Tải bản đầy đủ (.doc) (254 trang)

VĂN HOÁ GIAO THÔNG TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC ĐƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (918.32 KB, 254 trang )

VĂN HOÁ GIAO THÔNG TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC
ĐƯỜNG
VĂN HOÁ GIAO THÔNG
TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC ĐƯỜNG
TS. HUỲNH VĂN SƠN (Chủ biên)

LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực nhằm đào tạo
ra một thế hệ tương lai phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ và lao động. Đó
là một thế hệ không chỉ có tài - có khả năng làm đất nước chuyển mình phát
triển cao hơn, mà còn là một thế hệ có sự hoà quyện giữa truyền thống với
hiện đại để làm giàu thêm tâm hồn và bản sắc con người Việt Nam. Có thể
nói, một mẫu hình công dân hiện đại, văn minh và sống có văn hoá là mẫu
hình mà quá trình giáo dục đang cố gắng gọt giũa thông qua những tác động
giữa ba yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và công cuộc quá độ lên CNXH, việc
giữ gìn và nâng cao văn hoá dân tộc là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Văn hoá được thể hiện trong nhiều lĩnh vực xã hội, trong nhiều khía của hoạt
động con người.
Hiện nay, vấn đề giao thông là một trong những vấn đề được xã hội
quan tâm nhiều nhất. Bởi những tồn tại về tai nạn giao thông đang là nỗi nhức
nhối và đau lòng của xã hội. Những con số thống kê về tình hình vi phạm
pháp luật về giao thông, tai nạn giao thông cứ tăng dần trong những năm qua,
hậu quả để lại là sự tổn hại về thân thể, tính mạng, vật chất; đồng thời tác
động đến tâm lí của những người trong cuộc... trong đó có cả những nạn
nhân là học sinh, sinh viên.
Học sinh, sinh viên là những người đóng vai trò là chủ đất nước mai
sau, lối sống văn hoá - văn minh sẽ được xây dựng và phát triển một cách


bền chặt bởi ý thức và hành vi của họ. Thực tế cho thấy, nhiều học sinh, sinh


viên hiện nay đang có những hành vi không tích cực, sự ứng xử thiếu chuẩn
mực khi tham gia giao thông. Điều này không chỉ làm xấu đi hình ảnh của một
cá nhân mà còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến những mất mát
không đáng có cho bản thân họ và những người khác... Chính vì vậy, việc
tuyên truyền và giáo dục cho học sinh về văn hoá giao thông là một trong
những việc làm cấp thiết. Có thế nói, đây được xem là một nội dung quan
trọng trong nhiệm vụ giáo dục pháp luật của nhà trường kết hợp với giáo dục
đạo đức, lối sống có văn hoá cho học sinh, sinh viên.
Giáo dục văn hoá (nói chung) và học sinh, sinh viên (nói riêng) cần một
quá trình lâu dài, bền chặt và sự chung tay của cả cộng đồng. Trong đó, giáo
dục cho lứa tuổi học sinh, sinh viên sẽ tạo ra những hiệu ứng và hiệu quả lớn
lao bởi họ là thế hệ có khả năng tuyên truyền và tác động việc thực hiện văn
hoá giao thông đến những thế hệ khác thông qua nhiều hoạt động mang tính
tuổi trẻ, tính cộng đồng, năng động và tích cực. Vì lẽ đó, giáo dục văn hoá
giao thông trong môi trường học đường là một trong những quá trình giáo dục
cần được quan tâm để thực hiện tốt hơn.
Quyển sách này ra đời bởi sự trăn trở với nguyện vọng góp những tư
liệu cơ bản và cần thiết cho công tác giáo dục văn hoá giao thông trong môi
trường học đường dựa trên việc tổng hợp, kế thừa các quan điểm về văn hoá
giao thông trên cơ sở phân tích dưới góc độ Giáo dục học và phát triển theo
các quan điểm Tâm lí học.
Với những cố gắng nhất định, quyển sách đã có những nét mới nhưng
chắc chắn còn có những hạn chế. Các tác giả rất mong nhận được sự đóng
góp và chia sẻ của các nhà khoa học, quý thầy cô và bạn đọc để quyển sách
được hoàn thiện hơn trong lần tái bản.
Các tác giả


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VĂN HOÁ GIAO
THÔNG

I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ GIAO THÔNG
1. Khái niệm về văn hoá [31]
1.1. Các khái niệm - thuật ngữ liên quan đến văn hoá
Có khá nhiều thuật ngữ liên quan đến khái niệm văn hoá. Phải tìm hiểu
những thuật ngữ này để từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá đúng hơn về
khái niệm văn hoá. Có thể đề cập một số thuật ngữ như: văn minh, văn hiến,
văn vật,...
a. Văn minh
- Thuật ngữ này được hiểu là vẻ đẹp, nét sáng sủa, rực rỡ. Giải thích
một cách giản hơn theo Hán Việt thì Văn chính là vẻ đẹp; Minh có nghĩa là
sáng được ghép từ hai từ: Nhật - Nguyệt còn chỉ là tâm lí - hay sự thông
minh, tiến bộ - sự thông tuệ.
- Văn minh theo các thuật ngữ của nó dùng để dịch từ Civilisation (tiếng
Anh) nhưng từ này được bắt nguồn từ chữ civitas tiếng Latinh có nghĩa là
thành phố, khai hoá, làm con người thông tuệ lên. Đây chính là sự thống nhất
giữa Đông và Tây trong cách hiểu và cách nhìn nhận.
- Văn minh được Will Durant sử dụng chỉ sự sáng tạo văn hoá, nhờ một
trật tự xã hội gây ra và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội và hoạt động văn hoá.
- Văn minh trong tiếng Đức dùng để chỉ các xã hội đạt được đến giai
đoạn tổ chức đô thị và có chữ viết.
- Văn minh còn dùng để chỉ mỗi một nấc thang, từng cấp độ của sự
phát triển con người, nhân loại đạt được trong từng giai đoạn nhất định hay
nói văn minh là những cấp độ phát triển về văn hoá của nhân loại.


- Hiện nay, văn minh thường được sử dụng như một khái niệm đồng
nghĩa với văn hoá. Thực chất nó bị quy về một trong những ngữ nghĩa của
khái niệm văn hoá. Văn minh được hiểu là một hệ thống những giá trị, những
truyền thống, những biểu tượng, tâm tính và lối sống của một chỉnh thể xã hội

