Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.5 KB, 89 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ TRONG CHUYÊN ĐỀ
Biểu Tên Biểu
.......................................................................................................................Trang
Biểu 1.1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người và thay đổi tỷ lệ nghèo
của các quốc gia nghiên cứu trong các thập kỷ khác nhau ........26
Biểu 1.2: Độ co giãn của nghèo đói đối với tăng trưởng ở các quốc gia
trong các thập kỷ ..........................................................................27
Biểu 1.3: Tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam những năm gần đây..................... 31
Biểu 2.1: Cơ cấu dân số theo giới tính qua các năm................................... 40
Biểu 2.2: Cơ cấu dân số theo khu vực cư trú qua các năm......................... 40
Biểu 2.3: Tình hình phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính trong
tỉnh (2005).................................................................................... 41
Biểu 2.4: Tổng hợp kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) của Phú Thọ so với
vùng miền núi phía Bắc và cả nước giai đoạn 2001-2005......... 45
Biểu 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản................................. 48
Biểu 2.6: Tổng hợp tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành (giá
HH ).............................................................................................. 52
Biểu 2.7: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế.................. 53
Biểu 2.8: So sánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Phú Thọ với vùng
TDMNBB và cả nước ..................................................................54
Biểu 2.9: Kết quả điều tra hộ nghèo theo chuẩn mới năm 2005 của Phú Thọ ...56
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình:
Hình 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước và các bộ phận cấu
thành trong những năm gần đây .....................................................32
Hình 1.2: Thu nhập bình quân đầu người/tháng chia theo 5 nhóm thu nhập


(ngũ phân vị).................................................................................36
Bản đồ 1: Bản đồ địa lý Phú Thọ...................................................................38

SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Xóa
đói giảm nghèo (XĐGN) hiện nay ở nước ta được coi là một trong những mục
tiêu quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng
và Nhà nước kêu gọi mọi cấp, mọi ngành, mọi người trong xã hội tập trung
giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm
khoảng cách giàu và nghèo trong các tầng lớp xã hội và giữa các vùng khác
nhau. Trong hơn 20 xây dựng và đổi mới đất nước, nhiều cơ chế và chính
sách đã được thực hiện, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong
tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm khoảng 7 – 8% , vào loại cao trên thế giới đã góp phần quan trọng
vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đưa ra ngày 15/2/2008:
“Việt Nam đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới”; tính bằng
số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày thì tỷ lệ nghèo đói của Việt
Nam đã giảm từ khoảng 68% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với khoảng 34
triệu người đã thoát khỏi nghèo đói. Như vậy, tăng trưởng kinh tế cao, bền
vững là yếu tố quan trọng, tạo ra sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội
cho người nghèo vươn lên thoát khỏi nghèo đói và ngược lại, xóa đói giảm
nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
bền vững.
Tuy đạt đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận suốt thời gian qua,
nhưng cơ bản Việt Nam vẫn là một nước nghèo, có mức thu nhập bình quân
đầu người vào loại thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Đặc biệt, đói nghèo ở nước ta

chủ yếu là ở nông thôn thuộc những vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
1
Chuyên đề tốt nghiệp
tộc thiểu số, do điều kiện kết cấu hạ tầng cơ sở thấp kém, địa hình phức tạp,
tài nguyên rừng bị tàn phá, thiếu nước sinh hoạt, thiếu đất và các cơ sở dịch
vụ khác nên tỷ lệ đói nghèo ở những vùng này cao và điều kiện để xóa đói
giảm nghèo ở những vùng này hết sức khó khăn.
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh miền núi, trung du phía Tây và Nam giáp với
các tỉnh miền núi thuộc vung Tây Bắc, nên đặc điểm địa hình Phú Thọ chia
làm 2 tiểu vùng: Tiểu vùng miền núi gồm các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ
Hòa, còn lại thuộc tiểu vùng trung du đồng bằng. Ngay từ khi tái lập tỉnh,
lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã sớm nhận thức và đã sớm tổ chức triển khai nghiên
cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Việc thực
hiện quy hoạch đã đem lại những hiệu quả nhất định, tăng trưởng kinh tế Phú
Thọ ngày một cao, đời sống nhân dân ngày một cải thiện, tỷ lệ nghèo đói
giảm nhanh. Tuy nhiên do đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng đến tình hình kinh tế
xã hội của tỉnh, Phú Thọ vẫn là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng thấp và tỷ lệ
nghèo đói cao trong cả nước. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam trên đà
phát triển, hội nhập kinh tế thế giới, một câu hỏi lớn đặt ra đối với lãnh đạo
các cấp các ngành và nhân dân Phú Thọ là làm thế nào để Phú Thọ trở thành
một tỉnh giàu, đẹp, xứng đáng với “Đất tổ Hùng Vương”.
Xuất phát từ những bất cập trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh
tế- xã hội và công cuộc xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ tôi đã lựa chọn đề
tài: “Tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ: Thực trạng
và giải pháp” làm để tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luậ và danh mục tài liệu tham
khảo, chuyên đề gồm 3 chương:
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
2

