Tải bản đầy đủ (.doc) (289 trang)

Quản Lý Hành Chánh Nhà Nước Và Quản Lý Ngành Giáo Dục Đào Tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.43 KB, 289 trang )

QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
QUẢN LÝ HÀNH CHÁNH NHÀ NƯỚC
VÀ QUẢN LÝ NGÀNH GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
Giáo trình dành cho sinh viên các trường sư phạm
Biên soạn theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quyết định số 33/2002/QĐ/BGD&DT
(Tái bản lần thứ năm)
PGS.TS Phạm Viết Vượng (Chủ biên)

LỜI NÓI ĐẦU
Thông tư Liên tịch số 24/2002/TTLT–BGD&ĐT–BTCCBCP ngày
29/4/2002 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ
(nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn việc xét tuyển dụng công chức, giáo viên phổ
thông, mầm non đã qui định từ năm 2002 trở đi:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường (khoa) sư phạm, đưa
nội dung kiến thức quản lí hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội
dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và đào tạo thành một học phần
của chương trình đào tạo giáo viên, học phần này có giá trị như các học phần
khác, là điều kiện để các trường làm căn cứ xét duyệt và cấp bằng tốt nghiệp
sư phạm.
2. Căn cứ vào chỉ tiêu biên chế của địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố quyết định việc tuyển dụng giáo viên phổ thông, mầm non
theo hai hình thức xét tuyển hoặc thi tuyển.
3. Trong trường hợp thi tuyển thì không thực hiện việc thi lại các nội
dung, kiến thức quản lí hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội
dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và đào tạo đối với những


người dự tuyển, đã hoàn thành học phần này trong các trường (khoa) sư
phạm mà chỉ tổ chức thi về khả năng giảng dạy của người dự tuyển.


Thực hiện Thông tư Liên tịch nói trên, ngày 22 tháng 7 năm 2002 Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình Quản lí hành
chính Nhà nước và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo theo Quyết định số
38/2002/QĐ–BGD&ĐT.
Học phần này có 2 đơn vị học trình gồm 5 chương:
– Các chương I, II, III: Quy định những nội dung áp dụng cho tất cả các
hệ đào tạo giáo viên.
– Chương IV: Quy định các trường (khoa) sư phạm căn cứ vào yêu cầu
hệ đào tạo của mình để cụ thể hoá nội dung giảng dạy cho phù hợp.
– Chương V: Quy định nội dung giảng dạy căn cứ vào tình hình thực
tiễn giáo dục ở mỗi địa phương.
Để có tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của cán bộ và
sinh viên các trường sư phạm, Viện Nghiên cứu Sư phạm – Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội tổ chức biên soạn giáo trình: Quản lí hành chính Nhà nước
và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo theo chương trình nói trên.
Giáo trình được biên soạn nhằm phục vụ rộng rãi các đối tượng của tất
cả các hệ đào tạo từ mầm non, tiểu học đến phổ thông trung học, nên đã cố
gắng phản ánh tối đa nội dung và yêu cầu của các hệ đào tạo trong phạm vi
thực tế giáo dục của cả nước.
Trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót, mong được
độc giả góp ý kiến để giáo trình ngày một hoàn chỉnh hơn.
PGS. TS Phạm Viết Vượng
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sư phạm
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC, QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM

I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc của nhà nước
Nguồn gốc của nhà nước là câu hỏi được đặt ra từ rất xa xưa, đã có
nhiều nhà triết học cố gắng tìm cách giải thích, nhưng do hạn chế về lịch sử
và thế giới quan, những giải thích này đều không đi vào bản chất xã hội của
quá trình hình thành nhà nước.
C Mác và F. Ănghen, với quan điểm duy vật lịch sử, là những người
đầu tiên chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc của nhà nước. Các
ông cho rằng nhà nước xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một
trình độ nhất định. Nhà nước không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận
động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn
tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập Chủ nghĩa Cộng sản
khoa học đã khẳng định: Trong xã hội nguyên thuỷ chưa từng tồn tại nhà
nước. Thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém, xã hội chưa có sự phân hoá
giai cấp, tồn tại các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc
trưởng, tù trưởng do các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra. Quyền lực của
người đứng đầu cơ quan quản lí xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức uy tín và
chức năng lãnh đạo.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, quản lí xã hội chưa mang tính
chính trị, người đứng đầu không phải là người cai trị. Họ không có đặc quyền,
đặc lợi cá nhân. Họ thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của
nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự
quản của nhân dân, mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn tồn tại
trong vòng trật tự.


Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động đã
giúp cho con người có thể sản xuất ra một lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều
hơn so với nhu cẩu tối thiểu đối với sự tồn tại của mình. Sự dư thừa sản

phẩm tương đối chính là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người có
quyền hành trong thị tộc bộ lạc, sự ham muốn chiếm đoạt làm của riêng và họ
đã sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây chính là
nguyên nhân thúc đầy sự phân hoá xã hội. Một khi các giai cấp xuất hiện thì
mối quan hệ bình đẳng trước đây đã bị đảo lộn, sự đối kháng giai cấp xuất
hiện và ngày càng phát triển tăng lên.
Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối kháng, lần đầu tiên xuất hiện trong
lịch sử loài người. Cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ là không những
họ tiêu diệt nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để điều đó không xảy ra, một cơ
quan đặc biệt ra đời đó là nhà nước – một thiết chế có tiền thân từ những tổ
chức phi chính trị trong xã hội thị tộc, bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng, giờ đây đã biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của một
giai cấp – giai cấp chủ nô.
2. Bản chất của nhà nước
Từ nguồn gốc xuất hiện của nhà nước, ta thấy nhà nước không phải là
cơ quan điều hoà mâu thuẫn các giai cấp đối kháng, mà ngược lại, sự ra đời
của nhà nước làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc hơn và không
thể điều hoà được. Trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì cuộc đấu
tranh này ngày càng trở lên gay gắt, chế độ nhân dân tự quản không còn phù
hợp, nó phải được thay thế bằng nhà nước.
Nhà nước ra đời làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật
tự”, duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này được quyền bóc lột giai cấp
khác. Do đó, nhà nước đương nhiên là do giai cấp thống trị, có thế lực kinh tế
lập ra. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nhờ có nhà nước, giai cấp chủ nô trở
thành giai cấp thống trị cả về chính trị.
Như vậy, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp đang thống trị về
kinh tế, nhằm bảo vệ trật tự đang có và đàn áp sự phản kháng của giai cấp


khác. “Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn

áp một giai cấp khác”(1). Luận điểm này của C. Mác đã làm rõ bản chất của
nhà nước.
Nhà nước có hai tính chất quan trọng là tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, nó thể hiện bản chất của nhà nước. Nhưng
với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng, nhằm duy trì trật tự và ổn
định xã hội, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bên cạnh việc chăm lo bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích
chung của xã hội, giải quyết những vấn đề mà đời sống cộng đồng, xã hội đặt
ra để ổn định trật tự xã hội, duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định về bản chất của nhà nước
như sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã
hội có giai cấp, là công cụ chuyên chính giai cấp, với các chức năng quản lí
xã hội đặc biệt, nhà nước vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa duy trì
trật tự xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Đặc trưng của nhà nước
Khi so sánh nhà nước với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản
lí các công việc chung của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thuỷ, cũng như
khi so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp cho thấy nhà nước
có những đặc trưng sau đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống thì nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa
bàn lãnh thổ nơi mà họ cư trú và được tổ chức thành các đơn vị hành chính.
Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lí của nhà nước tập trung
thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa nhà nước
với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trước đó.


