Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ÔN tập thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.96 KB, 37 trang )

ÔN TẬP
I/ Nhận định
1. Tất cả hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều được điều chỉnh bởi CISG.
 Sai, K1D1 CUV 1980
2. CISG điều chỉnh tất cả các vấn đề trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
 Sai, D4 +D5 CUV 1980
3. CISG không điều chỉnh các hợp đồng gia công quốc tế.
 Đúng, K1D3 CUV 1980
4. Nếu các bên thỏa thuận chon luật áp dụng là CISG thì công ước sẽ điều chỉnh hợp đồng của
họ.
 Sai, khi các bên có thỏa thuận nhưng hợp đồng đó phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế thì công ước viên mới được áp dụng mà hàng hóa này phải thỏa mãn D2 CUV 1980 (hang
hóa không thuộc quy định tại D2)
5. Incoterms điều chỉnh tất cả các vấn đề của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
 Sai, chỉ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của người mua và người bán khi giao nhận hàng hóa
và chuyển giao rủi ro
6. Khi các bên trong hợp đồng thỏa thuận trái với nội dung Incoterms thì toàn bộ nội dung của
incoterms vô hiệu và không thể áp dụng cho hợp đồng.
 Đúng, vì Incoterms là tập quán thương mại quốc tế
7. Các bên có quyên thỏa thuận những nội dung trong hợp đồng trái với nội dung của incoterms.
 Sai, vì các bên được quyền ký theo phụ lục hợp đồng để áp dụng Incoterms
8.Theo CISG, trả lời chào hàng làm thay đổi nội dung chào hàng ban đầu thì cấu thành một
hoàn giá.
 Sai, chỉ có những trả lời chào hàng mang tính thay đổi cơ bản theo K3D19 mới trở thành
một chào hàng mới theo K1D19. Nếu thay đổi không mang tính cơ bản thì được xem là 1 chấp
nhận chào hàng căn cứ tại K2D19
9. Theo CISG, trả lời chào hàng có kèm theo sửa đổi, bổ sung nhưng không làm thay đổi nội
dung cơ bản của chào hàng thì chắc chắn cấu thành một chấp nhận chào hàng.
 Sai, K2D19 (trừ trường hợp bên chào hàng, trong thời gian không chậm trễ, phản đối bằng
lời nói hoặc gửi thông báo từ chối cho bên được chào hàng; nếu bên chào hàng im lặng được coi
là đồng ý)


10. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà một bên kí kết là thương nhân có trụ sở thương
mại tại Việt Nam phải được lập dưới hình thức văn bản.
 Sai, vì theo CUV không bắt buộc về hình thức của hợp đồng quy định tại D11, chỉ bắt buộc lập
dưới hình thức văn bản khi áp dụng D27 LTMVN
11. CISG áp dụng đối với mọi hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được ký kết giữa các bên có
trụ sở thương mại tại các nước thành viên CISG.
 Sai, D10 và D93 CUV
12. Nếu các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều không có trụ sở thương mại tại
các nước thành viên CISG thì công ước không được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng này.
 Sai, vì các bên vẫn có thể thỏa thuận áp dụng CUV để điều chỉnh hợp đồng này
13. Theo CISG, nếu người chào hàng im lặng trước những điều kiện bổ sung trong thư trả lời
chấp nhận đối với chào hàng, thì hợp đồng sẽ được kết lập và bao gồm những điều kiện bổ sung
đó.
 Sai, K2D19 nếu sửa đổi bổ sung không mang tính cơ bản thì được xem là chấp nhận chào
hàng và người chào hàng im lặng được xem là đồng ý. Tuy nhiên nếu sửa đổi bổ sung mang
tính cơ bản thì tạo thành chào hàng mới và cần được trả lời mới được xem là chấp nhận, nếu
im lặng được xem là từ chối (K1D18)


14. Theo CISG, trong mọi trường hợp, một sự trả lời trễ hẹn không được coi là một chấp nhận
chào hàng.
 Sai, K1D21 CUV nếu bên chào hàng chấp nhận
15. Theo CISG 1980, một bên trog hợp đồng được miễn trách nhiệm nếu việc không thực hiện
hợp đồng do bên thứ ba là bên cam kết thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng.
 Sai, K2 D79 CUV chỉ khi nào bên thứ ba cũng được hưởng miễn trách
16. Nếu các bên thỏa thuận vấn đề hiệu lực hợp đồng sẽ do CISG điều chỉnh.
 Sai, Điểm a Đ4 CUV
17. Các điều ước quốc tế là điều luật đương nhiên áp dụng để điều chỉnh quan hệ các bên trong
hợp đồng thương mại quốc tế.
 Sai, chỉ là nguồn luật đương nhiên đối với các quốc gia thành viên

18. Theo CISG, chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có thể áp dụng đồng thời với chế tài
hủy hợp đồng.
 Sai, vì 2 chế tài này mâu thuẫn với nhau
19. Theo CISG, chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không được áp dụng đồng thời với chế
tài yêu cầu bồi thường thiệt hại.
 Sai, K2 D45 CUV; K2D61 CUV
20. Theo CISG, hợp đồng sau khi giao kết vẫn có thể được các bên thỏa thuận sửa đổi bằng lời
nói.
 Đúng, K2 D29 nếu như trong hợp đồng không bắt buộc phải sửa đổi bằng văn bản và nếu
trong hợp đồng đó không có quy định về hình thức của việc sửa đổi, bổ sung thì các bên được
sửa đổi bằng lời nói
21. Một khi báo cáo của ban hội thẩm hay cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua, các bên
tranh chấp phải tuân thủ ngay lập tức .
 Sai. Căn cứ Điều 21.3 của DSU điều chỉnh việc xác định thời hạn thực hiện các khuyến nghị và
pháp quyết được DSB thông qua, bên tranh chaapslieen quan phải thông báo với DSB về kế
hoạch thực thi KN & PQ này của mình. Nếu không được thực hiện ngay lập tức, các khuyến nghị
và phán quyết phải được thực hiện trong một thời hạn hợp lý.
22. Thành viên của WTO có thể đánh thuế cao hơn mức thuế trần đã cam kết với WTO?
 Đúng. Các quốc gia thành viên vẫn có thể tăng thuế sau khi đã tiến hành đàm phám lại và đã
đền bù thỏa đáng cho lợi ích các bên bị thiệt hại do việc tăng thuế đó. Ví dụ trong trường hợp áp
dụng các biện pháp trã đũa thương mại; áp dụng thuế chống bán phá giá; áp dụng thuế đối
kháng;...
23. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, tất cả các vấn đề sẽ được xem xét thông qua
trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận nghịch?
 Sai. Vì nguyên tắc quyết định trên cơ sở "đồng thuận nghịch" đóng vai trò rất quan trọng
trong việc bảo đảm tính nhanh chóng và hiệu quả của thủ tục GQTC. Trên nguyên tắc, đồng
thuận nghịch được áp dụng ở những giai đoạn mang tính quyết định của thủ tục GQTC của
WTO, bao gồm quyết định thành lập Ban hội thẩm, thông qua báo cáo của Ban hội thẩm và của
Cơ quan phúc thẩm, thông qua yêu cầu cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại
24. Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm là cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong cơ

chế giải quyết tranh chấp của WTO?
 Đúng. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của WTO có 2 cấp gồm Ban hội thẩm (Panel) và
Cơ quan phúc thẩm (Appellate Body). DSB không trực tiếp tham gia vào quá trình xét xử tranh
chấp mà chỉ là nơi đưa ra quyết định chính trị trong giải quyết tranh chấp tại WTO. Ban hội
thẩm và Cơ quan phúc thẩm giữ vai trò là các thiết chế pháp lý để đánh giá các khía cạnh pháp
lý của vụ tranh chấp.
25. Chỉ các bên tham gia vào tranh chấp ở giai đoạn sơ thẩm mới có quyền kháng cáo báo cáo
của Ban hội thẩm


Sai. Vì các bên tham gia vào tranh chấp gồm: người đi kiện; người bị kiện và bên thứ ba.
Phạm vi kháng cáo: chỉ có người đi kiện; người bị kiện mới có quyền kháng cáo
26.Thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá có thể đồng thời áp dụng cho một hoàn cảnh phá
giá hay trợ cấp xuất khẩu
Sai. Phạm vi áp dụng của chúng là khác nhau, nếu bản thân hành vi của 1 doanh nghiệp thực
hiện liên quan đến hành vi thương mại không lành mạnh thì không áp dụng các thuế đối kháng,
chỉ áp dụng thuế khác như bán phá giá…
Còn nếu việc trợ cấp của CP làm cho hàng hóa bán thấp hơn giá thông thường tại nước nhập
khẩu thì lúc này áp dụng thuế đối kháng mà không áp dụng đồng thời các loại thuế khác.