Chuyên đề tốt nghiệp
- Chương I: Những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế và xóa
đói giảm nghèo
- Chương II: Thực trạng về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Phú Thọ.
- Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Phú Thọ.
Chuyên đề hình thành và hoàn thành có sự hướng dẫn của thầy giáo TS.
Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ tại cơ quan thực tập: Trung tâm thông tin tư
liệu, đào tạo và tư vấn phát triển thuộc Viện Chiến lược phát triển. Do nhận
thức về vấn đề còn nhiều hạn chế vì vậy bài viết không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và sự phê bình của thầy
cô để em có thể hiểu biết về vấn đề này được kỹ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
3
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
1.1.1. Khái niệm, bản chất của tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm ( hay gia tăng ) về qui mô sản lượng của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định ( thường là 1 năm ). Đó là kết quả của
tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra.
Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng: mức tăng
thêm của tổng sản lượng nền kinh tế (GDP) ( tính toàn bộ hay tính bình quân
theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước ). Như vậy TTKT được
xem xét trên 2 mặt biểu hiện:
- Sự thay đổi về quy mô GDP
Trong đó

t
Υ
: tổng sản lượng năm nay
1−
Υ
t
: tổng sản lượng năm trước
- Tốc độ tăng trưởng GDP
1.1.2. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Có nhiều nhân tố khác nhau tác động đến tăng trưởng kinh tế, nhưng để
dễ tiếp cận người ta phân thành hai nhóm với tính chất và nội dung tác động
khác nhau: nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế.
1.1.2.1. Nhân tố kinh tế
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
4
1−
Υ−Υ=∆Υ
tt
%100
1
×
Υ
∆Υ
=
−t
g
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là những yếu tố có tác động trực tiếp đến các biến số đầu vào và
đầu ra của nền kinh tế, được thế hiện qua hàm sản xuất tổng quát:
Y = F (X

i
)
Trong đó: Y là giá trị đầu ra
X
i
là giá trị các biến số đầu vào
Từ nghiên cứu hàm sản xuất, ta thấy giá trị đầu ra của nền kinh tế phụ
thuộc chính vào sức mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế, tức là tổng
cầu, còn giá trị các biến số đầu vào có liên quan trực tiếp đến tổng cung, tức
là yếu tố nguồn lực tác động trực tiếp.
* Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung:
Nói đến các yếu tố tổng cung tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói
đến 4 yếu tố nguồn lực chủ yếu là: vốn (K), lao động (L), tài nguyên, đất đai
(R) và công nghệ kỹ thuật (T), được biểu hiện theo theo hàm sản xuất:
Y = F (K,L,R,T)
- Vốn (K): là một bộ phận tài sản quốc gia, là yếu tố vật chất đầu vào
quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, nó là toàn bộ tư liệu
vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy
móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào
trong sản xuất. Ở các nước đang phát sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng
trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất
tăng trưởng theo chiều rộng.. Tuy vậy tác động của yếu tố này đang có xu
hướng giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác.
- Lao động (L): là một yếu tố sản xuất cơ bản. Hiện nay, nguồn lao
động không chỉ đơn thuần là chỉ số lượng (tính bằng đầu người hay thời gian
lao động) mà bao hàm cả chất lượng của lao động, đây là khía cạnh phi vật
chất của lao động gọi là vốn nhân lực (các lao động có kỹ năng sản xuất, trình
độ học vấn, có sáng kiến, phương pháp mới trong sản xuất…). Việc hiểu yếu
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
5