Quyền lực nhà nước về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên
sinh sống trên địa bàn dân cư. Từ đó hình thành chủ quyền quốc gia. Chủ

quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên
nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước đã lập ra những cơ quan
hành chính và các lực lượng thuần tuý trấn áp như quân đội, cảnh sát vũ
trang, nhà tù… Những cơ quan cưỡng bức và cơ quan hành chính thực hiện
chức năng cai trị, buộc mọi người phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Khác với những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản
nguyên thủy thực hiện chức năng quản lí của mình bằng sức mạnh truyền
thống, đạo đức, uy tín, những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền
lực của mình bằng sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Nhà nước ban hành
pháp luật và sử dụng các thiết chế và công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp
thống trị được thực thi trong thực tế.
Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra,
nhưng chúng ngày càng thoát ly khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khoá để tạo nguồn ngân sách
nuôi bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm đông đảo viên chức và cả đội quân vũ trang
đông đảo – lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực hiện
chức năng quản lí nhà nước. Họ không thể tồn tại nếu không dựa vào nguồn
nhân sách bằng thu thuế.
Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách là đại biểu chính thức của
toàn xã hội để sự quản lí xã hội, do đó nhà nước cũng là tổ chức độc quyền
thu thuế.
4. Chức năng của nhà nước


Chức năng của nhà nước được thể hiện qua những hoạt động chủ yếu
của nhà nước, thể hiện trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được đặt ra
trước nhà nước, chức năng của nhà nước phản ánh bản chất của nhà nước.

Khi nghiên cứu tiếp cận nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta phân
chức năng của nhà nước thành các loại khác nhau.
a. Nếu tiếp cận nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị thì nhà nước có
hai chức năng là: chức năng công cụ thống trị giai cấp và chức năng xã hội
+ Chức năng công cụ thống trị giai cấp là chức năng duy trì và bảo vệ
sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Để bảo vệ quyền thống trị xã hội, giai
cấp cầm quyền sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp để trấn áp những chống đối
của các giai cấp khác.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng quản lí những hoạt
động chung của xã hội, đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong vòng
trật tự nằm dưới sự quản lí của nhà nước của giai cấp cầm quyền, cũng
nhằm thoả mãn những nhu cầu chung trong cộng đồng dân cư.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối
cả phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Mặt
khác, chức năng xã hội lại là cơ sở của sự thống trị chính trị, vì sự thống trị
chính trị chỉ có thể tồn tại khi nhà nước thực hiện được chức năng xã hội. Khi
xã hội không có giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội do xã hội
tự đảm nhiệm, tức là xã hội do nhân dân tự quản.
b. Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động của quyền lực, thì nhà nước có hai
chức năng: đối nội và đối ngoại
+ Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong nội bộ đất nước, như bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử
chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế, văn hoá theo lợi ích của
giai cấp cầm quyền.
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với
các quốc gia khác. Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ lãnh thổ, chủ


quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của quốc gia khi
lợi ích của quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.

Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với
nhau. Trong đó chức năng đối nội là chức năng chủ yếu vì nhà nước ra đời và
tồn tại do cơ cấu bên trong của mỗi quốc gia quy định và sự thống trị giai cấp
được thực hiện trước hết ở địa bàn quốc gia.
Chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, chức
năng đối ngoại luôn xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và
phục vụ cho chức năng đối nội. Song việc thực hiện tốt các chức năng đối nội
sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đối ngoại.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng
nhiều phương pháp hoạt động khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của
mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhà nước sử dụng các phương
pháp hoạt động khác nhau để thực hiện các chức năng của mình. Thông
thường nhà nước sử dụng hai phương pháp chính là giáo dục thuyết phục và
cưỡng chế. Cưỡng chế là phương pháp được các nhà nước bóc lột sử dụng
như phương pháp chủ yếu. Ngược lại, trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa
giáo dục thuyết phục được coi là phương pháp quan trọng, cưỡng chế chỉ
được sử dụng kết hợp ở một mức độ nhất định để đảm bảo cho việc quản lí
xã hội có hiệu quả.
5. Các kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm nói về bản chất và những dấu hiệu đặc
trưng của nhà nước. Cơ sở khoa học để xác định kiểu nhà nước là học thuyết
Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Theo C. Mác trong mỗi hình thái kinh
tế xã hội, tương ứng với một chế độ kinh tế có một kiểu nhà nước nhất định,
bởi vì nhà nước bị chi phối bởi hai yếu tố: kinh tế và quan hệ giai cấp.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã từng tồn tại các hình thái kinh tế xã
hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa – giai
đoạn thấp của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tương ứng với


