tỉnh Phú Thọ cũng đã giải quyết vấn đề dân chủ cho ngƣời dân đặc biệt là
nông dân, nhằm hạn chế dần phạm vi bóc lột và thu hẹp chế độ chiếm hữu
ruộng đất của địa chủ phong kiến.
Trong những ngày tháng Tám năm 1945, dƣới sự lãnh đạo của Đảng
bộ và Mặt trận Việt Minh, hàng vạn nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nhất
tề vùng dậy đập tan bộ máy thống trị thực dân phong kiến, thiết lập chính
quyền cách mạng từ làng xã đến huyện, tỉnh. Ngày 25 tháng 8 năm 1945 là
ngày kết thúc thắng lợi cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám trên
phạm vi toàn tỉnh Phú Thọ. Sự kiện lịch sử đó đã đánh dấu một mốc son
chói lọi trong lịch sử tỉnh Phú Thọ và lịch sử Đảng bộ. Cách mạng tháng
Tám thành công đã chấm dứt ách thống trị phong kiến tồn tại hàng nghìn
năm và ách thực dân hơn tám chục năm, lập nên chính quyền cách mạng,
chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Nhân dân Phú Thọ hết thế hệ này đến thế hệ khác đã anh dũng vùng
lên đấu tranh suốt nghìn năm Bắc thuộc chống kẻ thù phƣơng Bắc, sau đó
chống Pháp, đuổi Nhật, nhƣng phải tới Cách mạng tháng Tám họ mới đƣợc
đổi đời, mới thực sự trở thành ngƣời làm chủ vận mệnh mình, quê hƣơng,
đất nƣớc mình. Từ đây nhân dân Phú Thọ cùng cả nƣớc hân hoan bƣớc vào

- 25 -


×