hay của một thời đại (A. Toynbee); khái niệm văn minh dược sử dụng để chỉ
một giai đoạn phát triển và một trạng thái xác định (giai đoạn và trạng thái suy
thoái) của các vấn đề văn hoá khu vực (O. Spengler, N.A. Berdyaev).
- Có thể thấy văn minh được hiểu là hoạt động khai hoá làm thoát khỏi
trạng thái nguyên thủy. Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về hai mặt vật chất
và tinh thần của xã hội loài người, là trạng thái phát triển cao của nền văn
hoá. Trái với văn minh đó là dã man. Cũng có thể nhận ra rằng trong khái
niệm văn minh thường bao hàm bốn nội dung cơ bản: đô thị, nhà nước, chữ
viết và trình độ kĩ thuật. Văn minh là những giá trị mà loài người sáng tạo ra
trong giai đoạn phát triển tương đối cao của xã hội.
b. Văn hiến
- Văn hiến là một thuật ngữ chỉ chung sử sách và các chế độ chính
sách. Văn là văn hoá, hiến là hiền tài; văn hiến là truyền thống văn hoá lâu
đời và tốt đẹp. Văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài
- đức “chuyên chở”. Nếu văn hiến chỉ chung sử sách và các chế độ chính
sách có nghĩa là xã hội đã bắt đầu bước vào thời kì văn minh do đó có thể
thấy rằng văn hiến được sử dụng gần tương đồng với văn minh. Văn hiến
như một biểu trưng của dân tộc - đất nước chỉ rõ sự sáng tạo của con người
trong văn hoá, trong cuộc sống.
- Trong các bộ từ điển cũ của Trung Quốc và của nước ta, chữ Văn
hiến được hiểu và giải thích khá đơn giản. Theo nguyên nghĩa của nó, bộ “Từ
hải” của Trung Quốc ghi rằng hai chữ Văn hiến vốn là để chỉ điển bạ và người
tài giỏi (người tài giỏi là người có chữ - có tri thức để ghi chép - soạn thảo ra
thư tịch), về sau, văn hiến muốn để chỉ tất cả các thư tịch có giá trị, về các
lĩnh vực: Lịch sử, Địa lí, Y học, Văn học,... và hiện nay là các loại hình chữ:


chữ viết, bản đồ, kí hiệu mã hoá được sử dụng trong các văn bản và trên các
loại hình thông tin đại chúng đều được hiểu như là văn hiến của một quốc gia.
- Một quốc gia có văn hiến là một quốc gia đạt đến trình độ văn minh

cao trong văn hoá phát triển của mình. Quốc gia đó phải có chữ viết, dùng
chữ viết làm công cụ của quốc gia và của dân tộc nhằm phản ánh quá trình
phát triển và thúc đẩy quá trình đó bằng phát triển tâm lí.
c. Văn vật
- Văn vật được hiểu là truyền thống văn hoá tốt đẹp biểu hiện ở nhiều
nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. Văn vật còn là khái niệm để chỉ
những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử.
- Ngoài ra, văn vật còn được hiểu bao gồm tất cả những thành tựu
trong lao động sản xuất, trong lịch sử lao động của loài người, của một dân
tộc, của một quốc gia. Văn vật thể hiện ở bề dày những thành quả lao động
sáng tạo trên bình diện tinh thần và bình diện vật thể mà con người, loài
người tạo ra. Văn vật thể hiện là sự tựu trung của một quá trình tích lũy lâu
dài trong đời sống con người mà không đề cập trực tiếp đến những giá trị
mang tính hiện tại.
- Văn vật của một quốc gia, một dân tộc thể hiện sự tự hào của quốc
gia - dân tộc ấy. Bởi vì nó mang trong mình những thành tựu ấy là sự tự hào,
sự ngưỡng mộ với những gì đã được tích lũy, tạo dựng trong một thời gian
dài.
Như vậy, có thể thấy rằng văn hiến, văn minh, văn vật là những thuật
ngữ khá cơ bản. Văn minh khác với văn hiến ở điểm văn minh là một từ mới
du nhập và được sử dụng gần đây còn văn hiến là một từ cổ và gần như rất ít
được sử dụng. Khái niệm văn hiến, văn vật thường gắn liền với phương Đông
khác với khái niệm văn minh thường gắn liền với đô thị phương Tây. Tuy
nhiên, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều quốc gia thì thuật ngữ
văn minh được sử dụng phổ biến hơn. Nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
đã dùng thuật ngữ văn minh để chỉ một trình độ phát triển khá cao của con


người trong cuộc sống như: văn minh đô thị, văn minh giao thông, ứng xử văn
minh,... Thuật ngữ này cũng bắt đầu được sử dụng phổ biến trong đời sống

con người.
Bên cạnh ba thuật ngữ trên, thuật ngữ văn hoá được sử dụng rộng rãi
hơn, đặc biệt hơn. Vậy văn hóa là gì?
1.2. Khái niệm văn hoá
- Khái niệm văn hoá trong ngôn ngữ châu Âu thường dùng là “culture”,
nghĩa gốc của nó là một thuật ngữ gắn liền với trồng trọt, trau dồi, bồi dưỡng
– trồng cây, trồng người, là việc làm nảy sinh các sự vật lợi ích cho con
người.
- Khái niệm văn hoá trở nên rất thông dụng hiện nay. Có thể nhìn nhận
ở một góc độ khác là vốn xuất thân từ gốc Hán và được Việt hoá Hán, thuật
ngữ này xuất hiện rất lâu trong ngôn ngữ Hán và được du nhập vào Việt Nam
từ hơn 2000 năm trước.
- Trong từ nguyên văn hoá được ghép bởi hai từ văn và hoá. Văn bao
gồm hàng chục nghĩa để chỉ những người có học vấn, văn vẻ, văn chương, lễ
phép, đẹp,... và có thể biểu hiện là bề ngoài hay là hình thức, tiền bạc. Hoá
cũng có thể có rất nhiều nghĩa như để chỉ sự thay đổi một cách tự nhiên hay
có sự chủ ý, sự biến hoá của vạn vật, sự dạy dỗ thành người,... Như vậy văn
hoá là muốn nói về “Văn vật và giáo hoá”, là thay đổi một cách hợp quy luật
những sự vật hiện tượng, quan hệ do con người tạo ra. Đây là cách hiểu gần
với giáo dục - con người nhiều hơn.
- Khái niệm văn hoá có từ thuở bình minh của xã hội loài người nhưng
đến thế kỉ XVI thì khái niệm này đã được tìm hiểu và nhìn nhận khá sâu sắc.
Cũng từ thời điểm này, văn hoá được phân tích ở nhiều góc nhìn khác nhau
từ con người, xã hội,...
- Khái niệm văn hoá là một khái niệm rất quen nhưng lại rất rộng vì thế
việc xác định khái niệm này không phải là đơn giản. Mỗi một học giả - nhà
khoa học có thể xuất phát từ những cứ liệu riêng, mục đích riêng, góc độ


riêng và cách tiếp cận riêng của mình trong nghiên cứu nền văn hoá được

hiểu rất riêng. Theo thống kê, có thể thấy có hơn 400 định nghĩa khác nhau
về văn hoá.
- Theo cách hiểu văn hoá thông thường trong đời sống xã hội thì văn
hoá là sự hiểu biết, cái mà con người nắm được; văn hoá thường dùng để chỉ
trình độ học vấn (trình độ 12/12 - dù rằng cách hiểu này chưa thực sự hợp lí
vì học vấn chỉ là trình độ về mặt kiến thức cơ bản mà chưa phải là sự hiểu
biết đúng nghĩa như là giá trị văn hoá tích lũy) hoặc để chỉ các sinh hoạt mang
tính chất cộng đồng (sinh hoạt văn hoá) hoặc để chỉ các thực thể của đời
sống tinh thần (nhà văn hoá, di tích văn hoá, ấp văn hoá,...) hoặc phản ánh
sự đánh giá về những biểu hiện cách ứng xử của con người trong mối quan
hệ xã hội (có văn hoá, vô văn hoá) hay để chỉ những kinh nghiệm xã hội,
những truyền thống nhất định.
Văn hoá được quan tâm khá rõ từ nhiều học giả trong và cả ngoài
nước từ những thế kỉ qua:
a. Một số định nghĩa - khái niệm về văn hoá của các học giả phương
Tây và học giả nước ngoài
- Khoảng thế kỉ XVII, XVIII thuật ngữ văn hoá được sử dụng với nghĩa
“canh tác tinh thần” hay nghĩa gốc của nó chính là quản lí, canh tác, nông
nghiệp.
- Vào thế kỉ XIX, thuật ngữ này được sử dụng như là một danh từ chính
ở các nhà Nhân học phương Tây. Các học giả cho rằng văn hóa thế giới có
thể phân loại từ trình độ thấp nhất đến cao nhất và dĩ nhiên họ khẳng định
văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất vì họ lí luận “văn hóa hướng về trí lực”
và sự vươn lên, sự phát triển này tạo thành văn minh” (Eward urndt). Đại diện
của những tác giả này là nhà Xã hội học E.B. Taylor. Ông quan niệm “văn hoá
là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật, phong tục và những khả năng - tập quán khác mà con người có được
với tư cách là thành viên của xã hội” [32, tr. 15].