Chuyên đề tốt nghiệp
tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt trong việc phân tích lợi thế
và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
- Tài nguyên, đất đai (R): Đất đai là yếu tố đầu vào quan trọng đói với
mọi ngành sản xuất và dịch vụ, mọi hoạt động sản xuất đều tiến hành trên đất
với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, là
yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cở sở kinh tế cho
các ngành khác. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu
quả sử dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị
diện tích nhằm tăng thêm năng suất.
Ngoài đất đai, nhiều tài nguyên thiên nhiên khác từ trong lòng đất, từ
rừng và biển được chia thành: tài nguyên vô hạn và không thể thay thế, tài
nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Nguồn tài nguyên dồi
dào, phong phú được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng,
nhất là với các nước đang phát triển.
- Công nghệ kỹ thuật (T) Những thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới là yếu tố đầu vào cực kỳ quan trọng, tác động của nó ngày càng
mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ đó
là những thành tựu kiến thức, những nghiên cứu phát minh đưa ra những nguyên
lý, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật được đem áp dụng vào quá trình sản
xuất thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Sự chuyển
giao, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất là một lợi thế đối với
các nước kém phát triển và các nước đang phát triển hiện nay.
* Các nhân tố tác động đến tổng cầu:
Kinh tế học vĩ mô đã cho thấy có 4 yếu tố bao gồm: Chi cho tiêu dùng
cá nhân (C), chi tiêu của Chính phủ (G), chi cho đầu tư (I), chi tiêu qua hoạt
động xuất nhập khẩu (NX= X-M) trực tiếp cấu thành tổng cầu.
- Chi tiêu cho tiêu dung cá nhân (C): đó là những khoản chi cố định, chi
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
6

Chuyên đề tốt nghiệp
thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh.
- Chi tiêu của Chính phủ (G): là những khoản mục chi mua hàng hóa và
dịch vụ của Chính phủ. Nguồn chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả
năng thu ngân sách bao gồm chủ yếu là các khoản thu từ thuế và lệ phí.
- Chi cho đầu tư (I); thực chất đây chính là các khoản chi cho các nhu
cầu đầu tư của các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, gồm có đầu tư vốn cố
định và đầu tư vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết
kiệm ở các khu vực của nền kinh tế.
- Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu (NX = X-M): giá trị hàng hóa
xuất khẩu là các khoản phải chi cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá
trị nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nước nhưng lai
không phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước nên
chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi phí
ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế.
1.1.2.2. Nhân tố phi kinh tế
Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế là các nguồn lực
có ảnh hưởng gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế, các nhân tố này không thể
lượng hóa cụ thể được mức độ tác động của chúng và phạm vi ảnh hưởng của
chính rất rộng và phức tạp. Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách
riêng lẻ mà mang tính tổng hợp, đan xen chính vì vậy người ta không thể
đánh giá tách biệt được. Chúng bao gồm các nhân tố chủ yếu sau;
- Đặc điểm văn hóa – xã hội:
Văn hóa – xã hội là một khái niệm rất rộng, bao trùm nhiều mặt từ các
tri thức phổ thông đến các tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa
học, nghệ thuật, văn học, triết lý tư tưởng, lối sống và cách ứng xử trong quan
hệ giao tiếp, những phong tục tập quán…được xã hội thừa nhận. Trình độ văn
hóa, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản, là động lực, nền
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
7

Chuyên đề tốt nghiệp
tảng tinh thần cho dân tộc đó; xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là
nhân tố cơ bản dẫn đến tăng trưởng kinh tế.
- Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội:
Ngày nay người ta càng ngày càng thừa nhận vai trò của thể chế chính
trị - kinh tế - xã hội như là một nhân tố trong quá trình tăng trưởng kinh tế
theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà
đầu tư. Thể chế biểu hiện như là một lực lượng đại diện cho ý chí của cộng
đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi
ích của cộng đồng đặt ra. Một thể chế chính trị - kinh tế - xã hội ổn định và
mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất
phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.
- Cơ cấu dân tộc:
Cơ cấu dân tộc là tỷ lệ về số lượng dân cư của mỗi dân tộc trong tổng
dân số của một quốc gia. Cơ cấu này có thể phân theo dân tộc, chủng tộc, hay
theo khu vực sinh sống. Mỗi dân tộc có điều kiện sống, bản sắc văn hóa riêng
vì vậy tạo ra sự khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật
chất, tinh thần, về vị trí địa lý và địa vị chính trị xã hội trong cộng đồng.
Tăng trưởng kinh tế có thể đem đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này,
nhưng bất lợi cho dân tộc kia. Đấy có thể là nguyên nhân nảy sinh các xung
đột giữa các dân tộc ảnh hưởng đên quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do
vậy, tăng trưởng kinh tế phải dựa trên tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho
tất cả các dân tộc, nhưng phải bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống
tốt đẹp của mỗi dân tộc. Chính điều này sẽ góp phần khắc phục được các
xung đột, sự mất ổn định chung trong cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình tăng trưởng tiếp theo.
- Cơ cấu tôn giáo:
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
8
Chuyên đề tốt nghiệp