II/ Tự luận
1. Điều kiện để quốc gia áp dụng thuế chống bán phá giá cho sản phẩm của quốc gia
khác?
Trả lời:
- Theo quy định của WTO (Đa + Đb K1 D6 HĐ chung về thuế quan và thương mại 1994) thì việc
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của
nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự
tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
+Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);

+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe
doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi
chung là yếu tố “thiệt hại”);
+Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên;
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO có ưu điểm gì?
Trả lời:
- Thứ nhất, việc giải quyết được tiến hành thận trọng, qua hai bước bởi các cơ quan trung lập
(Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm), đảm bảo giải quyết một cách chính xác các tranh chấp
- Thứ hai, cơ chế này được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ với các thời hạn ngắn, xác
định
- Thứ ba, cơ chế thông qua tự động (đồng thuận phủ quyết) đã khắc phục được yếu điểm của cơ
chế đồng thuận trước kia. Các báo cáo của Ban hội thẩm hay của Cơ quan phúc thẩm sẽ tự động
được thông qua nếu tất cả các thành viên không phản đối
- Thứ tư, cơ chế này cho phép đưa ra giải pháp cuối cùng cho tranh chấp, bảo đảm quyền lợi của
bên bị vi phạm, tránh những bế tắc không thể vượt qua trong những phương thức ngoại giao
- Thứ năm, DSU có nhiều quy định về thủ tuc dành riêng cho các nước đang phát triển hoặc kém
phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này khi tham gia thủ tục giải quyết tranh chấp
bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình.
- Thứ sáu, việc WTO cho phép sự tham gia của bên thứ ba vào diễn biến vụ kiện được các nước
đang phát triển hoan nghênh.
3. Năm 2015, A đệ trình văn bản lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) yêu
cầu được tham vấn về việc B áp dụng biện pháp tăng thuế đối với sản phẩm X nhập
khẩu từ A. Trong đơn kiện của mình A cho rằng biện pháp của B (tăng thuế nhập khẩu
sản phẩm X từ 10% đến 35%) đã vi phạm cam kết của B về tự do thương mại. A và B
đều là thành viên WTO.
a) Biện pháp tăng thuế của B có phù hợp quy định của WTO không?
- Việc tăng thuế của quốc gia B có phù hợp với quy định của WTO hay không còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không thể chỉ dựa vào tỷ lệ thuế suất tăng lên mà kết luận được
rằng việc tăng thuế của quốc gia B là đúng hay sai.
+ Đầu tiên là phải xem xét mức thuế mà quốc gia B đưa ra có cao hơn mức thuế trần hay

không, bởi theo quy định về thuế suất ràng buộc của WTO thì việc quốc gia B tăng thuế mà mức
thuế đó thấp hơn mức thuế trần thì vẫn được chấp nhận
+ Nếu mức thuế mà quốc gia B đưa ra cao hơn mức thuế trần đã được thỏa thuận thì lúc
này sẽ được chia làm hai trường hợp:
 TH 1: Là quốc gia B có chủ ý tăng thuế nhập khẩu
- Thì việc tăng thuế của quốc gia B là không phù hợp với quy định của WTO
 TH 2: Là quốc gia B được áp dụng biện pháp phòng vệ
- Thì việc tăng thuế của quốc gia B hoàn toàn được chấp nhận
b) Bình luận về nội dung vụ tranh chấp trên
Nguyên tắc tự do hóa mậu dịch là gì?


Đây là nguyên tắc quy định về việc cắt giảm dần từng bước các rào cản thương mại hàng rào thuế quan và phi thuế quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ xóa bỏ hoàn
toàn, mở đường cho thương mại tự do phát triển
- Biện pháp tăng thuế của quốc gia B
Theo như đã phân tích phía trên, trong trường hợp quốc gia B tăng thuế là đúng với quy
định của WTO thì việc quốc gia A đâm đơn kiện quốc gia B là không phù hợp
Đối với trường hợp việc tăng thuế của quốc gia B là sai với quy định của WTO thì lúc này
quốc gia B đã vi pháp vê nguyên tắc ổn định, minh bạch, dễ dự đoán trong thương mại chứ
không phải là vi phạm về nguyên tắc tự do hóa mậu dịch. Bởi việc áp dụng mức thuế ràng buộc
trong hoạt động thương mại của các thành viêm WTO được điều chỉnh bằng nguyên tắc ổn
định, minh bạch, dễ dự đoán trong thương mại
c) Cơ quan giải quyết tranh chấp
- Cơ quan này thưc chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia
thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và
của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh
chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ
quan thông qua quyết định chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp.
4. Tại sao có thể có nhiều hơn một yêu cầu kháng cáo cho một báo cáo của Ban hội
thẩm?

Trả lời: Khi mà các bên không đồng tình với báo cáo này hoặc không đồng tình với những nội
dung phán quyết một hoặc một số trong đó thì có thể kháng cáo để có 1 cơ hội xem xét lại vụ án.
Họ không bị ràng buộc bởi 1 phán quyết duy nhất, đảm bảo tự do và các nguyên tắc tranh tụng ,
quy tắc xét xử trong thương mại quốc tế. Các bên sử dụng để đảm bảo bảo vệ tốt nhất lợi ích
của mình
5. Tại sao WTO không khuyến khích biện pháp trả đũa thương mại? Bình luận?
Trả lời:
- Về mặt lý thuyết, trả đũa là một biện pháp khắc phục để đảm bảo sự tuân thủ đúng với
các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Tuy nhiên, thực tế, trả đũa không phải là một biện
pháp khắc phục hiệu quả đối với các thành viên đang phát triển. Biện pháp trả đũa có tác dụng
cho các đối tác thương mại lớn của nước đang phát triển chứ không phải là cho bản thân các
nước đang phát triển. Mục tiêu cơ bản của biện pháp trả đũa là làm cho bên vi phạm tuân thủ
các phán quyết của DSB, trong khi đó các nước đang phát triển có quyền lực kinh tế kém hơn, sẽ
lo ngại về hiệu quả của nó, đặc biệt là khi họ đấu tranh với các thành viên phát triển, những
nước có quyền lực kinh tế mạnh hơn.
- Các quy tắc và thực tiễn của WTO về các biện pháp khắc phục được xây dựng có phần
thiên vị cho lợi ích của các thành viên có thị trường lớn như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.Do có
thị phần lớn trên thị trường thế giới, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu nhìn chung muốn các nước
đang phát triển tuân thủ các quy định và phán quyết của WTO bởi vì họ nhận thấy rằng việc
tiếp cận các thị trường lớn của những quốc gia này rất quan trọng không chỉ đối với các nhà
sản xuất và xuất khẩu mà còn tạo công ăn việc làm cho nguồn lao động ở các quốc gia đó.
Ngược lại, việc tiếp cận với thị trường các nước đang phát triển có một tỷ trọng nhỏ trong thị
phần toàn cầu, lại ít ảnh hưởng đến lợi ích của nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ và Liên minh châu
Âu. Rõ ràng việc trả đũa có thể gây hại cho thành viên thực hiện quyền trả đũa từ góc độ kinh tế
vì nó có thể làm tăng giá cho người tiêu dùng và làm giảm phúc lợi chung trong các quốc gia
này.Ngoài ra, các nước đang phát triển cũng lo ngại nếu thực hiện quyền trả đũa đối với các
nước lớn hơn trong tranh chấp có thể họ sẽ bị mất các khoản viện trợ hoặc các lợi ích khác
trong kinh tế, thương mại hay ngoại giao. Thực sự việc trả đũa có thể gây tổn hại nền kinh tế
quốc gia của bên thắng kiện nhiều hơn là được.
6. Đánh giá hiệu quả thực tế của những quy định nhằm đảm bảo tính khách quan trong

quá trình giải quyết tranh chấp của WTO?


Trả lời:
- Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nhằm “đạt được một
giải pháp tích cực cho tranh chấp”, và ưu tiên những “giải pháp được các bên tranh chấp cùng
chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên quan”.Xét ở mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm
cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế cho các hành động đơn phương
của các thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung
của các quy tắc thương mại quốc tế.
- Hệ thống giải quyết tranh chấp WTO là một hệ thống chặt chẽ và quan trọng đối với
việc giải quyết mâu thuẫn trong thương mại và làm dịu di những bất bình đẳng giữa các quốc
gia mạnh và yếu. Thay vì việc bên mạnh có đủ khả năng quyết định kết quả của các mối quan hệ,
mâu thuẫn như trước kia, với hệ thống giải quyết tranh chấp WTO, các tranh chấp đã được giải
quyết trên cơ sở các quy định pháp luật quốc tế. Nhờ cơ chế giải quyết tranh chấp này, các
thành viên WTO có thể đảm bảo rằng, các quyền của mình theo Hiệp định WTO được thực hiện;
thông qua đó hệ thống thương mại trở nên an toàn hơn và có khả năng dự đoán trước. Khi một
thành viên có sự không tuân thủ theo Hiệp định WTO, hệ thống giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra
cách giải quyết bằng một quyết định độc lập buộc phải thi hành ngay và nếu thành viên thua
kiện không chịu thi hành thì sẽ có thể bị trừng phạt thương mại
7. Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và lần đầu tiên chúng ta quyết định sử
dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (vụ kiện 404 - vụ kiện Việt Nam kiện về
việc Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá đối với tôm đông lạnh của Việt Nam. Anh (chị)
hãy đánh giá Việt Nam có thực hiện nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhằm đạt được
một giải pháp tích cực hay không? Tại sao?
Trả lời:
- Việt Nam thực hiện nguyên tắc giải quyết tranh chấp nhằm đạt được một giải pháp tích
cực. Vì trong bối cảnh đó, với tư cách là vụ kiện đầu tiên Việt Nam chủ động tiến hành và giành
thắng lợi tại WTO, vụ kiện Tôm có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích
thương mại cho Doanh nghiệp, lợi thế về ngoại giao kinh tế cho Nhà nước, vụ kiện tôm cũng có