- Rồi đến tác giả F. Boas, ở thế kỉ XX khi đánh giá về văn hoá đã có sự
thay đổi ở khái niệm này. Ông quan niệm ý nghĩa văn hoá được quy định do
khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu siêu sao như “trí
lực”. Vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo
tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá xét ở
mức thấp - cao và ở góc độ khác biệt.
- Theo học giả Triết học người Italia - Pie de la miradile (1463 - 1494)
thì văn hoá được quan niệm như sau: “Con người thoát khỏi cuộc sống
nguyên thủy nhờ văn hoá và tự khởi thủy văn hoá đã là lao động tự tạo ra
cuộc sống”. Nói chung văn hoá là sáng tạo, đa dạng và đa vẻ, luôn có mặt
trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống của con người. Ở đâu có sản xuất và
làm ăn giỏi, có quan hệ lành mạnh là ở đó có văn hoá.
- Cũng có cách định nghĩa văn hoá nhấn mạnh vào phương thức ứng
xử như quan niệm của tác giả F. Merili và Tômatxơ: “Văn hoá là các giá trị vật
chất và xã hội của nhóm người, các thiết chế, phong tục và phản ứng trong
cách ứng xử của họ” - Tômatxơ hay “Văn hoá là cách ứng xử mà các thành
viên xã hội đạt được” - F. Merili.
- Knoibơ (A.L.Knoiber) và Klúchôn (C.L. Kluc Kholn) quan niệm rằng
văn hoá là loại hình hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại
bằng biểu tượng và nó hình thành thành quả độc đáo của nhân loại khác với
các loại hình khác trong đó gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra.
- Một số học giả Mĩ cho rằng “Văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản
chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”.
- Cũng có định nghĩa nhấn mạnh về tính giá trị như tác giả A.A. Zvokin
đã xem văn hoá “là tất cả những gì do con người tạo ra, khác với tất cả
những gì do thiên nhiên cung cấp”. Tác giả khẳng định về tính người của văn
hoá theo quan điểm văn hoá là tổng thể giá trị vật chất và tinh thần của con
người, loài người.



- Theo định nghĩa về văn hoá trong Từ điển Triết học (NXB Chính trị
Matxcơva - 1972) thì "Văn hoá là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần đã được
nhân loại sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội, các
giá trị ấy nói lên mức độ phát triển của lịch sử xã hội loài người”.
- Ngoài ra cũng tồn tại quan điểm xem văn hoá như là một thuộc tính
nhân cách đã tập trung sự chú ý vào nhân cách con người - chủ thể lịch sử và
xem văn hoá chỉ là một thuộc tính của nhân cách; một phạm trù nhân cách do
đó không quan tâm đến văn hoá như là một hệ thống khách quan tồn tại trong
xã hội. Như vậy, quan điểm này chưa đánh giá được quan hệ tích cực của
văn hoá - con người vì văn hoá chỉ là một thuộc tính rất “nhỏ nhoi” của nhân
cách có nghĩa là vấn đề quan hệ đa chiều giữa con người - xã hội - văn hoá
không còn tồn tại nữa.
- Trong hội nghị Bộ trưởng các nước thuộc Cộng đồng châu Âu (1981),
văn hoá được định nghĩa “Văn hoá là tổng số những hoạt động và những giao
lưu của con người được sáng tạo và đã sáng tạo ra cho một xã hội những
liên hệ đặc biệt (hay cho một kiểu xã hội):
+ Giữa con người và tự nhiên (thích nghi với tự nhiên);
+ Giữa con người và chủng loại (vai trò, phong hoá và đạo đức);
+ Giữa đàn ông và đàn bà (giới tính và tình yêu);
+ Giữa con người và bản thân nó (nhận thức và tự hoàn thiện mình).
- Cũng trong năm 1981, vào ngày 9/8/1981 trong văn bản "Bản sắc văn
hoá và sự hợp tác nhiều bên giữa các nước nổi tiếng Pháp" công bố trong hội
nghị Bộ trưởng văn hoá các nước nói tiếng Pháp (thuộc khối ACCT), văn hoá
được xem là “Tổng số những cái biểu hiện con người đứng trước cuộc sống,
những cái tạo thành ý thức của nó với những người khác trong địa vị của nó
(aire) và trong không gian hoàn vũ, trong thời gian của nó và trong thời gian
lịch sử. Đó là những cái mà con người, về mặt cá nhân cũng như tập thể đã
nắm được, giải thích được và thể hiện được về phương diện vật chất cũng
như về phương diện tâm lí để sáng tạo, trợ lực, làm giàu và truyền lại cho



những người khác lịch sử bản thân của nó, nghĩa là mối liên hệ của nó với
thế giới vật thể và thế giới siêu hình. Văn hoá, tóm lại là tất cả những cái mà
nhờ nó một cộng đồng con người tự nhận biết bản thân và có thể được người
khác nhận biết. Đối với mọi cộng đồng con người, mọi nhân dân, không có
bản sắc nào có thể có, có thể yêu sách và được thực hiện ngoài nền văn hoá
của bản thân họ”.
- Theo bách khoa thư Encyclopacdia Univer Salis (Pháp) thì “Văn hoá
theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu, thẩm mĩ,
những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ những tổ chức môi trường của con
người - nghĩa là văn hoá vật chất, những công cụ nhà ở và nói chung lại là
toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những
ứng xử của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó...”
- Định nghĩa văn hoá của UNESCO theo nghĩa rộng nhất thì văn hoá
hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, tâm
lý và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những
tín ngưỡng. Trong bài phát động “Thập kỉ thế giới phát triển văn hoá, - 1997”
UNESCO có đoạn viết: “Văn hoá là tổng thể các hệ thống giá bao gồm các
mặt tình cảm, trí thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không chỉ đơn thuần
bó hẹp trong các hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà bao gồm cả phương thức
sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng,...”. Định
nghĩa này khái quát khá nhiều biểu hiện của văn hoá, góp phần làm phong
phú thêm cách hiểu về văn hoá.
b. Một số khái niệm về văn hóa của các tác giả Việt Nam
Đề cập đến văn hóa, từ nhiều năm qua các tác giả Việt Nam cũng có
nhiều quan tâm đáng kể.
- Có thể đề cập đầu tiên đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác là người quan
tâm khá sâu sắc đến văn hoá. Từ năm 1930 Bác viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như