Cơ cấu tôn giáo là tỷ lệ về số lượng dân cư của các loại tôn giáo khác
nhau trong một quốc gia hay một vùng, địa phương. Một quốc gia hay một
vùng, địa phương có thể có nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo có những quan niệm,
triết lỹ tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra
những ý thức tâm lý – xã hội riêng. Những ý thức tôn giáo thường là cố hữu,
ít thay đồi theo sự phát triển kinh tế xã hội, chúng có thể tác động tích cực
hoặc cũng có thể kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.
1.2. Khái niệm đói nghèo và XĐGN.
1.2.1. Khái niệm về đói nghèo.
Hiện nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đưa ra nhiều
khái niệm khác nhau về đói nghèo hay nghèo đói. Nhìn chung, các khái niệm
chỉ nêu những đặc trưng nào đó của nghèo đói như là “thiếu ăn”, “thiếu dinh
dưỡng”, “nhà ở tạm bợ”…, những quan niệm trên chỉ nêu những biểu hiện
riêng nào đó của nghèo đói mà thôi. Khái niệm nghèo đói được nêu ra tại hội
nghị bàn về XĐGN ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức
tại băng Cốc tháng 9/1993: “ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong
tục tập quán của các địa phương”. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất
về đói nghèo, khái niệm trên có những ưu điểm: làm rõ được bộ phận dân cư
nghèo đói là “không được hưởng” hoặc “không thỏa mãn” những nhu cầu cơ
bản, làm rõ tính chất động của nghèo đói là “tùy theo trình độ phát triển kinh
tế, xã hội, phong tục tập quán của các địa phương”.
Nghèo có 2 dạng: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu của cuộc sống.
- Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
9
Chuyên đề tốt nghiệp

mức trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định.
Như vậy, nghèo đói là quan niệm mang tính chất tương đối cả về không
gian và thời gian. Về nghèo tuyệt đối biểu hiện chủ yếu thông qua tình trạng
một bộ phận dân cư không được thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu - trước hết là
ăn gắn liền với dinh dưỡng. Ngay nhu cầu này cũng có sự thay đổi, khác biệt
từng quốc gia. phạm trù “ nhu cầu tối thiểu” cũng được mở rộng dần. Còn về
nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân
cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định. Vì
những lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc xóa dần nghèo tuyệt đối là
công việc có thể làm còn nghèo tương đối là hiện tượng thường có trong xã
hội và vấn đề cần quan tâm là rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và
hạn chế sự phân hóa giàu nghèo.
Đói nghèo là một khái niệm động phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế,
xã hội, lịch sử, mức độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu phát triển con người. Ở
một thời điểm, một vùng, một quốc gia là đói nghèo nhưng sang một thời
điểm khác, vùng khác, nước khác thì chỉ số đó mất ý nghĩa. Do đó rất khó quy
định hợp lý một chuẩn mực về đói nghèo cho mọi quốc gia, ngay trong một
quốc gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, giữa các thời kỳ.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá đói nghèo.
Khi xác định tiêu chí và mức nghèo đói, các công trình nghiên cứu quốc tế
thường chia làm 2 mức độ: phân định giữa các quốc gia và giữa các nhóm dân
cư, từ đó xác định các quốc gia giàu, nghèo trên thế giới và phân chia dân cư
của mỗi quốc gia hoặc từng địa phương thành các nhóm giàu, nghèo.
Đối với quốc gia, Hiện nay, Ngân hàng Thế Giới ( WB ) đưa ra các tiêu
chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng thu nhập bình quân
đầu người theo 2 cách tính:
- Phương pháp Atlas, tức là theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
10
Chuyên đề tốt nghiệp

- Phương pháp P.P.P ( Purchasing power parity ), là phương pháp sức
mua tương đương, cũng tính bằng USD.
Theo phương pháp Atlas, người ta phân tích 6 loại về sự giàu - nghèo
của các nước ( lấy mức thu nhập năm 1990 ).
- Trên 25.000 USD/năm, là nước cực giàu.
- Từ 20.000 USD/năm đến dưới 25.000 USD/năm, là nước giàu.
- Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/năm, là nước khá giàu.
- Từ 2.500 USD dến dưới 10.000 USD/năm, là nước trung bình.
- Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/năm, là nước nghèo.
- Dưới 500 USD/năm, là nước cực nghèo.
Đối với đối tượng nghèo trong dân cư: Hiện nay, trên thế giới các nhà
nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra một số phương pháp xác định
khác nhau- 2 phương pháp được quan tâm nhất là phương pháp của nhà
nghiên cứu kinh tế- xã hội Rowntree và của WB.
- Phương pháp của Rowntree: Để xác định mức nghèo đói, Rowntree đã
tiến hành điều tra về thu nhập và chi tiêu của các gia đình tại thành phố York
( nước Anh ). Qua đó, Rowntree cho rằng mức nghèo đói là mức thu nhập không
đủ để mua sắm các sản phẩm cần thiét để duy trì các hoạt động của cơ thể bao
gồm cả lương thực, tiền thuê nhà và một số nhu cầu tối cần thiết khác. Ông cho
rằng, mỗi gia đình 5 người ( gồm 3 người con và cha mẹ), cần phải chi tiêu tối
thiểu mỗi tuần là 21 xiling 8 xu. Như vậy, gia đình có mức thu nhập một tuần
dưới 21 xiling 8 xu là gia đình thuộc diện nghèo đói. Ở thời kỳ nghiên cứu, trên
cơ sở thông tin thu thập của các gia đình và mức chuẩn nêu trên, Rowntree cho
rằng thành phố York có 10% số dân thuộc diện nghèo đói.
- Phương pháp của WB: Phương pháp này nhằm tìm ra mức chuẩn
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
11
Chuyên đề tốt nghiệp
nghèo đói chung cho toàn thế giới. Phương pháp chủ yếu của WB nhằm thực
hiện 2 yêu cầu: Xác định được mức thu nhập có thể so sánh giữa các quốc gia