các hình thái kinh tế xã hội đó đã tồn tại của các kiểu nhà nước: chủ nô,

phong kiến, tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có những đặc điểm
riêng, nhưng chúng có điểm chung là những kiểu nhà nước bóc lột, chúng tồn
tại trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà nước đó đều là
công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của
các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Kiểu
nhà nước bóc lột tồn tại trong những mâu thuẫn đối kháng, do đó sự thay thế
kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là một tất yếu
khách quan, thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước kiểu
mới, nó tự tiêu vong sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử và nhường chỗ cho
hình thức tổ chức và quản lí xã hội cao hơn – xã hội tự quản lí.
6. Hình thức nhà nước và chế độ chính trị
a. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
những phương thức thực hiện quyền lực ấy của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thức nhà nước: hình thức chính
thể, hình thức cấu trúc.
+ Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ
quan tối cao của nhà nước và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình
thức chính thể có các dạng cơ bản:
– Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà
nước tập trung toàn bộ (hay một phần) vào tay nhà vua (quốc vương, nữ
hoàng…) là người đứng đầu nhà nước và được chuyển giao theo nguyên tắc
thừa kế hay truyền ngôi. Trong thực tế tổ chức và hoạt động của chính thể
quân chủ lại được chia thành: chính the quân chủ tuyệt đối và chính thể quân
chủ hạn chế.


* Chính thể quân chủ tuyệt đối là hình thức nhà nước mà nhà vua –
người đứng đầu nhà nước một mình nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước

và có quyền lực vô hạn.
* Chính thể quân chủ hạn chế là hình thức nhà nước trong đó nhà vua
– người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạnh
đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa như: hội đồng cố vấn, nghị viện…
– Chính thể cộng hoà là hình thức nhà nước trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về một cơ quan được dân cư bầu ra trong một thời gian
nhất định, đó là quốc hội, nghị viện… Chính thể cộng hoà cũng có hai hình
thức biến dạng: cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc.
– Hình thức cấu trúc của nhà nước là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức của
các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa
các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương. Có hai hình thức cấu
trúc chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức nhà nước liên
bang.
* Nhà nước đơn nhất là nhà nước thống nhất có chủ quyền chung, có
cơ quan quyền lực và cơ quan quản lí thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
* Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai thành viên trở lên hợp
thành. Nhà nước liên bang có hai cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính.
Ngoài cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính chung cao nhất cho toàn
liên bang, mỗi thành viên lại có cơ quan quyền lực và hành chính của mình,
có chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang, đồng thời mỗi thành
viên còn có chủ quyền riêng nhất định.
Hình thức nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nhà
nước, tương quan lực lượng giữa các giai cấp và truyền thống lịch sử của đất
nước.
b. Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Sử dụng phương pháp
và thủ đoạn nào để thực hiện quyền lực nhà nước, một mặt phụ thuộc vào


bản chất của nhà nước, mặt khác phụ thuộc vào tương quan lực lượng đấu

tranh giai cấp ở từng nước và từng giai đoạn lịch sử quy định.
Nhìn chung giai cấp thống trị thường sử dung hai phương pháp chính là
dân chủ và phản dân chủ.
Những phương pháp dân chủ có nhiều loại và thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp dân chủ rộng rãi hay
dân chủ hạn chế…
Những phương pháp phản dân chủ thường được các nhà nước bóc lột
sử dụng ở những mức độ khác nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà
nước. Khi những phương pháp này đã phát triển đến đỉnh cao thì trở thành
những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính ta luôn có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại, phản ánh bản chất và mục đích của
nhà nước. Ở các nhà nước bóc lột trong một số trường hợp ba yếu tố này
không phù hợp với nhau. Thí dụ: hình thức chính thể là cộng hoà dân chủ
nhưng chế độ chính trị thực chất lại là phản dân chủ – điều này thường gặp ở
các nhà nước tư sản. Ở nhà nước xã hội chủ nghĩa ba yếu tố trên luôn phù
hợp với nhau, phản ánh đúng bản chất, chức năng của nhà nước kiểu mới.
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mỗi nước mà sự ra đời
cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới với những hình thức khác nhau,
song bản chất của nó như Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức
khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một
tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng là nền
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị chính trị