mục đích của cuộc sống, loài người đã phải sáng tạo và phát minh ra ngôn


ngữ - chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá - nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức
sử dụng, toàn bộ những phát minh - sáng tạo đó chính là vãn hoá. Văn hóa là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm đáp ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
sự sinh tồn”.
Như vậy, ở định nghĩa này Bác Hồ đã khẳng định đến sự sáng tạo và
văn minh trong văn hoá - đó là những giá trị vật chất và tinh thần mà con
người tạo ra và đây cũng chính là kết quả của giáo dục. Định nghĩa này khá
đầy đủ, dễ hiểu, đề cập khá rõ nét đến sự sáng tạo - giá trị sáng tạo và phát
minh để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của con người trong đó bao
gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Đặt vấn đề về văn hoá như thế
sẽ thấy được văn hoá không phải ngẫu nhiên hay tự nhiên có được mà phải
là sự đầu tư, tích lũy lâu dài. Tuy vậy, văn hoá cũng không phải là cứng nhắc
mà văn hoá là nội dung để con người lĩnh hội và con người tiếp tục phát triển
nền văn hoá ấy cũng như góp phần làm cho văn hoá tiến lên một bước mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện sự quan tâm của nhiều người nhiều
hơn đối với vấn đề văn hoá khi Bác rất coi trọng vấn đề văn hoá. Có văn hóa
biết đọc, biết viết trong khẩu hiệu “Ba chống” của Bác đã khẳng định đây
chính là tiền đề của văn hoá - là ngưỡng cửa bước vào tương lai, cần xóa bỏ
văn hoá của dân tộc trước kia bị nô dịch, kìm kẹp trong chính sách ngu dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phát biểu “Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân
dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần
chúng. Vì vậy, nội dung của văn hoá phải có ý nghĩa giáo dục”.
- Đồng chí Trường Chinh trong cuốn chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt
Nam - 1949 đã viết: Văn hoá là một vấn đề rất lớn, bao gồm cả Văn học,
Nghệ thuật, Khoa học, Triết học, Phong tục, Tôn giáo,... Có người cho văn

hoá và văn minh là một nhưng trong lịch sử có nhiều dân tộc chưa có văn
minh đã có văn hoá. Khi văn hoá xúc tích và phát triển tới mức nào đó mới trở
thành văn minh.


- Theo đồng chí Phạm Văn Đồng: Văn hoá là bộ mặt của xã hội, bộ mặt
của con người và cộng đồng con người, diện mạo bên trong với những phẩm
chất cao quý của nó và phong cách bên ngoài với hoạt động đa dạng của nó.
- Tác giả Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa mang tính chất thao tác
luận khác với tinh thần luận của một số định nghĩa trước đó: Không có vật gì
gọi là văn hoá cả mà ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hoá. Văn hoá
là một quan hệ, nó là quan hệ giữa thế giới biểu tượng với thế giới thực tại.
Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một
cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt các kiểu
lựa chọn làm cho chúng ta khác nhau tạo thành những nền văn hoá khác
nhau, đó là khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp thu hay sáng tạo
đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở
một dân tộc khác.
- Tác giả Nguyễn Từ Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa
vào hai góc độ:
- Góc độ, hay góc nhìn Dân tộc học: Đây là góc chung của các ngành
khoa học xã hội. Hiểu ở góc rộng, văn hoá là toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối
sống) cả vật chất xã hội và tinh thần của từng cộng đồng.
+ Góc hẹp, góc thông dụng hàng ngày hay còn gọi là góc báo chí: Văn
hoá đã hướng về lối sống hơn là kiến thức dưới sự biến động nhanh của xã
hội.
- Gần đây, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII (14/1/1993) chỉ rõ vai trò, động lực của văn hoá trong Cách
mạng XHCN của chúng ta: “Nhiệm vụ trọng tâm của văn hoá, văn nghệ nước
ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam tâm lí, đạo đức, tâm hồn, lối

sống tình cảm, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự
nghiệp đổi mới, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
- Theo tác giả Bùi Thiết, hiểu một cách khái quát - rộng nhất “Văn hoá
là để chỉ toàn bộ những sáng tạo của con người về vật chất, về tinh thần và


ứng xử, đó là những sáng tạo và hoạt động có ích cho cuộc sống của con
người, cho xã hội loài người và cho thế giới xung quanh”. Cách hiểu này cho
thấy văn hoá là một khái niệm rất rộng về quá trình sáng tạo của nhân loại,
một phức hệ hay là một đa phức hệ các hoạt động của xã hội loài người
không để chỉ một cái cụ thể nào mà chỉ tất cả những cái cụ thể trong đó bao
gồm góc độ sáng tạo ra của cải vật chất, tinh thần và góc độ sáng tạo ra quan
hệ ứng xử người - người, con người và vũ trụ.
- Như vậy, có thể thấy văn hoá không phải tự nhiên mà có, cùng lúc
con người sinh ra cũng không phải là văn hoá đã có sẵn ở xã hội cũng như là
có con người. Văn hoá có được nhờ vào quá trình tu dưỡng, đào tạo và giáo
dục. Nói cách khác, con người không chỉ có di truyền sinh học mà còn một
loại di truyền nữa, đó là di truyền xã hội và sự nhập tâm văn hoá ngay từ khi
còn là bào thai. Thuật ngữ văn hoá với nghĩa là canh tác tinh thần được sử
dụng khá lâu và được lí giải theo nhiều góc độ tiếp cận và ngày càng phát
triển. Tuy nhiên, có thể thấy văn hoá là những gì mà con người sáng tạo ra.
- Nhìn nhận tất cả những định nghĩa đã đề cập, có thể thấy những định
nghĩa đều có một số điểm chung nhất. Đây có thể xem là những đặc điểm của
văn hoá:
+ Văn hoá là hoạt động sáng tạo ra các giá trị nhất định có ý nghĩa với
con người.
+ Văn hoá do con người sáng tạo ra và thuộc về con người, loài người,
xã hội loài người.
+ Sự xuất hiện của văn hoá xuất phát từ sự thích nghi của con người
với môi trường sống nhưng đó là sự thích nghi có chủ đích và sáng tạo thông

qua hoạt động của con người nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống phù hợp với cái đẹp và các giá trị chân - thiện - mĩ.
+ Văn hoá bao gồm hệ thống các giá trị vật chất - tinh thần và cả cá giá
trị ứng xử được sáng tạo, chắt lọc và truyền lại qua chiều dài lịch sử nhờ giáo
dục và quá trình xã hội hoá.