và định ra mức ( chuẩn ) nghèo đói chung cho toàn thế giới. Để so sánh mức
thu nhập trên cơ sở điều tra mức thu nhập, chi tiêu của các gia đình và giá cả
hàng hóa, thực hiện phương pháp tính “rổ hàng hóa”, sức mua tương đương
để tính được mức thu nhập dân cư giữa các quốc gia có thể so sánh. Về giới
hạn nghèo đói, WB đưa ra mức năm 1985 là 1 USD/người/ngày. Với mức
trên, WB ước tính có khoảng 24,3% dân số ở các nước đang phát triển với
khoảng 1,2 tỷ người đang phải sống trong nghèo đói.
Đối với Việt Nam, thời gian từ năm 1993 đến cuối năm 2005 Chính
phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo lên để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước trong giai đoạn mới.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 như sau:
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
1.2.3. Các nhân tố tác động đến đói nghèo.
Đói nghèo hay nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội, vừa là vấn đề
của lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát
triển mà quốc gia nào cũng gặp phải. Nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của
con người, từng cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ
khác nhau đều phải quan tâm giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua những
trở ngại cho sự phát triển phồn thịn về kinh tế và từng bước đạt tới sự công
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
12
Chuyên đề tốt nghiệp
bằng xã hội. Tuy nhiên, với mỗi chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và mức
quan tâm cũng khác nhau, song đây là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu hút
được sự quan tâm, phối hợp các nỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế.

Để chống lại đói nghèo, giảm bớt sự nghèo, cần phải xác định đúng
những nhân tố tác động dẫn đến đói nghèo. Có nhiều nhân tố khác nhau tác
động đến đói nghèo, các nhân tố tác động có sự đan xen, thâm nhập vào nhau.
Cả các nhân tố ngoại cảnh tự nhiên lẫn các nhân tố về điều kiện kinh tế xã hội
và nhân tố về điều kiện nội tại của chính những người nghèo.
1.2.3.1. Điều kiện tự nhiên
Đất đai là một nhân tố rất quan trọng để xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là
đối với người nông dân. Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít màu mỡ, canh tác khó,
phân tán…( như địa hình trên đồi, núi đá ở vùng cao) dẫn đến năng suất cây
trồng và vật nuôi thấp ảnh hưởng lớn đến thu nhập cụa các hộ gia đình.
Khí hậu, thời tiết khắc nhiệt, không thuận lợi dẫn đến thiên tai, hạn hán,
lũ lụt… gây mất mùa, thiệt hại về tài sản của nhân dân vùng chịu thiên tai.
Đây chính là nguyên nhân tiềm tang gây ra nạn đói nghèo cấp tính.
Bất lợi về vị trí địa lý ( xa xôi, hèo lánh, vùng sâu, vùng cao…) sẽ là
nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ thiết
yếu ( đường giao thông, điện, y tế, trường học…) làm cho người dân không
có điều kiện trao đổi thông tin, khó khăn trong việc thông thương buôn bán,
ít có điều kiện để tiếp cận với các phúc lợi xã hội trong việc chăm sóc sức
khỏe. Đây cũng là nhân tố dẫn tới đói nghèo.
1.2.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng khá mạnh tới tình trạng đói
nghèo của một quốc gia hay địa phương.
- Chủ trương đường lối chính sách của mỗi quốc gia, sự quan tâm của
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
13
Chuyên đề tốt nghiệp
chính quyền trung ương và địa phương, tình trạng kinh tế của quốc gia trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, trong đầu tư ban đầu, trong xây dựng cơ
sở hạ tầng tối thiểu như: điện, giao thông…, những hạn chế của chính sách vĩ
mô và chính sách cải cách ( tự do hóa thưong mại, cải cách doanh nghiệp…)