thể đem lại những kinh nghiệm hữu ích trong giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, ở
nước ngoài cũng như tại WTO trong tương lai. Tuy nhiên, khi nhìn nhận lại toàn bộ sự việc, từ
khâu chuẩn bị đến tiến hành, và kết thúc vụ kiện, có thể nhận thấy việc xác định phạm vi của vụ
kiện và thời điểm khởi kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với kết quả của vụ kiện tôm của
Việt Nam nói riêng cũng như các vụ kiện tại WTO nói chung. Vụ kiện Tôm cho thấy, thái độ chủ
động chuẩn bị, tích cực tham gia cả từ phía các Doanh nghiệp lẫn từ phía các cơ quan nhà nước
là yếu tố quan trọng hàng đầu trong giải quyết các tranh chấp. Điều này cũng nhấn mạnh đến
nhu cầu tạo dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý phù hợp cho sự liên kết, phối hợp giữa
các Doanh nghiệp, sự tham gia tích cực của các Doanh nghiệp, hiệp hội Doanh nghiệp nói riêng
cũng như của các tổ chức xã hội nói chung cùng với các cơ quan nhà nước phòng ngừa và giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.Vụ kiện Tôm cũng cho thấy, để có thể sử dụng tốt cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm bảo vệ những chính sách thương mại quốc gia, đối
phó hiệu quả với những chính sách, biện pháp bảo hộ của nước ngoài, việc nắm vững và sử
dụng linh hoạt các cơ chế tố tụng tại WTO là điều hết sức quan trọng. Về điểm này, cần đẩy
mạnh nghiên cứu, vận dụng các án lệ và thực tiễn của Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO.
- Đã đang chứng tỏ năng lực có thể tham gia một cách đầy đủ và có trách nhiệm vào tất
cả các lĩnh vực hoạt động của WTO nhằm bảo vệ một cách tốt nhất lợi ích của mình tại diễn đàn
đa phương lớn nhất toàn cầu về thương mại; nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam vào cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO;
8. Nguyên tắc đồng thuận nghịch được hiểu như thế nào?
Trả lời: Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Đây là
một nguyên tắc mới theo đó một quyết định chỉ không được thông qua khi tất cả thành viên
DSB bỏ phiếu không thông qua. Điều này đồng nghĩa với việc các quyết định của DSB hầu như


được thông qua tự động vì khó có thể tưởng tượng một quyết định có thể bị bỏ phiếu chống bởi
tất cả các thành viên DSB. Nguyên tắc này khắc phục được nhược điểm cơ bản của cơ chế giải
quyết tranh chấp trong GATT 1947 nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống - mọi
quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thông qua (mỗi thành viên đều
có quyền phủ quyết quyết định) – một rào cản trong việc thông qua các quyết định của cơ quan

giải quyết tranh chấp.
9. Nguyên tắc của WTO?
Trả lời:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại
+ Nguyên tắc chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): đối xử mọi người bình đẳng như nhau.
Theo qui định của các hiệp định WTO, nguyên tắc này được áp dụng như sau: Mỗi thành viên
đối xử với mọi thành viên khác bình đẳng với nhau như là các bạn hàng được ưu đãi nhất. Nếu
như một nước cho một nước khác được hưởng lợi nhiều hơn thì đối xử "tốt nhất" đó phải được
giành cho tất cả các nước thành viên WTO khác để các nước khác vẫn tiếp tục có được đối xử
tối huệ quốc. Nguyên tắc MFN đảm bảo rằng mỗi thành viên WTO đối xử trên 140 thành viên
khác tương tự nhau.
+ Nguyên tắc chế độ đãi ngộ quốc gia (NT): đối xử người nước ngoài và người trong
nước như nhau. Hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước phải được đối xử như nhau, ít
nhất là sau khi hàng hoá nhập khẩu đã đi vào đến thì trường nội địa. Theo nguyên tắc này, khi
áp dụng những qui chế trong nước và thuế nội địa đối với hàng nhập khẩu thì phải cung cấp các
điều kiện tương tự như đối với sản phẩm trong nước. Vì thế các thành viên của WTO không
được áp dụng thuế nội địa để bảo vệ sản xuất trong nước và không được phân biệt đối xử đối
với hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho dịch
vụ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và quyền phát minh sáng chế trong nước và của nước
ngoài. Đối xử quốc gia chỉ áp dụng được khi hàng háo dịch vụ và đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ đã vào đến thị trường. Vì vậy, việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá không vi phạm nguyên
tắc này mặc dù hàng nội địa không chịu thuế tương tự.
- Nguyên tắc tự do hóa/ mở cửa thị trường
+ Thương mại phải ngày càng được tự do thông qua đàm phán.WTO đảm bảo thương
mại giữa các nước ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp hàng rào thuế
quan để thúc đẩy buôn bán. Hàng rào thương mại bao gồm thuế quan, và các biện pháp khác
như cấm nhập khẩu, quota có tác dụng hạn chế nhập khẩu có chọn lọc, đôi khi vấn đề khác như
tệ quan liêu, chính sách ngoại hối cũng được đưa ra đàm phán.
+ Kể từ khi GATT, sau đó là WTO được thành lập đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm
thuế quan, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc tự do

thương mại này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để
các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại.
- Nguyên tắc minh bạch
+ Thiết lập một hành lang pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại rõ ràng và ổn
định
+ Phổ biến rộng rãi (dễ tiếp cận) và có thể dự đoán trước được về các cơ chế, chính sách,
quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh
nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế,
phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh
doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh
doanh của họ.
- Nguyên tắc cân bằng lợi ích/ thương mại công bằng
+ WTO tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO là một hệ thống các
nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Các quy định về
phân biệt đối xử được xây dựng nhằm đảm bảo các điều kiện công bằng trong thương mại. Các


đều khoản về chống phá giá, trợ cấp cũng nhằm mục đích tương tự. Tất cả các hiệp định của
WTO như Nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đều nhằm mục
đích tạo ra được một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các nước.
- Nguyên tắc ưu đãi hơn cho các quốc gia đang/ kém phát triển
+ Các điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. WTO là một tổ chức quốc tế
với hơn 2/3 tổng số nước thành viên là các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang
chuyển đổi, vì thế một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển,
dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước này, với mục tiêu đảm bảo sự
tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa biên. Để thực hiện được nguyên tắc
này, WTO dành cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi những linh
hoạt và các ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến việc trợ giúp
kỹ thuật cho các nước này.
10. Các biện pháp phòng vệ thương mại trong WTO?

Trả lời:
* Biện pháp đối kháng/ Chống trợ cấp
- Trợ cấp nhập khẩu
+ Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ
chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp/ngành sản xuất:
+ Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần) hoặc hứa
chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
+ Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín dụng);
+ Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung);
+ Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các
hoạt động (i), (ii), (iii) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
- Phân loại: 3 loại
 Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ)
Bao gồm:
1. Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ
cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm
tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng xuất
khẩu…); hoặc
2. Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng.
Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh)
Bao gồm:
1. Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới một (một
nhóm) doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là
khách quan; không cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem xét
và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
2. Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):
- Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu tiến hành (với một số
điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);

- Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập bình
quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp)
- Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường kinh doanh
mới


Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác khiếu kiện
(tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng)
Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh). Các nước thành
viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên
khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị kiện ra
WTO.
- Thuế đối kháng
+ Thuế đối kháng (theo ngôn ngữ thông thường là “thuế chống trợ cấp”) là khoản thuế
bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp
vào nước nhập khẩu.
+ Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các nhà sản
xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước
nhập khẩu tiến hành và thuế trợ cấp, nếu có, áp dụng đối với nhà sản xuất xuất khẩu nước
ngoài) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO quy định các
cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp này).
+ Điều kiện áp dụng thuế đối kháng là gì?
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài được trợ cấp là nước nhập khẩu có
thể áp dụng thuế đối kháng đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng (mà chủ yếu là thuế đối
kháng) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến
hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện
sau:
Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp - tức là trị giá phần trợ cấp trên

trị giá hàng hoá liên quan - không thấp hơn 1%);
 Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe
doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi
chung là yếu tố “thiệt hại”);
 Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại nói trên.
+ Trình tự tiến hành một vụ kiện chống trợ cấp?
Một vụ kiện chống trợ cấp thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu cầu
trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống trợ cấp đối với hàng
hoá bị kiện hay không.
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống trợ cấp” như sau:
 Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng cứ ban
đầu);
 Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối đơn
kiện, không điều tra);
 Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc trợ cấp và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi cho các bên
liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp);
 Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dung biện pháp tạm thời như
buộc đặt cọc, ký quỹ...);
 Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc trợ cấp và thiệt hại (có thể bao gồm điều tra thực địa
tại nước xuất khẩu);
 Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
 Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp (nếu kết luận cuối cùng khẳng
định có việc trợ cấp gây thiệt hại);
 Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống trợ cấp (hàng năm cơ quan điều tra có thể sẽ điều
tra lại biên độ trợ cấp thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế);


 Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế đối kháng hoặc rà
soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp thuế hay tiếp tục
áp thuế thêm 5 năm nữa).