+ Văn hoá là sự thay đổi một cách tự nhiên nhưng hợp quy luật những
sự vật hiện tượng và phải phù hợp với cá nhân con người, phục vụ con
người.
+ Văn hoá vừa mang nghĩa rộng nhưng lại có nghĩa hẹp, thậm chí chỉ
một hoạt động riêng lẻ nào đó trong phạm vi sáng tạo của con người.
+ Văn hoá mang những giá trị nhất định và được tích lũy phong phú
theo thời gian. Giá trị văn hoá được tạo ra không mất đi mà chỉ lắng đọng
hoặc cạnh tranh.
+ Văn hoá luôn được bổ sung và vì vậy văn hoá mang giá trị truyền
thống và hiện đại.
- Khi xem xét và đánh giá về văn hoá cần quan tâm đến chức năng của

+ Văn hoá theo nghĩa rộng nhất có chức năng “Phát triển lịch sử xã hội
và con người, thực hiện chức năng kinh tế - xã hội vì văn hoá là kinh nghiệm
của loài người”
+ Văn hoá theo nghĩa hẹp có các chức năng cụ thể:
* Chức năng giáo dục: Đây là chức năng quan trọng nhất, bao trùm
nhất của văn hoá, nó giúp định hướng xã hội, thể hiện ý tưởng, đạo đức và
hành vi của con người theo khuôn mẫu mà xã hội quy định. Với chức năng
này, văn hoá tạo nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử của
mỗi dân tộc. Văn hoá góp phần giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc, đồng
thời là chiếc cầu nối tình hữu nghị gắn bó với các dân tộc, nhiều thế hệ
hướng thiện. Văn hoá xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành

những hiểu biết về văn hoá, hình thành thói quen, hành vi, kĩ năng sống và
tình cảm, thái độ có văn hoá ở mọi cá nhân.
* Chức năng nhận thức: Chức năng này có mặt trong mọi hoạt động
văn hoá như các tác phẩm nghệ thuật, các công trình kiến trúc, bảo tàng,...
Nó giúp con người cảm nhận cái mới, hiểu biết mới, tình yêu mới trong môi
trường xung quanh. Chức năng nhận thức giúp con người khi tiếp cận văn


hoá sẽ mở rộng hiểu biết của chính mình, nâng mình lên một tầm cao mới về
mặt tri thức, bản lĩnh và những yếu tố có liên quan.
* Chức năng thẩm mĩ: Văn hoá, văn học nghệ thuật với biểu hiện tập
trung nhất của sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Nó giúp con người cảm
nhận được cái đẹp trong môi trường sống xung quanh; khuyến khích con
người tìm tòi và sáng tạo ra cái đẹp,... hình thành cảm xúc thẩm mĩ ở mỗi cá
nhân. Nhờ vào chức năng thẩm mĩ, con người không chỉ hướng đến cái đẹp,
thưởng thức nó mà còn định hướng quá trình tìm tòi và tạo ra những cái mới
ở nhiều cấp độ khác nhau.
2. Khái niệm về văn hoá giao thông
Theo Từ điển Tiếng Việt, giao thông là “việc đi lại từ nơi này đến nơi
khác của người và phương tiện chuyên chở”, còn vận tải là “chuyên chở
người hoặc đồ vật trên quãng đường tương đối dài”. Như vậy giao thông và
vận tải là hai khái niệm khác nhau song rất gắn bó với nhau. Chúng đều
hướng tới việc thay đổi vị trí không gian của người, phương tiện và đồ vật.
Nói đến vận tải là phải nói đến giao thông và nhiều trường hợp tham gia giao
thông là để vận tải. Ở đây sử dụng thuật ngữ giao thông chủ yếu theo nguyên
nghãi song có khi cũng bao hàm cả nghĩa vận tải - đây cũng là cách quan
niệm về khái niệm giao thông khi Quốc hội nước ta xây dựng Luật Giao
Thông đường bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Bất kì ai muốn sống thì phải có bốn kiểu:
ăn, mặc, ở, đi lại”. Người còn nói: “Giao thông vận tải rất quan trọng đối với

chiến đấu, đối với sản xuất, đối với đời sống của nhân dân,... nếu giao thông
có chỗ nào đó nghẽn lại thì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp ngay đến chiến đấu,
đến sản xuất, đến đời sống của nhân dân.” [1, tr.6 ]. Đi lại tuy không phải là
nhu cầu tự thân song nó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của loài
người. Đã có lúc người ta cho rằng sự phát triển của thông tin - của một số
dịch vụ khác sẽ làm giảm sự đi lại của con người song thực tế không phải
như vậy. Một số công trình khoa học đã chứng tỏ rằng quỹ thời gian dành cho
việc đi lại cũng như quãng đường trung bình mà mỗi con người phải vượt qua


ngày càng tăng, ở Việt Nam, quy luật này cũng được thể hiện. Rõ nét nhất là
sau những năm đổi mới, sự phát triển kinh tế tăng lên, giao lưu xã hội tăng
lên đòi hỏi việc đi lại nhiều hơn. Học sinh và thanh thiếu niên tăng đi lại vì học
chính khóa, học thêm, sinh hoạt lớp, giao tiếp bạn bè, tham gia các hoạt động
xã hội,... Đặc biệt, nền kinh tế hàng hoá và xã hội tiêu dùng phát triển đã làm
cho bức tranh giao thông có những sắc màu mới, sinh động hơn với đủ chủng
loại phương tiện khác nhau.
Giao thông là một nhu cầu cần thiết của con người và gắn với các hoạt
động vận tải, thỏa mãn nhu cầu thay đổi vị trí không gian của người và vật
trong đời sống xã hội. Sự thay đổi này không để lại dấu vết trên đối tượng, nói
rõ hơn là không đem lại một sự tổn thương nào về cả hai mặt: vật chất và tinh
thần trên các đối tượng khi tham gia giao thông. Nếu cả người và vật đều bị
“biến dạng” đi trong quá trình tham gia giao thông thì mục đích của giao thông
là không đạt được. Thuật ngữ “An toàn giao thông” xuất phát từ đặc điểm
này, bởi vì muốn đạt được muc đích khi tham gia giao thông, không để lại sự
tổn thương dù là nhẹ nhất trên các đối tượng thì yêu cầu về an toàn là yêu
cầu đầu tiên trong hoạt động giao thông. An toàn đã trở thành một thuộc tính
gắn bó hữu cơ cùng với hoạt động giao thông.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi cuộc sống xã hội ngày
càng hiện đại và con người ngày càng tất bật và vội vã hơn thì liệu chỉ đáp

ứng yếu tố an toàn là đủ. Để đảm bảo an toàn cho bản thân mà người tham
gia giao thông có thể chen lấn vào chỗ đậu an toàn, hay thanh thiếu niên chen
lấn chọn chỗ ngồi cho an toàn trên xe buýt mà quên đi những người lớn tuổi
đang đứng hay hành vi la lối vì người khác vô tình chạm vào phương tiện của
mình khi tham gia giao thông. Lẽ đương nhiên, cũng cần lật ngược lại vấn đề
an toàn giao thông ấy có nguồn gốc từ đâu?
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006) đã nhấn mạnh:
“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống


xã hội”. Vì vậy việc xây dựng nếp sống văn hoá mới, đạo đức mới, các yếu tố
kinh tế xã hội bao gồm việc xây dựng và phát triển giao thông hiện đại không
thể tách rời yêu tố văn hoá. Nếp sống văn hoá giao thông phải được tiến
hành và phối hợp chặt chẽ từ bản thân của từng cá nhân với gia đình, nhà
trường và ngoài xã hội, được giáo dục và thực thi xem văn hoá giao thông là
một yếu tố cấu thành nên bản sắc văn hoá của một xã hội đang quá trình
vươn mình đổi mới và phát triển.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: Cốt lõi nhất của công tác
đảm bảo an toàn giao thông chính là việc tuyên truyền, vận động để mọi
người dân tham gia giao thông tự giác thực hiện. Nếu người dân không có ý
thức tự giác chấp hành quy định của pháp luật an toàn giao thông, vi phạm
diễn ra tràn lan thì tai nạn giao thông không thể giảm. Theo quan niệm của rất
nhiều người thì văn hoá giao thông là một thứ gì đó rất cao xa và khó có thể
đạt được trong thời điểm hiện nay ở Việt Nam nhưng theo Tiến sĩ Tjenjai
Fukuda, chuyên gia của JICA về văn hoá giao thông cho rằng, thuật ngữ “Văn
hoá giao thông” chính là nâng cao ý thức và thái độ về an toàn đối mỗi người
tham gia giao thông [34, tr.23].
Tác giả Trần Văn Miều cho rằng văn hoá giao thông là người dân tự