của giai cấp công nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về
chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống
trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi
ích của giai cấp bóc lột. Trái lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai
cấp công nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất
cả nhân dân lao động, xây dựng một xã hội mới – xã hội không còn người
bóc lột người.
Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản là cần thiết vì thời kỳ này còn tồn tại các giai cấp khác nhau.
Chuyên chính vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằng bạo lực đối với giai cấp
bóc lột, mà còn là một tổ chức thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công
nhân của mình. Vì vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công
nhân của nhà nước, mà còn là điều kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất
dân chủ rộng rãi của nhà nước đó. Bản chất giai cấp công nhân và bản chất
dân chủ là hai mặt thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước đặc biệt, nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà
nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện
và tồn tại nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của
nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải bằng con đường “xoá bỏ” mà bằng
con đường “tự tiêu vong” và muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu vong
phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của nhà nước xã
hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài.

II. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nhà nước là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị xã hội

chủ nghĩa


Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được hình thành trong quá trình
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
việt Nam. Nhà nước ra đời sau cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Đó là hệ
thống chính trị có tính chất dân chủ nhân dân, sau khi thực hiện thắng lợi
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, hệ thống chính trị đó chuyển sang làm
nhiệm vụ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo hệ thống chinh trị, lực
lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
là yêu cầu khách quan, là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho hệ thống chính trị
và nhà nước giữ đúng bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực
thuộc về nhân dân và bảo đảm cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam
theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là “cột trụ của hệ
thống chính trị”, là “công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Nhà nước vừa là
cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị – hành chính, vừa là tổ chức quản
lí văn hoá xã hội của nhân dân. Nhà nước thực hiện sự quản lí xã hội bằng
pháp luật và thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.
+ Các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị, các tổ chức xã hội
– chính trị, đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc xây dựng
thể chế chính trị, xây dựng và quản lí nhà nước tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và
mục đích của mình. Liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân, của cộng
đồng xã hội của ta là Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nới thể hiện ý
chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân.

Như vậy, hệ thống chính trị là một thể thống nhất, việc xây dựng và
hoàn thiện nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước nhất thiết phải đặt trong quan hệ với các


tổ chức khác của hệ thống chính trị. Việc đổi mới một cách căn bản tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải xác định rõ và giải
quyết các mối quan hệ sau đây:
+ Mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước: Đảng cộng sản là đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Đảng lãnh
đạo nhà nước tức là Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không phải là tổ chức
quyền lực chính trị mang tính pháp quyền, không phải là quyền lực nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối chủ trương chính sách của Đảng và
thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan nhà
nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
và pháp luật nhà nước. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật đối với toàn
xã hội, nhưng hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong quan hệ giữa nhà nước với các đoàn thể nhân dân và toàn thể
nhân dân: Nhà nước là tổ chức công quyền và thực thi quyền lực chính trị.
Nhưng nhà nước là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – nhà
nước của nhân dân, nhân dân không chỉ làm chủ bằng nhà nước (dân chủ đại
diện) mà còn bằng các tổ chức và hoạt động của các đoàn thể có tính chất tự
quản (dân chủ trực tiếp). Vì vậy, nhân dân là chủ thể của hệ thống chính trị và
những tổ chức đại diện của các tầng lớp nhân dân tuy không mang tính chất
quyền lực nhà nước nhưng có vị trí và vai trò quan trọng tạo thành “cơ sở
chính trị vững chắc của chính quyền nhân dân”.
2. Bản chất của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước có tính

giai cấp, nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật và nêu cao
vai trò của pháp chế.
Nhà nước yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân phải tôn trọng và tuân
thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc. Nhà