* Chống bán phá giá
- Bán phá giá là gì? Điều VI GATT 1994, Điều 2, K1 HĐ ADA
+ Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một loại
hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng
hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
+ Cụ thể, nếu một sản phẩm của nước A bán tại thị trường nước A với giá X nhưng lại
được xuất khẩu sang nước B với giá Y (YA sang nước B.
+ Trong WTO, đây được xem là “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” của các nhà sản
xuất, xuất khẩu nước ngoài đối với ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu. Và các “vụ kiện
chống bán phá giá” và tiếp đó là các biện pháp chống bán phá giá (kết quả của các vụ kiện) là
một hình thức để hạn chế hành vi này.
- Theo quy định của ADA và quy định của pháp luật các nước thành viên các biện pháp
chống bán phá giá bao gồm:
+ Thuế chống bán phá giá;
+ Cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá nhân sản xuất và xuất
khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hoặc với các nhà sản xuất trong nước
nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đồng ý.
+ Ngoài ra, trước khi áp dụng biện pháp thuế, biện pháp cam kết giá cơ quan điều tra có
thể áp dụng các biện pháp tạm thời (i) thuế (ii) đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế
chống bán phá giá dự kiến (iii) cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức
thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến áp dụng.
- Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá là gì?
+Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập khẩu có
thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó.
+ Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ có thể
thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống
bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
 Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không thấp hơn 2%);

 Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe
doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi
chung là yếu tố “thiệt hại”);
 Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên;
- Trình tự một vụ kiện chống bán phá giá?
Một vụ kiện chống bán phá giá thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác minh các yêu
cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với
hàng hoá bị kiện hay không.
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống bán phá giá” như sau:
Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng cứ ban
đầu);
Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ chối đơn
kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi cho các
bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp);
Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện pháp tạm thời như
buộc đặt cọc, ký quỹ...);


Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể bao gồm điều tra
thực địa tại nước xuất khẩu);
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết luận cuối cùng
khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;
Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ quan điều tra có thể sẽ
điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế)
Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán phá giá
hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp thuế hay
tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
- Biên độ phá giá được tính như thế nào?

Biên độ phá giá được tính toán theo công thức:
Biên độ phá giá = (Giá Thông thường – Giá Xuất khẩu)/Giá Xuất khẩu
Trong đó:
+ Giá Thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước xuất khẩu
(hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước thứ ba; hoặc giá xây
dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản lý, bán hàng và khoản lợi nhuận hợp lý
– WTO có quy định cụ thể các điều kiện để áp dụng từng phương pháp này);
+ Giá Xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà nhập khẩu
(hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên).
- Sản phẩm tương tự
Sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra là:
+ Sản phẩm giống hệt (có tất cả các đặc tính giống sản phẩm đang bị điều tra);
+ Sản phẩm gần giống (có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang bị điều tra),
trong trường hợp không có sản phẩm giống hệt.
- Miễn trừ:
+ Điều tra chống bán phá giá sẽ kết thúc ngay lập tức mà không đưa ra biện pháp chống
bán phá giá nào nếu cơ quan chức năng xác định rằng biên độ phá giá không đáng kể (nhỏ hơn
2% giá xuất khẩu). Điều tra cũng chấm dứt nếu khối lượng hàng bán phá giá là không đáng kể
(khối lượng hàng phá giá từ một nước bị điều tra nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu, đồng thời tổng
khối lượng hàng phá giá từ tất cả các nước bị điều tra nhỏ hơn 7% tổng nhập khẩu).
* Tự vệ thương mại (Điều XIX GATT 1994)
- Biện pháp tự vệ là gì?
+ Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng
hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho
ngành sản xuất trong nước.
+ Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu
tư hay sở hữu trí tuệ.
- Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và
chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:

+ Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
+ Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt
hại hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng; và
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe
doạ thiệt hại nói trên.
Một điều kiện chung là tình trạng nói trên phải là hệ quả của việc thực hiện các cam kết
trong WTO của các thành viên mà họ không thể thấy hoặc lường trước được khi đưa ra cam
kết.


Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa ra
những cam kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ.
- Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy định
chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về biện pháp tự vệ
của WTO có đưa ra một số nguyên tắc cơ bản mà các nước thành viên phải tuân thủ như:
+ Thứ nhất, đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được
thông báo công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…
+ Thứ hai, đảm bảo quyền tố tụng của các bên, các bên liên quan phải được bảo đảm về
cơ hội trình bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối
phương.
+ Thứ ba, phải đảm bảo bí mật thông tin, đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được
các bên trình với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý
của bên đã trình thông tin.
+ Thứ tư, các điều kiện về biện pháp tạm thời phải là biện pháp tăng thuế và nếu kết luận
cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho
bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày… Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp
tự vệ thường theo trình tự sau đây:
Bước 1: Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập
khẩu.

Bước 2: Khởi xướng vụ điều tra
Bước 3: Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố như: tình hình nhập khẩu;
tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại.
Bước 4: Ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.
Mặc dù việc điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ có nhiều yếu tố giống trình tự tố
tụng tư pháp (một vụ kiện tại toà án), nhưng bản chất thực tế của nó lại là một thủ tục hành
chính, do một cơ quan hành chính nước nhập khẩu tiến hành để xử lý một tranh chấp thương
mại giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài (về nguyên tắc là từ tất cả các nước đang xuất khẩu
hàng hoá liên quan vào nước nhập khẩu) và ngành sản xuất nội địa liên quan của nước nhập
khẩu. Việc này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nội địa các nước nhập khẩu và về
nguyên tắc không phải là công việc giữa các Chính phủ (Chính phủ các nước xuất khẩu và chính
phủ nước nhập khẩu).
- Mục đích
+ Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng ở mức vừa đủ để ngăn chặn thiệt hại và giúp ngành
sản xuất trong nước có thời gian tự điều chỉnh.
- Miễn trừ
+ Giống như Hiệp định về Chống bán Phá giá, Hiệp định về Tự vệ cũng có điều khoản
miễn trừ dành cho hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Nước nhập khẩu chỉ có thể áp
dụng biện pháp tự vệ đối với hàng nhập khẩu từ một nước đang phát triển nếu hàng nhập khẩu
từ nước đó chiếm nhiều hơn 3% tổng nhập khẩu; hoặc nếu hàng nhập khẩu từ nước đó chiếm
không nhiều hơn 3% tổng nhập khẩu nhưng cộng gộp hàng nhập khẩu từ tất cả các nước đang
phát triển thỏa mãn điều kiện đó chiếm nhiều hơn 9% tổng nhập khẩu.
11. Trình bày thành phần, chức năng của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm?
Trả lời:
* Ban hội thẩm
Ban hội thẩm là một cơ chế ad hoc, được DBS quyết định thành lập đối với từng nhiệm vụ
tranh chấp cụ thể và chấm dứt tồn tại sau khi đã thực hiện xong nhiệm vụ. Nhiệm vụ của Ban
hội thẩm là soạn thảo báo cáo để trình lên DBS xem xét thông qua. Trong dự thảo báo cáo, Ban
hội thẩm phải đưa ra các đánh giá khách quan về những vấn đề tranh chấp giữa các bên, gồm



cả việc đánh giá khách quan các khía cạnh pháp lý của vụ tranh chấp, về khả năng áp dụng và
phù hợp với các hiệp định có liên quan và bất kỳ ý kiến nào khác nhằm giúp cho DBS trong việc
đưa ra các khuyến nghị va quýêt định. Thành phần của một Ban hội thẩm thường bao gồm từ 3
đến 5 thành viên là những chuyên gia có năng lực và trình độ được lựa chọn từ danh sách các
chuyên gia về WTO do ban Thư ký của WTO quản lý và cập nhật.
* Cơ quan Phúc thẩm
Cơ quan phúc thẩm cũng do DBS thành lập, nhưng khác với Ban hội thẩm, Cơ quan Phúc
thẩm là một cơ quan thường trực. Cơ quan Phúc thẩm gồm 07 thành viên là những người có
kinh nghiệm, uy tín về pháp luật, thương mại quốc tế và không đại diện cho lợi ích của bất kỳ
chính phủ nào. Các thành viên của Cơ quan Phúc thẩm do DSB chỉ định với nhiệm kỳ 04 năm và
có thể được gia hạn thêm một lần. Thành viên của Cơ quan Phúc thẩm làm việc theo chế độ luân
phiên, mỗi vụ việc sẽ do 3 thành viên tham gia xem xét. Cơ quan phúc thẩm chỉ xem xét những
vấn đề pháp lý và việc giải thích luật được đề cập trong báo cáo của Ban hội thẩm. Sau khi xem
xét, Cơ quan phúc thẩm có toàn quyền giữ nguyên, sửa đổi hay huỷ bỏ các kết luận pháp lý của
Ban hội thẩm.
12. Hãy nêu những đặc điểm trong cơ chế GQTC của WTO?
Trả lời:
- Điều 1, DSU:
+ Phạm vi thẩm quyền
+ Chủ thể
+ Áp dụng thống nhất
+ Thẩm quyền ràng buộc
+ Cơ sở khởi kiện: 3 loại
13. Hãy trình bày nguyên tắc GQTC trong WTO?
Trả lời:
*Tham vấn (Consultation)
Bên có khiếu nại trước hết phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4 DSU). Việc
tham vấn được tiến hành bí mật (không công khai) và không gây thiệt hại cho các quyền tiếp
theo của các Bên. Bên được tham vấn phải trả lời trong thời hạn 10 ngày và phải tiến hành

tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng
hoá liên quan có nguy cơ hư hỏng, các thời hạn này lần lượt là 10 ngày và 20 ngày). Bên được
tham vấn có nghĩa vụ "đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thoả đáng" cho
Bên yêu cầu tham vấn.
Thủ tục tham vấn chỉ là thủ tục được tiến hành giữa các Bên với nhau. DSB được thông
báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành viên về yêu cầu tham
vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn. Các quốc gia khác có
thể xin tham gia vào việc tham vấn này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận rằng các quốc gia này
có “quyền lợi thương mại thực chất” trong việc tham vấn này.
Thông thường các quốc gia đều có gắng giải quyết các bất đồng ở giai đoạn tham vấn nhằm
hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại về lợi ích cho tất cả các bên đồng thời đảm bảo tính bí mật
của các thông tin liên quan đến tranh chấp.
Tuy nhiên, các qui định về tham vấn trong WTO cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định
như: làm thế nào để định lượng hoặc kiểm nghiệm được việc thực hiện nghĩa vụ “tham vấn một


cách thông cảm” của Bên được yêu cầu tham vấn; trường hợp tham vấn đạt được một thoả
thuận thì thông báo về kết quả tham vấn cần phải chi tiết đến mức nào để các Thành viên khác
của WTO và cơ quan có thẩm quyền kiểm tra được tính hợp pháp của thoả thuận tham vấn
(tránh hiện tượng thoả thuận đạt được đơn thuần chỉ là sự thoả hiệp về lợi ích giữa các bên mà
không dựa trên các qui định của WTO và thực tế vi phạm vẫn tồn tại…)
* Môi giới, Trung gian, Hoà giải
Bên cạnh thủ tục tham vấn, DSU còn qui định các hình thức giải quyết tranh chấp mang
tính “chính trị” khác như môi giới, trung gian, hoà giải. Các hình thức này được tiến hành trên
cơ sở tự nguyện, bí mật giữa các Bên tại bất kỳ thời điểm nào sau khi phát sinh tranh chấp
(ngay cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành hoạt động). Tương tự như vậy,
các thủ tục này cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. DSU không xác định bên nào (nguyên
đơn hay bị đơn) có quyền yêu cầu chấm dứt nên có thể hiểu là tất cả các bên tranh chấp đều có
quyền yêu cầu chấm dứt các thủ tục này.
Chức năng môi giới, trung gian, hoà giải do Tổng Thư ký WTO đảm nhiệm (Điều 5 DSU).

Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có qui định về việc liệu một cá nhân hoặc một tổ chức có thể đứng ra
đảm trách vai trò môi giới, trung gian, hoà giải này không.
Với các ưu thế nhất định như tiết kiệm được về thời gian, tiền bạc, quan hệ hữu hảo giữa
các bên tranh chấp… các phương thức chủ yếu dựa trên đàm phán ngoại giao này được DSU
đặc biệt khuyến khích sử dụng (Điều 3.7 DSU), và việc tìm ra được một giải pháp hợp lý thoả
mãn tất cả các bên tranh chấp có lẽ còn được coi trọng hơn cả việc đạt được một giải pháp phù
hợp với các qui tắc thương mại trong Hiệp định.
* Thành lập Ban hội thẩm (Panel Establishment)
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham vấn
từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu
tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, như trên đã đề cập, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có thể
đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn,
hoà giải không dẫn đến kết quả gì. Văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá
trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ
pháp lý cho khiếu kiện.
Yêu cầu này được gửi tới DSB để cơ quan này ra quyết định thành lập Ban hội thẩm. Nhờ
có nguyên tắc đồng thuận phủ quyết nên hầu như quyền được giải quyết tranh chấp bằng hoạt
động của Ban hội thẩm của nguyên đơn được đảm bảo.
Thành viên Ban hội thẩm, nếu không được các bên thống nhất chỉ định trong vòng 20
ngày kể từ khi có quyết định thành lập sẽ do Tổng Giám đốc WTO chỉ định trong số các quan
chức chính phủ hoặc các chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực luật, chính sách thương mại quốc
tế.
Trong trường hợp có nhiều nước cùng yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để xem xét cùng
một vấn đề (ví dụ: một biện pháp thương mại của một quốc gia thành viên bị nhiều quốc gia


khác phản đối) thì DSB có thể xem xét thành lập một Ban hội thẩm duy nhất. Nếu vẫn phải
thành lập các Ban hội thẩm riêng rẽ trong trường hợp này thì các Ban hội thẩm này có thể có
chung các thành viên và thời gian biểu sẽ được xác định một cách hài hoà để các thành viên này
hoạt động một cách hiệu quả nhất.

Bất kỳ quốc gia thành viên nào có quyền lợi thực chất trong vấn đề tranh chấp đều có thể
thông báo cho DSB về ý định tham gia vụ việc với tư cách là Bên thứ ba. Các Bên thứ ba này
được tạo điều kiện để trình bày ý kiến bằng văn bản trước Ban hội thẩm.
* Hoạt động của Ban hội thẩm (Panel Procedures)
Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp trên cơ sở các qui định trong các
Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn như là căn cứ cho đơn kiện của mình để giúp
DSB đưa ra khuyến nghị/quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp.
Về nghĩa vụ chứng minh của các bên: Theo tập quán hình thành từ GATT 1947, trường
hợp khiếu kiện có vi phạm thì Bên bị đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm của Bên đó
không gây thiệt hại cho Bên nguyên đơn; trường hợp khiếu kiện không có vi phạm thì Bên
nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh hành vi không vi phạm của Bên bị đơn gây ra thiệt hại về
lợi ích mà Bên đó đáng lẽ phải được hưởng theo qui định của Hiệp định hoặc chứng minh sự
cản trở đối với việc thực hiện một mục tiêu nhất định của Hiệp định. Đối với việc chứng minh
các vấn đề khác, mặc dù DSU không có qui định cụ thể về việc này, một tập quán chung (vốn
được áp dụng tại Toà án Quốc tế) đã được thừa nhận khá rộng rãi trong khuôn khổ cơ chế này
là bên tranh chấp đã đưa ra một chi tiết/thực tế có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ chứng minh
cho chi tiết/thực tế đó không phụ thuộc vào việc bên đó là nguyên đơn hay bị đơn trong tranh
chấp.
Thủ tục hoạt động của Ban hội thẩm được qui định tại Điều 12 DSU. Ban hội thẩm, sau
khi tham khảo ý kiến của các Bên liên quan sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho phiên xét
xử đầu tiên (các Bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập luận liên
quan), phiên xét xử thứ hai (đại diện và luật sư của các Bên lần lượt trình bày ý kiến và trả lời
các câu hỏi của Ban hội thẩm – oral hearings). Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn
thảo và chuyển đến các bên phần Tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để họ cho ý kiến
trong một thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm
thời (mô tả vụ việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Các Bên cho ý kiến về Báo cáo này.
Nếu có yêu cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể
các vấn đề liên quan. Sau đó Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các
thành viên WTO và chuyển cho DSB thông qua.
Trong quá trình xem xét vụ việc, Ban hội thẩm có thể tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác

nhau hoặc thành lập nhóm chuyên gia để tư vấn cho Ban về các vấn đề kỹ thuật hoặc môi
trường.
Các phiên họp thảo luận và tài liệu lưu hành trong quá trình hoạt động của Ban hội thẩm
phải được giữ bí mật nhằm đảm bảo tính khách quan, độc lập của Ban. Tuy nhiên một Bên
tranh chấp có quyền công khai các tài liệu mà mình đã cung cấp cho Ban hội thẩm.


Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT, DSU có qui định hết sức chặt chẽ về các thời
hạn cho hoạt động của Ban hội thẩm nhằm mục tiêu giải quyết nhanh chóng tranh chấp, tránh
để quá lâu làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ cũng như ý nghĩa của
khuyến nghị giải quyết tranh chấp. Điều 12 DSU qui định:
- Ban hội thẩm phải bắt đầu công việc giải quyết tranh chấp chậm nhất là 1 tuần sau khi
được thành lập
- Báo cáo chính thức phải được hoàn thành chậm nhất là 6 tháng kể từ khi thành lập Ban
hội thẩm (nếu là trường hợp hàng hóa liên quan dễ bị hư hỏng thì thời hạn này là 3 tháng).
Thời hạn này cũng có thể được DSB kéo dài thêm trên cơ sở yêu cầu của Ban hội thẩm với lý do
giải thích rõ ràng nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được gia hạn thêm quá 3
tháng.
- Các thời hạn trên có thể được điều chỉnh trong trường hợp tranh chấp có liên quan đến
một nước đang phát triển
*Thông qua Báo cáo của Ban hội thẩm (Adoption of Panel Report)
Báo cáo của Ban hội thẩm được chuyển cho tất cả các thành viên WTO và được DSB
thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được chuyển cho các thành viên trừ khi
một Bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng thuận phủ quyết Báo cáo (các Bên
tranh chấp và các thành viên WTO khác có quyền đưa ra ý phản đối có kèm theo lý do bằng văn
bản đối với Báo cáo của Ban hội thẩm chậm nhất là 10 ngày trước khi DSB họp để thông qua
Báo cáo).
Báo cáo của Ban hội thẩm được lập thành văn bản trong đó phải có các nội dung sau:
trình bày các tình tiết thực tế của vụ việc, tường trình về việc áp dụng các qui định của WTO
trong các vấn đề liên quan, kết luận và các khuyến nghị cùng với các căn cứ dẫn tới kết luận,

khuyến nghị đó.
*Trình tự Phúc thẩm (Appelate Review)
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của Ban hội thẩm
(yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn bản. Khi có yêu cầu này thủ tục
phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Trong quá trình làm việc của SAB, các Bên tranh chấp và các Bên thứ ba có quyền đệ
trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ quan này. Hoạt động của
SAB được giữ bí mật. Việc xem xét và đưa ra Báo cáo phải được thực hiện với sự tham gia của
các Bên tranh chấp.
Cơ quan Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường
hợp có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải thông báo lý do cho
DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp lý
của Ban hội thẩm. Các Bên không có quyền phản đối Báo cáo này. DSB thông qua Báo cáo của


Cơ quan Phúc thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được chuyển đến tất cả
các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.
*Khuyến nghị các giải pháp (Recommended Remedies)
Khi Báo cáo được thông qua xác định một biện pháp của một Bên là vi phạm qui định của
WTO, cơ quan ra Báo cáo phải đưa ra khuyến nghị nhằm buộc Bên có biện pháp vi phạm phải
tuân thủ qui định của WTO (yêu cầu bị đơn rút lại hoặc sửa đổi biện pháp liên quan) và có thể
đưa ra các gợi ý (không bắt buộc) về cách thức thực hiện khuyến nghị đó.
Trường hợp khiếu kiện không vi phạm, Bên thua kiện không phải rút lại biện pháp liên
quan (vì không có vi phạm) nhưng Báo cáo có thể khuyến nghị Bên thua thực hiện các dàn xếp
nhất định để thoả mãn các Bên liên quan (Báo cáo có thể đưa ra những gợi ý về biện pháp dàn
xếp thoả đáng, ví dụ: bồi thường)
* Thi hành (Implementation)
Bên thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB triệu
tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo. Nếu không thực hiện được ngay, bên đó
có thể được gia hạn thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (thời hạn này do DSB quyết

định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc do các Bên tranh chấp thỏa thuận trong thời hạn 45
ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc theo phán quyết trọng tài tiến hành trong vòng
90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị).
DSB cũng là cơ quan giám sát việc thực thi khuyến nghị của các Bên liên quan. Trong
thời gian qui định cho việc thực hiện khuyến nghị, bất kỳ thành viên nào cũng có thể đưa vấn đề
thực hiện khuyến nghị này vào chương trình nghị sự của DSB; mỗi khi có đề nghị như vậy thì
Bên phải thực hiện khuyến nghị có nghĩa vụ giải trình bằng văn bản về việc thực hiện khuyến
nghị của mình gửi cho DSB chậm nhất là 10 ngày trước khi tiến hành phiên họp của DSB.
* Bồi thường và trả đũa
Bồi thường và trả đũa là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm bảo
lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực hiện được khuyến nghị
của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) (giai đoạn trong khi chờ đợi Bên thua kiện thực hiện
khuyến nghị). Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến nghị của Bên
vi phạm.
Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan
Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi
thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên quan.
Nếu các Bên không đạt được thỏa thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày kể từ khi
hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan Giải quyết Tranh chấp
cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa song song hoặc trả đũa chéo. Cần lưu ý là Quy tắc Giải
quyết tranh chấp trong WTO (DSU) nghiêm cấm việc trả đũa đơn phương mà không có sự chấp
thuận của cơ quan này (qui định này thực chất nhằm chấm dứt hiện tượng trả đũa đơn phương


khá phổ biến trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947). Mức độ và thời hạn trả đũa
do Cơ quan Giải quyết tranh chấp (DSB) quyết định căn cứ trên thủ tục qui định về vấn đề này
trong Quy tắc Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO (DSU).
Trả đũa song song thực chất là việc Bên thắng kiện không phải thực hiện các nhân
nhượng thuế quan đối với hàng hoá của Bên thua kiện trong cùng lĩnh vực mà Bên thắng kiện
bị thiệt hại.

Trả đũa chéo là hình thức trả đũa nhằm vào lĩnh vực khác lĩnh vực bị thiệt hại trong
trường hợp việc trả đũa song song không thể thực hiện được (có thể trả đũa chéo lĩnh vực –
khác lĩnh vực nhưng trong cùng phạm vi điều chỉnh của một hiệp định; hoặc trả đũa chéo hiệp
định – trả đũa trong một lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của một hiệp định khác nếu việc trả
đũa song song và trả đũa chéo lĩnh vực đều không thể thực hiện được)
* Trọng tài
Thủ tục trọng tài có thể được các Bên tranh chấp thoả thuận sử dụng trong các trường
hợp sau đây:
Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: trọng tài có thể được sử dụng trong các thủ
tục sau:
- Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua không thể thực
hiện ngay khuyến nghị;
- Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua có kiến nghị về vấn đề này
Trong trường hợp này thủ tục trọng tài sẽ do các thành viên Ban hội thẩm ban đầu làm trọng
tài viên. Nếu các thành viên Ban hội thẩm không có điều kiện làm trọng tài viên thì trọng tài
viên (là một cá nhân hoặc một tổ chức) sẽ do Tổng Thư ký WTO chỉ định.
Trường hợp tranh cãi về mức độ trả đũa, trọng tài không đánh giá về bản chất biện pháp
trả đũa mà chỉ xem xét xem mức độ Bên thắng kiện đình chỉ các nhân nhượng/nghĩa vụ có
tương đương với mức độ thiệt hại mà Bên thắng kiện đã phải chịu không.
Ngoài khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU:
Các Bên tranh chấp có thể thoả thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để giải quyết
tranh chấp của mình mà không cần sử dụng đến cơ chế của DSU (cơ chế sử dụng Ban hội thẩm,
Cơ quan Phúc thẩm…). DSU chỉ cho phép sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp trong
đó vấn đề tranh chấp (the isssues in conflict) đã được các bên xác định một cách rõ ràng và
thống nhất.
Trong trường hợp này, quyết định lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài độc lập
phải được các Bên tranh chấp thông báo đến tất cả các thành viên WTO trước khi thủ tục tố
tụng được bắt đầu. Các thành viên WTO chỉ có thể tham gia thủ tục tố tụng nếu được các Bên
tranh chấp đồng ý.



Quyết định giải quyết của trọng tài phải được các Bên tuân thủ nghiêm túc. Các Bên có
nghĩa vụ thông báo về quyết định này cho các thành viên WTO, cho Hội đồng hoặc cho Uỷ ban
của Hiệp định có liên quan. Quy tắc giải quyết tranh chấp trong WTO (DSU) qui định quyết định
này của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và không được gây thiệt hại cho
bất kỳ thành viên nào khác của WTO. Bất kỳ thành viên nào cũng có quyền đưa ra câu hỏi liên
quan đến quyết định này.
14. Các bên trong hợp đồng được thỏa thuận chọn luật áp dụng khi nào? Khi nào thì
thỏa thuận này bị xem là vô hiệu?
Trả lời:
- Về nguyên tắc, khi đàm phán ký kết hợp đồng (“Hợp Đồng”) các bên có quyền chọn luật
áp dụng cho Hợp Đồng, trong trường hợp các bên không chọn thì sẽ tuân theo quy định của
pháp luật về luật áp dụng cho Hợp Đồng.
- Thỏa thuận này bị xem là vô hiệu khi
+ Dù các bên có thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng nhưng cơ quan giải quyết tranh chấp,
đặc biệt là Tòa án, của một số quốc gia có thể không áp dụng luật mà các bên thỏa thuận nếu
luật đó trái với luật của nơi Tòa án đặt trụ sở.
+ Luật lựa chọn không có mối quan hệ thực chất với hợp đồng
15. Hãy trình bày về phạm vi áp dụng của CISG?
Trả lời: Chương I CUV 1980
16.Tính quốc tế của HĐMBHHQT được thể hiện như thế nào?
Trả lời:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương
hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu) là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế (có yếu tố
nước ngoài, có nhân tố nước ngoài). Tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
được hiểu không giống nhau tuỳ theo quan điểm của luật pháp từng nước.
- Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình: tính
chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác
nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng, được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc
trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 của

Công ước).
Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên
của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua bán Quốc tế
Hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for International Sales of Goods,
Vienna 1980 - CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm 1980): tính chất quốc tế được xác định chỉ
bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các
nước khác nhau (điều 1 Công ước Viên năm 1980). Và, giống như Công ước Lahaye năm 1964,
Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất
quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Khác với Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 không đưa ra tiêu chí
hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước để xác định tính chất quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo quan điểm của Pháp: khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế,
một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi
tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc
tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi


các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán…
17. Hãy trình bày các bước giao kết HĐMBHH theo CISG đồng thời minh họa bằng sơ
đồ?
Trả lời:
- Theo quy định của Công ước thì giao kết hợp đồng thương mại quốc tế được thực hiện
thông qua chào hàng (offer) và chấp nhận chào hàng (acceptance). Theo đó, hợp đồng sẽ được
xác lập khi bên chào hàng gửi chào hàng cho bên được chào hàng và bên được chào hàng chấp
nhận chào hàng này.