giác chấp hành đúng các quy định trong Luật Giao thông. Thanh niên có văn
hoá giao thông là việc người thanh niên tự giác, gương mẫu chấp hành Luật
Giao thông và vận động người khác cùng thực hiện [34, tr.8].
Tác giả Lê Thị Bích Hồng cho rằng văn hoá giao thông là sự hiểu biết
đầy đủ và nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông; có tính cộng đồng khi
tham gia giao thông; cư xử có văn hoá khi lưu thông trên đường. Văn hoá
giao thông chính là nâng cao ý thức và thái độ về an toàn đối với mỗi người
tham gia giao thông; là công tác quản lí của các cơ quan quản lí thực hiện
một cách tổng thể, toàn diện và thường xuyên, liên tục đối với cộng đồng.
Giao thông không thể tách rời khỏi văn hoá. Tuy nhiên, để biến hành vi thiếu
an toàn sang hành vi an toàn phải có thời gian và nỗ lực của các cơ quản lí
Nhà nước và người dân, đặc biệt là thanh niên. Mối quan hệ giữa cơ quan


quản lí Nhà nước và cộng đồng là rất quan trọng. Nếu mối quan hệ này diễn
ra hai chiều thì quá trình hình thành ý thức và văn hoá giao thông sẽ dễ dàng
hơn [34, tr.10].
Theo Ban Thanh niên Bộ Công an, văn hoá khi tham gia giao thông là
bộ phận của văn hoá nơi công cộng, là tập hợp những đặc trưng về cách ứng
xử, chấp hành các quy định chung về pháp luật, tuân theo các chuẩn mực
đạo đức, thẩm mĩ khi tham gia giao thông của một xã hội [34, tr.40].
Từ những quan niệm cơ bản về văn hoá, các vấn đề về giao thông
chúng ta có thể khái quát rằng Văn hóa giao thông là một bộ phận của văn
hoá ứng xử của con người khi tham gia giao thông. Đó là sự tôn trọng, thái độ
tích cực, là sự hiểu biết đầy đủ và nghiêm chỉnh chấp hành các Luật về giao
thông như: Luật Giao thông đường bộ, Đường thủy nội đia, Đường sắt, Hàng
hải và Hàng không dân dụng.
Xây dựng nếp sống văn hoá giao thông khi tham gia giao thông nhằm
tạo nên trạng thái nếp sống cư xử có văn hoá, đúng luật, an toàn và có ý thức
lịch sử, tự giác tuân thủ pháp luật về an toàn giao thông như một chuẩn mực

đạo đức truyền thống, khơi dậy nét đẹp thuần phong mĩ tục khi tham gia giao
thông. Khi con người hiểu đúng các quy định về Luật Giao thông, biết hàng
trăm biển báo hiệu, biết điều khiển xe vận hành và dừng, đỗ, với các thao tác
kĩ thuật máy móc tương ứng, thì đây là kiến thức về Luật Giao thông, nghĩa
là, chúng ta biết, hiểu và thực hiện các động tác cơ học nào đó khi tham gia
giao thông, ở khía cạnh này, chỉ mới được gọi là chấp hành giao thông. Còn
văn hoá giao thông, chính là cách xử sự của con người đối với các kiến thức
về Luật Giao thông đường bộ quy định, mà chúng ta phải chấp hành đúng,
gương mẫu và tự giác. Nói cách khác, một cách đơn giản hơn, văn hoá tham
gia giao thông thể hiện trong thái độ, hành vi xử thế của người tham gia giao
thông đối với các quy định của pháp luật về giao thông.
Giao thông là một trong những lĩnh vực hết sức quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội và là nền tảng vững chắc đảm bảo cho sự phát triển
bền vững. Đồng thời cũng là tiêu chí đánh giá trình độ văn minh của một đất


nước đang trên đà phát triển. Xây dựng văn hoá giao thông là một vấn đề cấp
bách, mang tính xã hội rộng lớn. Nó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống và
tài sản của con người mà còn thể hiện một hành vi văn hoá. Hay nói cách
khác, văn hoá giao thông chính là nền tảng góp phần thúc đẩy xã hội nhanh
chóng đi đến văn minh, hạnh phúc và là tiền đề để bảo vệ tài sản, tính mạng
của chính mình. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, cùng một hệ
thống giao thông đang ngày càng hoàn thiện thì văn hoá giao thông cũng là
điều cần phải tuyên truyền và giáo dục.
3. Khái niệm về hành vi, hành vi văn hoá giao thông
3.1. Khái niệm về hành vi
Các ý định tìm hiểu một cách khoa học bản chất của hành vi đã xuất
hiện từ rất lâu, nhưng chỉ với sự ra đời thuyết phản xạ của Paplov và thuyết
hành vi mới đạt được những thành tựu đáng kể.
Theo thuyết hành vi cổ điển, hành vi được hiểu một cách hết sức đơn

giản là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trả lời các kích thích từ môi trường
tác động vào. Nhà Tâm lí học Mĩ J. Watson (1878 - 1958) đã đưa ra một công
thức nổi tiếng để diễn tả mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường là S — R
(trong đó S là kích thích xuất phát từ môi trường bên ngoài cơ thể và R là
phản ứng của cơ thể để đáp trả kích thích đó). Với cách hiểu này, hành vi đơn
thuần chỉ là những thao tác mang tính sinh học, ý thức không đóng vai trò
trong điều khiển hoạt động của con người, con người hoàn toàn thụ động
trước hoàn cảnh của môi trường.
Trong khi đó, Tâm lí học hành vi mới với đại biểu là E. Tolman (1886 –
1059) đưa biến số trung gian làm khâu gián tiếp giữa kích thích và phản ứng:
S - O - R. Biến số trung gian gồm: hệ thống nhu cầu, hệ thống động cơ giá trị
và trường hành vi. Ông cho rằng mọi hành vi đều là có nhận thức do đó ít
nhiều là có ý thức nhưng lại giải thích khái niệm ý định, tính có mục đích của
hành vi theo tinh thần sinh vật hoá.