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân có bản
chất khác hẳn với bản chất nhà nước của giai cấp bóc lột. Điều này được quy
định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa
xã hội.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công
nhân được thể hiện bằng toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ
chế chính sách đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước.
Các hoạt động này đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân nhằm
từng bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân
tộc là thống nhất. Sự thống nhất bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau khi giành được chính
quyền thì nhân dân lao động trở thành người chủ của đất nước. Giai cấp công
nhân muốn tự giải phóng mình phải đồng thời giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội. Hơn nữa, khi chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được xác
lập, nhân dân là người làm chủ những tự liệu sản xuất chủ yếu đó thì đương
nhiên mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Vì vậy nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn
bó chặt chẽ với dân tộc, nhân dân. Điều này được quán triệt, được cụ thể
hoá, thể chế hoá và thực hiện trên mọi lĩnh vực mọi tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Cũng chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản
chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân mới là đại biểu cho lợi ích

chung của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Tính nhân dân của nhà nước ta thể hiện: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của ta là của dân, quyền lực thực sự ở “nơi dân” chính quyền do
nhân dân lập nên và nhân dân tham gia quản lí nhà nước. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
cán bộ công chức nhà nước là công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân.


Tính dân tộc của nhà nước thể hiện ở chỗ: Trong tổ chức và hoạt động
nhà nước ta kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc tốt đẹp
của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng
đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là
đường lối chiến lược và là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết
hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam
a. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản
lí xã hội
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Ở nước ta, thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay
đổi chủ thể quyền lực nhà nước. Nhân dân từ vị trí người nô lệ phụ thuộc bởi
chế độ thuộc địa nửa phong kiến trở thành người chủ đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp nước ta ghi nhận: “công dân có
quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với nhà nước
và địa phương, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (điều 53
Hiến pháp 1992). Đây là sự bảo đảm bằng pháp luật khả năng nhân dân tham

gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lí
cao nhất.
Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lí nhà nước
và quản lí xã hội qua việc ghi nhận quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội là cơ
quan đại diện cao nhất và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện ở
địa phương (điều 54). Ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và của các cá nhân trong bộ máy nhà


nước (điều 74). Những người làm việc trong cơ quan bảo vệ pháp luật làm
trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (điều 74).
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều
kiện và phương tiện để nhân dân tham gia vào quản lí nhà nước và quản lí xã
hội. Trong quá trình phát triển xã hội các chức năng quản lí ngày càng đơn
giản hơn và ngược lại trình độ dân trí ngày một nâng cao hơn, do vậy mọi
người đều có thể làm được nó không còn là chức năng riêng của một lớp
người đặc biệt nữa, chức năng quản lí sẽ được mọi người thay nhau đảm
nhiệm.
b. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nó được thể hiện trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước. Vai trò đó đã được ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất:
bản Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 (đều ở điều 4).
Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết thông qua việc xây dựng và hoàn
chỉnh cương lĩnh, chiến lược, định ra các chủ trương chính sách cho hoạt
động của nhà nước và toàn xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng

và tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng
xây dựng đường lối phù hợp với lợi ích của nhân dân, được nhân dân ủng hộ
và thực hiện. Như vậy, thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là
sự lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước tổ
chức bộ máy, bố trí cán bộ, thực hiện chức năng quản lí bằng những công cụ,
biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm
quyền nên Đảng ta lựa chọn những đảng viên ưu tú của mình tham gia vào


các cơ quan nhà nước trước hết là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
bằng con đường giới thiệu để nhân dân lựa chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân
chủ cũng là thước đo uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không “hoá thân thành nhà nước”, do vậy
việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lí của nhà
nước là yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng và đấu tranh
chống lại những quan điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nước, cần
phải cảnh giác trước bọn cơ hội và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ sự
lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lêmn, đưa đất nước đi chệch
khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được ghi ở điều 4 các bản
Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Nguyên tắc tập trung dân chủ chi phối tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Một nhà nước “của dân, do dân” được
thể hiện từ mục đích đến tổ chức hoạt động.
Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến
pháp bao gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực
hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án nhân
dân thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo nguyên

tắc tập trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan nguyên tắc tập trung dân chủ thể
hiện khác nhau.
Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng, các đại
biểu thường cân nhắc đến:
– Lợi ích của cả nước khi biểu quyết lựa chọn một phương án trong
nhiều phương án được đề xuất.
– Lợi ích của địa phương, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ
thể hiện ý chí của cả nước mà còn chú ý tới nguyện vọng của cử tri nơi đã
bầu ra họ.


Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu
quyết theo nguyên tắc đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt
của Quốc hội là thiểu số phục tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập
thể quyết định theo đa số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá
nhân của Thủ tướng Chính phủ - người quyết định những vấn đề trong điều
hành công việc thường xuyên của Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ
trong hoạt động của Chính phủ vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, vừa đảm
bảo sự quản lí của người đứng đầu Chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập
trung dân chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội
thẩm và các thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa
các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ quan điều tra v.v…
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực
quản lí của bộ máy nhà nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo
của các cơ quan trung ương cũng như ở địa phương.
d. Nguyên tắc pháp chế
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức
và hoạt động của nó phải tuân theo nguyên tắc pháp chế.

Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều
chỉnh các quan hệ xã hội làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân
thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước,
của các cơ quan đơn vị, tổ chức và đối với công dân. Khi nói tới một trật tự
pháp chế đòi hỏi phải có:
– Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân.


Như vậy, không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế,
nhưng pháp luật lại đóng vai trò tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi
vì pháp luật là thước đo, là tiêu chuẩn thẩm định trật tự xã hội và tình trạng
pháp chế cụ thể trong từng thời kỳ. Để nhận ra một xã hội có pháp chế trước
hết người ta xem xét pháp luật đã có hay chưa, có đầy đủ hay không? Pháp
luật được thực hiện hay chỉ là hình thức; tính xã hội của pháp luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Thứ nhất, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách
kịp thời và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống
nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để nhà nước hoạt động đảm bảo nguyên
tắc pháp chế, các văn bản luật và các văn bản pháp quy để thi hành luật (văn
bản dưới luật) phải được ban hành kịp thời và đồng bộ.
– Thứ hai, các cơ quan nhà nước được lập ra và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật quy định về địa vị pháp lí, quy mô và thẩm quyền.
Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xảy ra ở những nơi
mà tình trạng pháp chế bị vi phạm: khả năng thứ nhất là các hoạt động quản lí
vượt thẩm quyền được giao, khả năng thứ hai là buông lỏng, bỏ trống một số
lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao.
– Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước.

Nhà nước thay mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhưng nhà nước cũng bị
luật pháp điều chỉnh. Nghĩa là: nếu cơ quan nhà nước trong hoạt động phạm
sai lầm, vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó
trước pháp luật. Nhà nước vì vậy vừa là chủ thể của luật pháp nhưng cũng
vừa là đối tượng để luật pháp điều chỉnh. Đây là đòi hỏi sự tôn trọng của
nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của nhà nước ta, cũng
là yêu cầu rất quan trọng trong quản lí hành chính, trong hoạt động của các
cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thực hiện tốt các nguyên tắc


trên nhằm đảm bảo cho nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân và vì dân” trong tổ chức và hoạt động.
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta gồm có:
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Toà án
nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân.
a. Quốc hội
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến
pháp 1992); Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra bằng chế độ bầu cử phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; Quốc hội thống nhất mọi quyền
lực (thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định những chính sách về đối nội,
đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về

quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước.
Hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất của Quốc hội là các kỳ họp Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội về nguyên tắc cũng phải hoạt động thường xuyên trong cả
nhiệm kỳ, chịu sự giám sát và có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn bất cứ
lúc nào nếu tỏ ra không còn xứng đáng. Quốc hội có các Hội đồng và Ủy ban.
Trong điều kiện hiện nay ở các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội có một bộ
phận cán bộ làm việc theo chế độ chuyên trách còn phần lớn đại biểu Quốc
hội là kiêm nhiệm, phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Ở nước ta hiện nay, Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên nên Quốc
hội lập ra Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ


quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước
Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao một số quyền hạn theo quy
định của Hiến pháp như: quyền quyết định ra pháp lệnh do Quốc hội giao,
quyền trong thời gian Quốc hội không họp phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, các thành viên của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần
nhất; quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao trái với hiến pháp và luật… Quyền quyết định trong thời gian
Quốc hội không họp tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm
lược: quyền quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước “là người đứng đầu nhà nước thay mặt nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp
1992). Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước được quy định ở điều 103 Hiến pháp 1992, theo đó người đứng đầu