là những nhân tố quan trọng có tác động trực tiếp đến đói nghèo.
- Các tệ nạn xã hội ( trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút…) gây thiệt hại
nghiêm trọng tới tài sản của các gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Các
biện pháp hành chính và giáo dục để hạn chế và xóa bỏ các tệ nạn xã hội, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội tạo niềm tin để người dân an tâm sản xuất, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Tình hình kinh tế chính trị có tác động to lớn tới sự giàu sang hay
nghèo đói của một quốc gia, địa phương; nếu chính trị bất ổn, lạm phát kinh
tế, thất nghiệp ở tỷ lệ cao sẽ khiến sản xuất đình trệ, người lao động không có
việc làm, không có thu nhập, từ đó dẫn đến đói nghèo.
- Thị trường là một nhân tố tiềm tàng có tầm quan trọng, là cơ sở để
thoát khỏi nghèo đói. Muốn giảm bớt nghèo đói phải chuyển kinh tế tự nhiên
thuần nông sang nền kinh tế hàng hóa, đa dạng cơ cấu, mở rộng thị trong
nước và phát triển thương mại quốc tế. Một nền kinh tế đóng thì không thể
tránh khỏi đói nghèo.
- Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ
em. Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt.
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường
gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định
trong hộ gia đình và thường được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng
một loại việc. Phụ nữ có học vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà
mẹ cao hơn, sức khỏe của gia đình bị ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Bất bình đẳng giới còn là yếu tố làm gia tăng tỷ lệ sinh và tỷ lệ lây
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
14
Chuyên đề tốt nghiệp
truyền HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ
tình dục.
1.2.3.3. Nhân tố về điều kiện nội tại của các hộ nghèo
- Tiềm lực kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất), khả năng kinh doanh của hộ

nghèo thấp kém. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào
vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng
tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược
lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng
tăng lên. Thiếu đất ảnh hưởng đến đảm bảo an ninh lương thực của người
nghèo cũng như việc hướng tới sản xuất các loại cây trồng có giá trị cao. Đa
số người nghèo giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp,
thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao, giá trị
sản xuất thiếu cạnh tranh trên thị trường và do đó họ lại rơi vào vòng luẩn
quẩn của nghèo khó.
- Lao động có trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề thấp, từ đó họ
khó có khả năng, cơ hội kiếm được việc làm trong các khu vực khác, trong
ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định.
Theo số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng
90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều
tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi
học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%.
Trình độ học vấn thấp dẫn đến khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ
là rất hạn chế. Bên canh đó, trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến các
quyết định có liên quan tới giáo dục sinh đẻ, nuôi dạy con cái… như vậy
không chỉ ảnh hưởng tới thế hệ hiện tại mà đến cả thế hệ tương lai.
- Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
15
Chuyên đề tốt nghiệp
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.
Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh
đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết
các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có

cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu
tập trung ở các thành phố, thị xã, phí dịch vụ pháp lý còn cao.
- Quy mô hộ gia đình là ‘ mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình
nghèo còn cao, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực
về lao động còn rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nghèo đói của họ.
- Người nghèo dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và biến
động bất thường xảy ra với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu
nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả
năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống( mất mùa, mất
việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động… ). Với khả năng kinh tế mong manh
của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo
ra những bất ổn, ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của họ.
Bệnh tật và sức khòe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình
trạng nghèo đói trầm trọng. Chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người
nghèo, đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản làm cho họ khó có thể thoát
ra khỏi nghèo đói.
1.2.4. Ảnh hưởng của đói nghèo.
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
16
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.4.1. Ảnh hưởng về kinh tế
Đói nghèo đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đối với
phát triển. Nói một cách khác, XĐGN là một tiền đề của sự phát triển. Ngược
lại sự phát triển kinh tế xã hội vững chắc gắn tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công công tác XĐGN. Nội dung quan
điểm này xét về thực chất là mối liên hệ tác động qua lại có tính nhân quả