Tóm lại, hạn chế trong thuyết hành vi là phủ nhận ý thức trong hành vi
của con người, tuyệt đối hoá môi trường và xem nhẹ tính tích cực của cá
nhân trong việc điều chỉnh hành vi.
Trong Tâm lí học mácxít, hành vi con người được xem như là hoạt
động, tuy ít nhiều mang yếu tố bẩm sinh nhưng chủ yếu chịu sự chi phối từ
phía xã hội thông qua ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu ý nghĩa khác. Hình
thức tiêu biểu nhất của hành vi người là lao động và giao tiếp. Sự độc đáo
của hành vi cá nhân phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ tương hỗ
trong nhóm, thái độ của cá nhân đối với những chuẩn mực, định hướng giá trị
và vị thế xã hội mà người đó đảm nhiệm.
Quan điểm Triết học Mác - Lênin cho rằng mối quan hệ giữa con người
và hoàn cảnh là mối quan hệ biện chứng, trong đó như Mác đã nhận định
trong chừng mực con người tác động bao nhiêu lên hoàn cảnh thì nó cũng
chịu tác động của hoàn cảnh bấy nhiêu. Như vậy, mối quan hệ giữa con và

hoàn cảnh là mối quan hệ tương tác tương hỗ, mà ở đó con người vừa là chủ
thể tác động, vừa chịu tác động của hoàn cảnh, môi trường sống. Nhưng con
người không phải thích nghi một cách thụ động mà là một chủ thể tích cực
của hành động, tác động có ý thức nhằm cải tạo hoàn cảnh xung quanh và
điều chỉnh chính bản thân mình trong cuộc sống. Hoàn cảnh là yếu tố tạo nên
hành vi con người.
L.X. Vygotsky khẳng định hành vi người và hành vi động vật có cấu trúc
hoàn toàn khác nhau. Theo ông, cấu trúc hành vi của con người bao gồm
kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm kép. Các kinh nghiệm
này có điểm chung là nội dung của chúng đều xuất phát từ lao động, từ quá
trình truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này
sang người khác và từ việc lĩnh hội kinh nghiệm của cá nhân mỗi người.
Hiện nay trong lí luận cũng như thực tiễn, thuật ngữ hành vi chưa được
xác định một cách rõ ràng, dứt khoát. Nói chung con người vẫn dùng thuật
ngữ hành vi cho cả động vật và người, ở người, thuật ngữ hành vi, hành


động, hoạt động, việc làm, cách cư xử thường được dùng thay thế lẫn nhau
tùy trường hợp, tùy văn cảnh.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên, “Hành vi là toàn bộ
nói chung những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người
trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định", ở đây đề cập đến hoàn cảnh của sự
xuất hiện hành vi (tức là những tác động bên ngoài chủ thể) và hành vi ở đây
phải là những hành xử người khác có thể quan sát được [21, tr.424].
Theo X.L. Rubinstêin, “Hành vi là kết quả của hành động tích cực của
chủ thể đối với các đôi tượng chủ thể gặp trong một hoàn cảnh nào đó”. Hành
vi con người không còn đơn thuần là hành vi phản ứng mà thành hành vi tích
cực [11, tr. 166].
Còn theo tác giả Phạm Minh Hạc, hành vi là những biểu hiện bên ngoài
của hoạt động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích [12, tr.505].

Trong Tâm lí học xã hội thì hành vi được coi là “hành động hay ý định
hành động mà cá nhân sẽ ứng xử với đối tượng”. Khi nói đến hành vi người,
chúng ta hiểu đó “là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều
chỉnh bởi cấu trúc tâm lí bên trong của chủ thể” [13, tr.325].
Trong Từ điển Tâm lí học, tác giả Vũ Dũng định nghĩa hành vi như sau:
Hành vi là sự tác động qua lại giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh,
do tính tích cực bên ngoài (kích thích) và bên trong (nhu cầu) thúc đẩy. Thuật
ngữ hành vi dùng để chỉ hành động của các cá thể riêng biệt hay của nhóm,
loài (hành vi một chủng loại sự vật hay một nhóm xã hội) [3, tr. 259].
Tiếp thu những khái niệm và những quan niệm khúc nhau về hành vi,
theo chúng tôi hành vi là những biểu hiện ra bên ngoài nhưng lại thống nhất
với cấu trúc tâm lý bên tronq của nhân cách, là sự thống nhất giữa hình thức
bên ngoài và nội dung tâm lí bên trong. Hành vi bên ngoài chỉ là biểu hiện của
một đời sống tâm lí bên trong và được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lí bên trong
của nhân cách.
3.2. Khái niệm về hành vi văn hoá, hành vi văn hoá giao thông


Dưới góc độ Tâm lí học hoạt động, khi đề cập đến hành vi văn hoá thì
quan điểm của L.X. Vygotsky (1896 - 1934) với lí thuyết lịch sử - văn hóa
trong tâm lí học được trình bày trong tác phẩm Các công trình nghiên cứu lịch
sử hành vi (A.R. Luria là đồng tác giả) (1930). Ngày nay, gọi lí thuyết này là
Tâm lí học lịch sử - văn hoá được truyền bá rộng rãi ở Âu - Mĩ và nhiều nước
khác. Không nói đến nguồn gốc và nội dung văn hoá của tâm lí người, chỉ
nhấn mạnh khía cạnh trong công trình sáng tạo của hai tác giả về cơ chế tâm
lí của hành vi văn hoá: Hành vi văn hoá là hành vi bao giờ cũng có sự tham
gia của một thuộc tính hay quá trình tâm lí trong bán cầu đại não. Thuộc tính
hay quá trình tâm lí tham gia vào hành vi văn hoá giữ vai trò như một “công
cụ” tương tự như cộng cụ lao động trong hoạt động lao động tác động vào đối
tượng lao động thông qua “biểu tượng trong ý niệm”, như Mác đã mô tả qua

so sánh việc làm của con ong và lao động của nhà kiến trúc sư trong tác
phẩm vĩ đại “Tư bản” (1869). L.X. Vygotsky và A.R. Luria cũng quan niệm: Kĩ
xảo sáng chế và sử dụng công cụ lao động là tiền đề của toàn bộ phát triển
văn hoá của loài người; kĩ xảo ấy, quá trình sử dụng đó tạo nên các dấu hiệu
- công cụ tâm lí ở trong đầu làm cho hành vi, hành động của con người mang
tính gián tiếp. Hành vi văn hoá, ứng xử văn hoá là hành vi ứng xử bao giờ
cũng có sự tham gia của các chức năng tâm lí cấp cao, như chú ý có chủ
định, trí nhớ gián tiếp, tư duy, ngôn ngữ. Nói cách khác, cơ chế của các biểu
hiện văn hoá của con người là các chức năng tâm lí cấp cao. Đến năm 1949
ở Mĩ, L. White (1900 - 1975) trong tác phẩm lớn Khoa học về văn hóa: Nghiên
cứu con người và văn minh đã đánh dấu một mốc mới trong lí thuyết về cơ
chế tâm lí của hành vi văn hoá. Ông khẳng định: Các vật thể văn hoá là các
“biểu trưng”, văn hoá là sản phẩm của quá trình biểu trưng hoá [9, tr.187].
Từ quan điểm của các tác giả trên, những tri thức về giao thông mà nhà
trường truyền đạt cho học sinh phải giúp học sinh tạo nên các “dấu hiệu”
trong não - các “công cụ” tâm lí trong đầu óc làm cho các em có khả năng
tham gia giao thông một cách có văn hoá. Nói một cách đơn thuần nhất là
muốn hình thành ở học sinh hành vi văn hoá giao thông thì trước hết hình
thành trong tâm hồn các em những nhận thức, những vấn đề liên quan đến


văn hoá giao thông. Đó là cơ sở để học sinh có thể tiến hành hành động văn
hoá.