- Khoản 2 Điều 18 Công ước quy định: “Chấp nhận chào hàng bắt đầu có hiệu lực từ thời
điểm tới nơi bên chào hàng”. Tuy nhiên, chấp nhận chào hàng sẽ không phát sinh hiệu lực nếu
nó không tới nơi bên chào hàng trong thời hạn nhất định. Trong trường hợp không có quy định
về thời gian đó thì thời gian này là thời gian hợp lí (reasonable time). Quy định về “thời gian
hợp lí” ở đây là rất mềm dẻo. Bởi vì, việc xác định “thời gian hợp lí” trong trường hợp này phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như hoàn cảnh giao dịch, phương tiện giao dịch hoặc cách thức giao
dịch… ví dụ, bên chào hàng đưa ra một chào hàng bằng miệng (oral offer) với bên được chào
hàng và bên được chào hàng chấp nhận chào hàng đó. Tuy nhiên, sự chấp nhận này chỉ có giá
trị làm phát sinh hợp đồng giữa hai bên nếu chấp nhận này được đưa ra trong thời gian hợp lí.
“Thời gian hợp lí” trong trường hợp này là thời gian mà bên được chào hàng phải trả lời ngay
lập tức (immediately) bằng miệng đối với đề nghị của bên chào hàng trong lần giao dịch bằng
miệng đó.
- Điều 19 quy định trả lời chào hàng có khuynh hướng chấp nhận chào hàng nhưng kèm
theo những yêu cầu bổ sung, sửa đổi đối với chào hàng thì được coi là từ chối chào hàng đồng
thời tạo ra chào hàng mới (Counter offer).Tuy nhiên, nếu các yêu cầu sửa đổi, bổ sung không
làm thay đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng thì vẫn cấu thành chấp nhận chào hàng
và kết quả là vẫn tạo ra hợp đồng giữa các bên (trừ trường hợp bên chào hàng phản đối kịp
thời bằng miệng hoặc bằng thông báo về sự bổ sung, sửa đổi đó).
Tính mềm dẻo trong quy định này cho phép bên được chào hàng, sau khi nhận được chào
hàng, có thể bổ sung những điều khoản của chào hàng để tạo ra hợp đồng phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của mình. Đồng thời cũng cho phép bên được chào hàng có thể trở thành bên
chào hàng mới khi đưa ra những đề nghị làm thay đổi nội dung cơ bản của chào hàng ban đầu.
Các điều khoản được coi là cơ bản của chào hàng trong quy định này là các điều khoản về giá
cả, thanh toán, chất lượng, số lượng hàng hoá, địa điểm, thời hạn giao hàng, trách nhiệm của
các bên và vấn đề giải quyết tranh chấp của các bên.
- Điều 55 quy định về cách xác định giá của hợp đồng khi giá của hợp đồng không được
thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Theo quy định này thì trong trường hợp nếu hợp
đồng không quy định giá cả của hàng hoá một cách trực tiếp hay gián tiếp hoặc không quy định
cách xác định giá thì các bên được coi như đã “ngụ ý” (impliedly) áp dụng giá chung của hàng
hoá đó được bán trong hoàn cảnh tương tự tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nội dung quy định

tại Điều 55 có vẻ mâu thuẫn với khoản 1 Điều 14 và khoản 3 Điều 19 của Công ước. Trong đó
khoản 1 Điều 14 quy định một đề nghị giao kết hợp đồng được coi là đủ chính xác khi nó nêu rõ
ràng hàng hoá, ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp hay gián tiếp hoặc quy định cách
xác định số lượng và giá cả; Đồng thời, khoản 3 Điều 19 quy định điều khoản về giá cả của hàng
hoá được coi là điều khoản cơ bản của hợp đồng, theo đó yêu cầu sửa đổi, bổ sung điều khoản
về giá của hàng hoá được coi là làm thay đổi nội dung cơ bản của hợp đồng. Như vậy, có thể nói
sự không đồng nhất trong quy định của Điều 55 so với khoản 1 Điều 14 và khoản 3 Điều 19
trong Công ước càng thể hiện sự mềm dẻo của quy định này. Bởi vì trong trường hợp hợp đồng
không phù hợp với khoản 1 Điều 14 và khoản 3 Điều 19 thì Điều 55 sẽ được áp dụng để xác định
tính hợp pháp của hợp đồng. Với quy định này, mặc dù thiếu điều khoản về giá nhưng hợp đồng


vẫn được xác định là tồn tại và giao dịch từ hợp đồng này cũng sẽ được công nhận nếu có cơ sở
để xác định là các bên đã “ngụ ý” (impliedly) áp dụng giá.
- Điều 11 quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không cần phải kí kết hoặc xác
nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ bất cứ yêu cầu nào về mặt hình thức của hợp đồng: “Hợp
đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng lời khai của nhân chứng”. Phù hợp với
nội dung của Điều 11 trên đây, để tạo ra điều kiện pháp lí cho chào hàng và chấp nhận chào
hàng có hiệu lực về mặt hình thức, Điều 24 Công ước quy định một chào hàng, một thông báo
chấp nhận chào hàng hoặc bất cứ sự thể hiện ý chí nào khác trong giao kết hợp đồng được coi
là đến tay bên nhận khi nó được thông tin bằng lời nói với bên nhận hoặc được giao đến tay bên
nhận dưới “bất cứ phương tiện gì” (any other means) đến trụ sở kinh doanh của bên nhận hoặc
nếu không có trụ sở kinh doanh thì đến địa chỉ thư tín hoặc nơi thường trú của bên nhận.(4)
Việc quy định hình thức của hợp đồng được coi là hợp pháp ở dưới bất cứ dạng vật chất nào là
rất mềm dẻo vì nó đã không hạn chế sự tham gia giao kết hợp đồng của các thương nhân đến từ
các nước mà pháp luật quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản.
18. Hãy trình bày các chế tài do vi phạm hợp đồng CISG và theo pháp luật Việt Nam?
Trả lời:
- Chế tài hủy hợp đồng chỉ được áp dụng khi một bên vi phạm cơ bản hợp đồng. Điều 25

của Công ước và điều 3 khoản 13 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đưa ra những định
nghĩa không hoàn toàn giống nhau, nhưng đều thống nhất ở một điểm: vi phạm cơ bản là vi
phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên bị vi phạm, làm cho bên này không đạt được mục
đích khi giao kết hợp đồng. Ngoài ra, CISG còn quy định một trường hợp được hủy hợp đồng, đó
là khi bên vi phạm không không thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn đã được gia hạn thêm (điều
49 khoản 1 và 64 khoản 1). Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không có quy định tương
ứng.
- Về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, CISG và Luật Thương mại Việt Nam cho phép
trái chủ lựa chọn một trong hai biện pháp: sửa chữa hay thay thế hàng hóa. Tuy vậy, câu hỏi đặt
ra là căn cứ vào đâu để lựa chọn sửa chữa hay thay thế hàng hóa. Luật Thương mại Việt Nam
2005 không có quy định gì về vấn đề này, trong khi đó, CISG lại nêu rõ, trái chủ chỉ được áp dụng
biện pháp thay thế hàng hóa khi vi phạm của thụ trái cấu thành vi phạm cơ bản, còn trong các
trường hợp khác chỉ trái chủ chỉ được áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa, loại trừ khuyết
tật của hàng hóa[16].
Tóm lại, liên quan đến các chế tài do vi phạm hợp đồng mà CISG và pháp luật Việt
Nam cùng quy định, CISG có các quy định đầy đủ và cụ thể hơn so với pháp luật Việt Nam. Bên
cạnh đó, có vấn đề luật Việt Nam có quy định nhưng CISG lại không quy định (như chế tài phạt)
và ngược lại. Một số điểm khác biệt khác cũng cần được lưu ý, như quy định về việc thay thế
hàng hóa không phù hợp.
19. Hãy trình bày các trường hợp miễn trách theo CISG và theo pháp luật Việt Nam? So
sánh
Trả lời:
- Về các trường hợp miễn trách, CISG và pháp luật Việt Nam có cách tiếp cận tương tự
khi quy định trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của bên bị vi phạm. Ngoài ra, CISG
còn quy định cụ thể về việc miễn trách khi do lỗi của bên thứ ba (điều 79 + 294) trong khi pháp
luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
20. Hãy lập bảng so sánh ưu điểm và nhược điểm của các phương thức thanh toán
trong TMQT
Trả lời:



21. Hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của HĐTMQT theo PLVN
Trả lời:
- Về chủ thể: HĐ mua bán hàng hóa quốc tế được thiết lập giữa các chủ yếu là thương nhân.
LTM 2006 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các
tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐ mua bán
hàng hóa. Theo K3 D1 LTM, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không
nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể này
lựa chọn áp dụng LTM
- Về hình thức: HĐ mua bán hàng hóa quốc tế có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết (K2D27). Trong một số trường hợp nhất
định, pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, ví dụ như HĐ
mua bán hàng hóa quốc tế - phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thứ
khác có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, telex, fax hay thông điệp dữ liệu (K15D3)
- Về đối tượng: HĐ mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo LTM VN 2005, hàng hóa
là đối tượng của quan hệ mua bán có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có
trong tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương
mại.
22. Hãy soạn điều khoản giao hàng theo INCOTERMS 2010 để quy định người mua chịu
mọi phí tổn và rủi ro ngay sau khi hàng được giao lên tàu tại cảng xuất khẩu. Người
mua đồng thời có nghĩa vụ làm thủ tục xuất khẩu


Trả lời:
- INCOTERMS 2010: FOB
21. Hãy soạn điều khoản giải quyết tranh chấp biết rằng các bên thống nhất lựa chọn
trọng tài Việt Nam
Trả lời: Luật TTTM VN 2010
- Điều 5

- Điều 30
- Điều 35
- Điều 39
- Điều 58
- Điều 55
- Điều 60
22. Hãy soạn điều khoản miễn trừ trong hợp đồng xuất khẩu gạo
Trả lời:
- Điều 79 CUV 1980
23. Khi tranh chấp được giải quyết bởi trọng tài thương mại tại Việt Nam, thì xác định
áp dụng giải quyết tranh chấp như thế nào?
Trả lời:
- Kể cả khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài từ trước (thỏa thuận trong đó quy định
tranh chấp phát sinh sẽ được giải quyết tại trọng tài), hay khi tranh chấp đã phát sinh và các
bên quyết định sẽ đưa tranh chấp giải quyết tại trọng tài, việc đầu tiên phải thống nhất là hình
thức trọng tài được lựa chọn. Các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận sử dụng (i) trọng
tài vụ việc (ad hoc) hoặc (ii) trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế).
+Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc không thuộc một tổ chức trọng tài nào, do đó, các bên tham gia tranh
chấp có thể thỏa thuận quyết định tất cả các vấn đề về trọng tài như số lượng trọng tài viên,
cách thức chỉ định, thủ tục tố tụng trọng tài, luật áp dụng… Trọng tài vụ việc có ưu điểm là linh
hoạt, chi phí thấp và thủ tục nhanh chóng hơn, với điều kiện là các bên tham gia tranh chấp có ý
chí hợp tác.
Đối với trọng tài vụ việc, Ủy ban trọng tài là do các bên hoặc do đại diện của các bên chỉ
định. Sau khi Ủy ban trọng tài được thành lập, việc phân xử sẽ do Ủy ban trọng tài thực hiện và
các bên không được tham gia vào việc phân xử đó.
Ví dụ về trọng tài vụ việc có thể lấy ngay trong các Hiệp định trong khuôn khổ ASEAN cộng,
trong đó các bên quy định khi có tranh chấp phát sinh, tranh chấp có thể được đưa ra một Ủy
ban trọng tài (thường gồm 3 thành viên, 2 thành viên đại diện cho mỗi bên tranh chấp và thành
viên thứ ba làm Chủ tịch Ủy ban trọng tài) phân xử. Nội dung này sẽ được đề cập sâu hơn ở

phần sau của đề tài.
+Trọng tài định chế
Trọng tài định chế (hay còn gọi là trọng tài quy chế) là hình thức tổ chức, một trung tâm
trọng tài hoạt động thường trực (thực chất là họ cung cấp dịch vụ trọng tài) với những quy
định có sẵn về những vấn đề liên quan tới trọng tài như thủ tục, cách tiến hành tố tụng trọng tài
… Có thể kể tên một số trung tâm trọng tài nổi tiếng trên thế giới như LCIA (The London Court
of International Arbitration) ở London, CIArb ( The Chartered Institute of Arbitrators) ở Anh
hay ICC (The International Court of Arbitration) ở Paris.
Thông thường, khi các bên thống nhất đưa tranh chấp ra xét xử theo phương thức trọng
tài định chế, trung tâm trọng tài được lựa chọn sẽ chịu trách nhiệm chỉ định trọng tài viên cho
Ủy ban trọng tài.
Trọng tài định chế, với những quy định và thủ tục riêng của mình, thường được xem là
“chính thống” hơn so với trọng tài vụ việc. Tuy nhiên, chi phí cho trọng tài định chế thường cao
hơn, và thủ tục tố tụng lại chậm hơn so với trọng tài vụ việc.


24. Khi nào phán quyết trọng tài bị hủy theo pháp luật Việt Nam
Trả lời:
- Theo quy định tại Điều 69, Luật trọng tài thương mại Việt Nam, trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày nhân được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được Hội
đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp có thể hủy phán quyết
trọng tài thì có thể làm đơn gửi tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ vào hợp pháp.
- (D68 LTTTM) Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
+ Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận
của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;
+ Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết
trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;

+ Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là
giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm
ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
+ Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
25. Hãy nêu các bước giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Trả lời:
Bước 1: Nộp đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo
Trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện
gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc,
nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn.
Đơn khởi kiện gồm có các nội dung sau đây:
1. a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
2. b) Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
3. c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
4. d) Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có;
đ) Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;
1. e) Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định
Trọng tài viên.
Kèm theo đơn khởi kiện, phải có thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên
quan.
Bước 2: Bị đơn nộp bản tự bảo vệ (Theo Điều 35 Luật TTTM 2010)
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận
khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thì trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho
Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, thời hạn này có thể
được Trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ thể của vụ việc.
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên không có thoả thuận
khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài
liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ
của người mà mình chọn làm Trọng tài viên.

Bước 3: Thành lập hội đồng trọng tài
Thành phần Hội đồng trọng tài (Theo Điều 39 Luật TTTM 2010)


Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa
thuận của các bên.
Trường hợp các bên không có thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao
gồm ba Trọng tài viên.
Bước 4: Hòa giải (Theo Điều 58 Luật TTTM 2010)
Hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh
chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết trong vụ tranh chấp thì Hội đồng
trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận của các Trọng tài viên.
Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung
thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài.
Bước 5: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp (Theo Điều 55 Luật TTTM 2010)
Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác.
Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh
chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người
khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp.
Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của
Trung tâm trọng tài quy định; đối với Trọng tài vụ việc do các bên thỏa thuận.
Bước 6: Hội đồng trọng tài ra phán quyết
Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của
Chủ tịch Hội đồng trọng tài. (Theo Điều 60 Luật TTTM 2010)
26. Nêu sự khác biệt giữa sản phẩm tương tự và sản phẩm có thể thay thế cho nhau ?
Sản phẩm tương tự
Sản phẩm có thể thay thế cho nhau

Khái niệm
Sản phẩm tương tự là sản phẩm giống
Sản phẩm có thể thay thế là hàng hóa
hệt (về tất cả các đặc tính) với sản phẩm
có thể thay thế các loại hàng hóa khác
bị điều tra. (Khoản 2.6, Điều 2 HĐ
tương đương về công dụng (hoặc tiêu
ADA)
thụ) khi có các điều kiện thay đổi. Hàng
hóa thay thế có thể có chất lượng tốt hơn
hoặc thấp hơn mặt hàng nó thay thế và
đa số có mức giá rẻ hơn
Tính chất
Sản phẩm tương tự có thể so sánh về tiêu
Sản phẩm có thể thay thế là sản phẩm
chí chất lượng với sản phẩm bị điều tra.
không có đặc tính giống nhưng có đặc
Ví dụ các loại càfe: Arabica, Robusta,
điểm gần giống với sản phẩm bị điều tra,
Cherri là sản phẩm tương tự nhau
nên không thể so sánh về mặt chất lượng
với sản phẩm đang bị điều tra.
Ví dụ: xét ở tính năng sử dụng cuối cùng
làm tinh thần tỉnh táo thì trà và café là 02
loại sản phẩm có thể thay thế cho nhau.
Phạm vi xét
Sản phẩm tương tự hẹp
Sản phẩm có thể thay thế rộng hơn
từng khía
cạnh

Thứ tự ưu
Trước
Sau
tiên
27. So sánh 03 Biện pháp Phòng vệ thương mại
*Giống:


×