giữa nghèo đói với lạc hậu, chậm phát triển, giữa XĐGN với phát triển.
Nghèo đói không chỉ là một thực tế diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại
phổ biến ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngay cả những
nước giàu có hoặc đạt tới trình độ phát triển cao vẫn còn một bộ phân dân cư
sống ở mức nghèo khổ. Tuy nhiên mức độ và tỷ lệ dân cư nghèo là rất khác
nhau giữa các nước, các khu vực. Nó phản ánh sự khác nhau về trình độ phát
triển, trước hết là phát triển kinh tế. Nét chung, phổ biến là ở chỗ qua hiên
trạng nghèo, đói người ta dễ nhận thấy sự phát triển chậm của lực lượng sản
xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, trình độ thấp kém của phân công lao động xã
hội. Nó dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức TTKT luôn ở những chỉ số
thấp. Thất nghiệp, thu nhập không đủ cho chi dùng vật chất tối thiêu,do đó
càng không thể có điều kiện chi dùng cho nhu cầu văn hóa tinh thần để vượt
qua ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thỏa mãn nhu cầu phát triển chất
lượng con người. Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư.
Nhìn từ góc độ xã hội, nghèo đói của dân cư biểu hiện qua tỷ lệ lao
động thất nghiệp ( tuyệt đối và tương đối ),chỉ số về tổng sản phẩm quốc
nội, thu nhập bình quân theo đầu người, mức độ thấp kém của đầu tư cho
phát triển kinh tế - xã hội, kể cả phát triển giáo dục, khoa học - kỹ thuật,
văn hóa và các lĩnh vực khác như y tế ,chăm sóc sức khỏe cộng đồng và
phúc lợi xã hội.
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển càng kìm hãm. Trình độ phát triển
càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để khắc
phục nghèo đói. Chỉ có thể thoát khỏi bế tắc đó một cách căn bản nếu tìm
được cách phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế từ sự kết hợp những “cú
hích” ban đầu bởi sự hỗ trợ vật chất của nhà nước và toàn thể xã hội đối với
người nghèo, hộ nghèo cùng với việc tổ chức khai thác mọi nguồn lực sẵn có,
đầu tư phát triển những nguồn lực đó, biết cách phát huy lợi thế tiềm tàng để

vượt đói nghèo. Đối với nước ta những lợi thế đó là đất đai, nguồn lực lao
động cũng như các nguồn tài nguyên sẵn có. Hợp tác quốc tế và đầu tư phát
triển cùng với những khả năng huy động vốn ở trong dân để tạo một khối
lượng lớn và quan trọng cho quỹ XĐGN. Sự đầu tư trong nước về ngân sách
và một hệ thống các chính sách , biện pháp khác thúc đẩy XĐGN một cách
thiết thực. Đó là những nhân tố vật chất tạo ra “cú hích” cho sự phát triển.
Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo còn ở chỗ trong
thời đại mở cửa vấn đề hòa nhập và sự bất lợi của nước nghèo, nước chậm
phát triển trong quan hệ kinh tế với các nước khác là rất lớn. Nước nghèo
luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế khi sản phẩm làm ra với chất lượng
thấp, giá thành cao hoặc hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô
chưa qua tinh chế nên lợi nhuận thu được rất thấp. Với trình độ sản xuất lạc
hậu nhiều nước nghèo đang trở thành bãi thải công nghệ lac hậu của các nước
phát triển trong quan hệ hợp tác, viện trợ kinh tế.
Đối với nước nghèo, TTKT với tốc độ chậm sẽ không có vị thế khi đàm
phán, ký kết với các nhà đầu tư nước ngoài và không đủ khả năng tiến hành
hoạt động mang lại lợi nhuân cao như buôn bán và dịch vụ ngân hàng. Vì
thiếu những khả năng này mà Mianma và Lào đang để tài nguyên rừng của
mình lọt dần vào tay công ty khai thác gỗ của Thái Lan. Tương tự như vậy,
chỉ đển khi hệ thống ngân hàng Indonesia được cải cách vào những năm 1980
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
18
Chuyên đề tốt nghiệp
và lớn mạnh dần. Indonesia không còn phải phụ thuộc vào các công ty của
Singapore lo liệu cho vấn đề tài chính. Điều cần nhấn mạnh ở đây TTKT
nhanh với tốc độ lớn là một trong những điều kiện quan trọng giúp đất nước
chống lại nạn ngoại xâm về kinh tế. Để làm được điều này, bên cạnh tăng
trưởng nhanh về kinh tế đồng thời cần có chiến lược phát triển con người.
Nếu có được một lực lượng lao động có văn hóa, có chuyên môn và giàu kinh
nghiệm sẽ là một kho báu quý giá để ngăn chặn sự phụ thuộc quá mức vào