II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ HÀNH VI THAM GIA
GIAO THÔNG
Trong những năm gần đây, tai nạn giao thông cướp đi sinh mạng của
hàng chục ngàn người mỗi năm, kèm theo vài chục ngàn người bị thương tật.
Nguyên nhân sâu xa của những tổn thất đau xót này là do sai sót trong hành
vi ứng xử của một số khá lớn những người tham gia giao thông. Có những

hành vi xem ra có thể là nhỏ do phán đoán tình hình sai lầm, cũng có hành vi
do tính cẩu thả hoặc vô ý, mà trước đây nếu chuyển động ở tốc độ chậm thì
không sao, nhưng với tốc độ chuyển động ngày càng nâng cao thì tai họa và
hậu quả xảy ra là khó lường.
Điều then chốt để kiềm chế thương vong do tai nạn giao thông là phải
dùng các biện pháp thực sự làm thay đổi hành vi ứng xử của người tham gia
giao thông, nhất là của những người điều khiển các phương tiện có tính năng
tốc độ cao như ô tô, xe máy. Các biện pháp thiết thực nhằm giải quyết có hiệu
quả các nguyên nhân đó thì còn phải được nghiên cứu kĩ. Để ngăn chặn hiệu
quả các hành vi thiếu an toàn của người tham gia giao thông, cần phải xét kĩ
đến góc độ mối quan hệ của văn hoá trong việc định hướng hành vi tham gia
giao thông là như thế nào? Không thể trả lời câu hỏi này nếu chỉ hiểu văn hóa
theo nghĩa hẹp: chỉ là các hoạt động văn hoá. Văn hoá ở đây cần phải được
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu chúng
ta chấp nhận một định nghĩa rộng về văn hoá rằng văn hoá được xem là toàn
bộ các giá trị, niềm tin, truyền thống và phong tục,... tạo nên bản sắc và gắn
kết các thành viên trong cộng đồng với nhau thì sẽ dễ dàng nhận thấy rằng
văn hoá sẽ ảnh hưởng qua cách mà các cá nhân trong cộng đồng nghĩ và
hành động và cũng tác động mạnh mẽ đến cách ứng xử của cộng đồng. Đối
với những cộng đồng có quy mô nhỏ như trường học, công ti, xóm làng, nơi
mà bản sắc được xây dựng trên tinh thần hợp tác, hay đối với cộng đồng lớn
như một quốc gia, nơi mà các giá trị được các cá nhân chia sẻ có thể bao


gồm các niềm tin tôn giáo, tập quán xã hội, các giá trị truyền thống,... Trong
cả hai trường hợp đó, yếu tố văn hoá được kết tinh thành bản sắc, giá trị sẽ
hình thành diện mạo của cá nhân và do đó quy định hành vi ứng xử của họ,
kể cả hành vi tham gia giao thông.
Văn hoá có liên quan đến trình độ học vấn, nhưng trình độ học vấn
không đồng nhất với trình độ văn hoá. Trong cả một thời gian dài dưới thời

bao cấp, trong các mẫu hồ sơ lí lịch chỉ đề cập đến trình độ văn hoá và người
ta đã đồng nghĩa trình độ học vấn để ghi vào mục đó, còn gần đây vấn đề đã
đổi khác theo sự tiến bộ của nhận thức xã hội, thế nhưng khái niệm văn hoá
vẫn còn khá mập mờ đối với đại đa số những người tham gia giao thông.
Vì vậy, bản chất của văn hoá chính là ứng xử hay “thế ứng xử”. “Thế
ứng xử” ở đây phải được hiểu tổng thể gồm ứng xử giữa con người với con
người trong xã hội và ứng xử giữa con người với thiên nhiên và môi trường
xung quanh. Thế ứng xử giữa con người với con người thì còn tương đối dễ
hiểu với số đông, nhưng thế ứng xử với thiên nhiên thì nhiều người còn chưa
rõ, còn chủ quan coi thường, như trong lĩnh vực ứng xử với các con vật, sông
núi, cỏ cây... nhất là với những biểu hiện khác thường của thiên nhiên, thời
tiết. Tất cả những yếu tố này đều liên quan và tác động trực tiếp hay gián tiếp
đến môi trường giao thông, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an toàn giao
thông của một khu vực hay một quốc gia. Từ sau khi đất nước ta để xảy ra
hành vi phá rừng, tăng cường phá núi mở đường, làm thay đổi nhiều về địa
hình, địa mạo tự nhiên của khu vực đã gây tác động xấu làm xuất hiện nhiều
hơn các thảm hoạ môi trường như bão lụt, lũ quét, sụt đất, lốc xoáy, mưa
đá,... trên suốt dọc chiều dài đất nước, mà nguyên nhân chủ yếu là do các
hoạt động xây dựng yếu và thiếu về quy hoạch, xây dựng giao thông, thủy
điện bất hợp lí làm thay đổi đường phân thuỷ, dẫn đến thay đổi lưu vực dòng
chảy, gây mất cân bằng môi trường sinh thái. Quan hệ ứng xử giữa người với
người ngày càng có nhiều biểu hiện thực dụng, suy thoái về đạo đức, mất
dần những truyền thống lễ giáo tốt đẹp “kính trên, nhường dưới”, người ra
đường ngày càng loạn tâm, hiếu thắng, tranh giành quyết liệt cả những lợi ích


vật chất nhỏ mọn cho cá nhân. Quan hệ ứng xử trong giao thông được xác
định bởi một loạt các nhân tố sau đây, trong đó nhân tố con người là quan
trọng nhất:
- Trách nhiệm xã hội, ý thức tự giác đảm bảo an toàn của người tham

gia giao thông;
- Kiến thức hiểu biết, kĩ năng thực hành được đào tạo của người tham
gia giao thông;
- Nhận định về các sự cố rủi ro có thể xảy ra và hậu quả tiềm tàng của
nó nếu người tham gia giao thông có những ứng xử sai lầm;
- Nhận định của người tham gia giao thông về khả năng bị phát giác
hành vi vi phạm và bị trừng phạt nếu cố tình vi phạm;
- Phương tiện giao thông và khả năng đáp ứng các tính năng kĩ thuật
theo quy định;
- Môi trường, đường sá, cầu cống và hệ thống thiết bị điều khiển giao
thông.
Một khía cạnh khác cần đề cập, văn hoá không đồng nhất với trình độ
học vấn nhưng nó không thể tách rời yếu tố nhận thức của con người. Nhận
thức chính xác và phù hợp những vấn đề, yếu tố, cách cư xử, ứng phó,
những biểu hiện về mặt tình cảm, thái độ phù hợp với chuẩn mực và yêu cầu
mà xã hội đặt ra, đó cũng nằm trong yếu tố văn hoá. Cá nhân không thể tồn
tại nếu tách mình ra khỏi những chuẩn mực và quy định của cộng đồng xã
hội. Nếu tách mình và đi ngược lại với các yếu tố văn hoá mà xã hội công
nhận và phát triển thì sẽ rơi vào hiện trạng lệch chuẩn hành vi. Điều này cho
thấy rằng, nhận thức vấn đề đúng rất quan trọng, trước khi có văn hoá phải
nhận thức văn hoá là gì, những biểu hiện của văn hoá để từ đó điểu chỉnh
hành vi tham gia giao thông cho phù hợp với các tiêu chuẩn văn hoá ấy.
Nhưng một khi đã nhận thức được vấn đề và thể hiện thành những hành vi
văn hoá giao thông cụ thể thì chính giữ hành vi này tác động trở lại để có thể


×