quốc gia là một cá nhân. Chủ tịch nước ký công bố các văn bản luật pháp
(của Quốc hội) và pháp lệnh (của Ủy ban thường vụ Quốc hội) nhưng Chủ
tịch nước có quyền đề nghị xem xét lại pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội và nếu không nhất trí thì trình ra Quốc hội quyết định. Chủ tịch nước
đề nghị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng chính phủ, Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch
nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cũng như
xét thấy cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Với quy
chế của Hiến pháp 1992 thiết chế Chủ tịch nước cùng với thiết chế Ủy ban
thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, vừa đảm bảo tính
tập thể trong việc quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước trong khi
Quốc hội không họp, vừa đảm bảo vị trí của người đứng đầu nhà nước.
c. Chính phủ


Theo quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất và phân công ba
quyền, thì Quốc hợi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và nắm quyền
lập pháp. Dưới quyền lực tối cao và thống nhất đó của Quốc hội là những cơ
quan quyền lực nhà nước về hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan
quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Chính phủ do Quốc hội bầu ra
trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp này Quốc hội bầu
Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và giao cho Thủ tướng
đề nghị danh sách các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để
Quốc hội phê chuẩn.
Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội vừa là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước và chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội. Đứng
đầu Chính phủ là Thủ tướng Chỉnh phủ.

Theo điều 112 Hiến pháp 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ,
thì thẩm quyền của Chính phủ bao gồm:
– Quyền kiến nghị lập pháp: Dự thảo các văn bản luật trình Quốc hội,
và dự thảo pháp lệnh trình bày Ban Thường vụ Quốc hội. Dự thảo kế hoạch
nhà nước, ngân sách, các chính sách lớn về đối nội, đối ngoại của nhà nước
trên cơ sở đường lối của Đảng để trình Quốc hội.
– Quyền lập quy: Ban hành các văn bản pháp quy có giá trị pháp lí
trong cả nước.
– Quyền quản lí và điều hành toàn bộ công việc của đất nước: Xây
dựng kinh tế, văn hoá, xã hội theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của
nhà nước và hệ thống pháp quy của Chính phủ.
– Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức cơ quan quản
lí nhà nước, thành lập các cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan giúp Thủ


tướng, lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chỉ
đạo việc tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương.
– Quyền hướng dẫn, kiểm tra hội đồng nhân dân các cấp.
Chính phủ hoạt động bằng các hình thức cơ bản sau:
Một là: Hoạt động tập thể là các phiên họp của Chính phủ.
Hai là: Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là
những người giúp Thủ tướng theo sự phân công của Thủ tướng, khi Thủ
tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt
lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Ba là: Hoạt động của Bộ trưởng với tư cách là thành viên của chính phủ
đứng đầu một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.
d. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức
thực hiện quyền tư pháp
– Cơ cấu tổ chức toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Toà

án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam (điều 127 – Hiến pháp 1992). Trong hệ thống toà án thì Toà án nhân dân
tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Có chức năng và quyền giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa
phương và Toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các
Toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo
cáo công việc trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Nguyên tắc hoạt động của Toà án là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (điều 130 – Hiến pháp 1992) và “Toà án
nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án xét xử tập thể
và quyết định theo đa số” (điều 131 – Hiến pháp 1992).


– Cơ cấu tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến
pháp “Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, thực hiện quyền công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất” (điều 137 – Hiến pháp 1992).
Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm minh, thống nhất,
Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức thành một hệ thống. Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu Sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên; các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, kiểm sát viên
nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu trách

nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không
họp thì chịu trách nhiệm báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ
tịch nước. Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách
nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa
phương và trả lời chất vấn của Hội đồng nhân dân.
e. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân
Hội đồng nhân dân địa phương là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương; đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên” (điều 118 – Hiến pháp 1992). Hội đồng nhân dân
địa phương phải chấp hành Hiến pháp, luật, các quy định và nhiệm vụ của
cấp trên giao cho và vận dụng phù hợp với điều kiện địa phương tự quyết
định những vấn đề thuộc quyền lợi của nhân dân địa phương trong phạm vi


×