khả năng chuyên môn của nước ngoài. Hơn thế nữa, nước nghèo thường chịu
sự áp đặt của nước giàu, nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế. Từ sự
thua thiệt về kinh tế đã ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nước nghèo trên
chính trường quốc tế. Tiếng nói và vai trò của nước nghèo trên các diễn đàn
quốc tế ít được chú ý. Một nước càng giàu và càng mạnh thì càng có khả năng
nắm lợi thế về kỹ thuật. Nền văn hóa được khẳng định mà không bị đe dọa.
Luôn giữ được độc lập và có chủ quyền trong những lựa chọn của mình. Sự
ảnh hưởng và khả năng làm bá chủ của nước đó càng rộng. Đối với nước càng
nghèo thì càng thiếu ( trong tất cả các lĩnh vực ) những đảm bảo cho phép một
nhà nước, một quốc gia tồn tại.
1.2.4.2. Ảnh hưởng về văn hóa
Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói về văn hóa. Nguy cơ này rất
tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở
từng người, từng hộ gia đình mà còn ở cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển
xã hội.
Ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế luôn là sự nổi trội
gay gắt nhất. Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giàu có. Nhưng sự giàu có
chỉ thuần về vất chất, kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hóa, tinh thần,
sự định hướng giá trị sẽ chỉ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực dụng, sự
thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người … Đi vào lối
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
19
Chuyên đề tốt nghiệp
sống, sự sùng bái giàu có vật chất co nguy cơ phát triển cái xấu, cái ác, làm
nghèo nàn, biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Nếu tình trạng đó xảy ra ở
lớp trẻ sẽ càng nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn, cằn cỗi về văn hóa và nhân
cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế,
thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào phát triển những yếu tố phản phát
triển, chứa chấp mầm mống của bệnh hoạn, suy thoái.
“Nghèo đói về kinh tế dễ nhận thấy và ít ai dám coi thường nó. Cũng

do đó, giàu có về kinh tế dễ trở thành một khát vọng, một đam mê thậm chí
cực đoan, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp mọi thủ đoạn. Nghèo đói về văn
hóa khó nhận thấy hơn và rất dễ rơi vào sự nhận thức muộn màng, có khi phải
trả giá” .Do đó trong khi tập trung mọi nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần
sớm cảnh báo xã hội những nguy cơ và tác hại của đói nghèo văn hóa. Không
sớm dự phòng nó một cách chủ động, xã hội khó tránh khỏi sự thua thiệt bởi
phải trả giá đắt cho sự thiếu hụt văn hóa.
1.2.4.3. Ảnh hưởng về chính trị - xã hội
Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội và chính trị. Các
tệ nạn xã hội phát sinh như: trộm cắp, ma túy … đạo đức bị suy đồi, an ninh
xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đển rối loạn xã
hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp đọ của nghèo
đói vượt qúa giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị như mất ổn
định chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt nguy cơ
“diễn biến hòa bình” và “chiến tranh biên giới mềm”.
Nếu giải quyết không thành công vấn đề giảm nghèo ( trước hết là xóa
đói ) sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội
nói chung. Như thế, mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội Xã
Hội Chủ Nghĩa cũng không thực hiện được. Đối với nước ta trong giai đoạn
của sự phát triển hiện nay và trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, nếu
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
20
Chuyên đề tốt nghiệp
không tập trung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện XĐGN sẽ không thể tạo
được tiền để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm đưa nước ta tới trình độ phát
triển tương xứng với khu vực và quốc tế để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Nghèo đói về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về chính trị
và xã hội. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước
giầu là điều khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập về văn hóa, hệ tư

tưởng và chính trị. Thực tế đã cho thấy trong điều kiện nền kinh tế thế giới đã
quốc tế hóa như ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể giữ vững chế độ
chính trị, độc lập tự do và chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế mạnh.
Ngày nay, không một quốc gia, dân tộc nào có thể tự mình giải quyết được
các vấn đề của phát triển trong mô hình đóng kín, biệt lập như một ốc đảo.
Muốn phát triển phải mở cửa, hội nhập, hợp tác song phương và đa phương
nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản sắc dân
tộc. Do đó, chỉ khi nào làm chủ được chiến lược, sách lược phát triển, việc
nhìn rõ những điều kiện và bước đi trong chiến lược phát triển và có thể khai
thác được nhân tố tiềm lực từ bên trong vào mục tiêu phát triển thì quá trình
tham gia hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài mới có tác dụng tích cực, hiệu
quả và đạt tới sự bền vững. Ngheò đói của dân cư ( nhất là các tầng lớp cơ
bản của xã hội ) đang là lực cản kinh tế xã hội lớn nhất đối với các nước
nghèo hiện nay trong quá trình phát triển và không có khuôn mẫu duy nhất
nào có thể sao chép, áp dụng hệt như nhau cho mọi nước trong việc giải bài
toán kinh tế- xã hội này.
Như vậy, nghèo đói và lạc hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói
buộc các nước nghèo, là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà
mỗi quốc gia, dân tộc và cộng đồng quốc tế phải cùng hợp sức giải quyết.
SVTH: Tạ Minh Tuyền Lớp: Kinh tế phát triển 46
21

×