Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Chỉ tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại số nước đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 74 trang )

RƯỜN

HỌ K NH Ế H NH PHỐ HỒ HÍ M NH
***

N UYỄN Ứ

H

Ú ANH

ÊU ÔN

K NH Ế

ĂN

SỐ NƯỚ

LUẬN ĂN H

ÔN

RƯỞN
NAM

SĨ K NH Ế

TP. Hồ hí Minh – Năm 2013



RƯỜN

HỌ K NH Ế H NH PHỐ HỒ HÍ M NH
***

N UYỄN Ứ

Ú ANH

H
ÊU ÔN
ĂN
RƯỞN
K NH Ế
SỐ NƯỚ
ÔN NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng.
Mã số: 60340201

LUẬN ĂN H

SĨ K NH Ế

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
P S. S N UYỄN HỒN

HẮN

P. Hồ hí Minh – Năm 2013



LỜ

AM

AN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện.
Đồng thời, Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ bài nghiên cứu nào. Các thông
tin, số liệu được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn trung thực.
Tp. HCM, ngày

tháng

năm 2013

ác giả

Nguyễn ức ú Anh


M
RAN

PH

LỜ

AM


M

L

L

ÌA
AN

ANH M

ẢN ,

ANH M

ỂU

HÌNH Ẽ, Ồ HỊ

PHẦN MỞ ẦU ........................................................................................................ 1
HƯƠN

1: CHI TIÊU CÔN

ĂN

RƯỞN

K NH Ế ..................... 4


1.1

Định nghĩa về chi tiêu công. .......................................................................... 4

1.2

Cơ cấu chi tiêu công. ..................................................................................... 5

1.3

Hai trường phái về chi tiêu công. .................................................................. 6

1.4

Mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế. ................................ 7

1.5

Một số mô hình nghiên cứu thực nghiệm. ..................................................... 9

1.6

Lý thuyết mô hình tăng trưởng tân cổ điển. ................................................ 12

1.7

Lý thuyết mô hình tăng trưởng nội sinh. ..................................................... 13

1.8


Mô hình được điều chỉnh ............................................................................. 14

HƯƠN

2: Ơ ẤU H

Ệ NAM

A

ÊU ÔN

ĂN

RƯỞN

K NH Ế

N 1994 – 2011. ................................................................. 18

2.1

Giới thiệu về kinh tế - xã hội Việt Nam. ..................................................... 18

2.2

Chi tiêu công tại Việt Nam .......................................................................... 20

2.2.1 Chi thường xuyên: .................................................................................... 20
2.2.2 Chi đầu tư. ................................................................................................ 22

2.2.4 Cơ cấu chi tiêu công ................................................................................ 25
HƯƠN

3: MÔ HÌNH

KẾ QUẢ N H ÊN ỨU ................................... 27

3.1

Phương pháp luận nghiên cứu: .................................................................... 27

3.2

Mô hình nghiên cứu. .................................................................................... 27


3.2.1 Kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian. ......................................... 27
3.2.2 Kiểm định Hasman test. ........................................................................... 29
3.4

Dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm. ................................................................ 30

3.5

Phân tích thực nghiệm ................................................................................. 35

3.5.1 Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ:.................................................. 35
3.5.2 Kiểm định Hausman test: ......................................................................... 37
3.6


Kết quả hồi quy............................................................................................ 39

HƯƠN

4: KẾ LUẬN

KHUYẾN N HỊ Ề MẶ

HÍNH S

H...... 41

4.1

Kết luận........................................................................................................ 41

4.2

Khuyến nghị: ............................................................................................... 42

4.2.1 Thiết lập một hệ thống tài chính công trung và dài hạn:.......................... 42
4.2.2 Tăng t tr ng và tăng cường kiểm soát chi thường xuyên. ...................... 42
4.2.3 Chi đầu tư phát triển. ................................................................................ 44
4.2.4 Tăng cường công tác quản lý đầu tư công. .............................................. 45
4.2.5 Tăng cường bền vững tài khoá. ................................................................ 47
TÀ L ỆU HAM KHẢ
PH L


ANH M


ẢN

ỂU

Bảng 3.1: Kỳ v ng tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc. ........................... 15
Bảng 3.2: Trị thống kê mô tả các biến dữ liệu giai đoạn 1994 – 2011 ..................... 35
Bảng 3.3: kiểm định nghiệm đơn vị bảng ADF với hằng số không có xu thế .......... 36
Bảng 3.4: So sánh mô hình OLS, FEM, REM .......................................................... 37


ANH M

HÌNH Ẽ, Ồ HỊ

Đồ thị 3.1: Ln(RGDP) bình quân đầu người 4 nước................................................. 31
Đồ thị 3.2: Chi đầu tư tư nhân trên NGDP ............................................................... 32
Đồ thị 3.3: Chi tiêu tiêu dùng tư nhân trên NGDP ................................................... 32
Đồ thị 3.4: Chi thường xuyên chính phủ trên NGDP ............................................... 33
Đồ thị 3.5: chi đầu tư chính phủ trên NGDP ............................................................ 33
Đồ thị 3.6: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên NGDP. .......................................... 34
Đồ thị 3.7: Quy mô chi tiêu công trên NGDP ........................................................... 34


1

PHẦN MỞ ẦU
1.

Lý do chọn đề tài.


Chi tiêu công không phải là một chủ đề mới nhưng có lẽ còn phải còn phải
tranh luận nhiều bởi những ý kiến trái chiều của các h c giả về thành phần và t
tr ng các thành phần của nó.
Chi tiêu chính phủ được kỳ v ng sẽ làm giảm tác động tiêu cực của thất bại thị
trường đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, phân bổ chi tiêu công với sự thiếu xem xét cho
các nhu cầu cấp bách của đất nước hay một cấu trúc bất hợp lý có thể tạo ra sự biến
dạng lớn hơn trong nền kinh tế và do đó có thể gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng có thể là tích cực đối với quốc
gia này nhưng có thể là hạn chế đối với quốc gia khác, tùy thuộc vào giai đoạn phát
triển và đặc thù riêng của mỗi quốc gia. Vì vậy rất cần thiết để nghiên cứu chi tiết
từng nước để đưa ra được xu hướng có lợi cho tăng trưởng, qua đó đánh giá được
mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng và có những bước đi đúng đắn.
Đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm xem xét mối quan hệ giữa chi tiêu công
và tăng trưởng kinh tế, nhưng chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về mối quan hệ
giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại các nước Đông Nam Á. Xuất phát từ đó,
tác giả quyết định ch n đề tài “Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại một số
nước ông Nam ” để nghiên cứu.
2.

Mục tiêu nghiên cứu.

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá các thành phần trong chi tiêu công
có tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế. Trong đó, các thành phần của chi
tiêu công được xem xét là chi đầu tư phát triển của Chính phủ và chi thường xuyên
của Chính phủ.
Các câu hỏi được đưa vào mô hình:


2


Mối quan hệ giữa các thành phần chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế diễn ra
như thế nào ở các nước Đông Nam Á?
Ngoài ra xem xét mối quan hệ giữa quy mô chi tiêu công và tăng trưởng kinh
tế diễn ra như thế nào?
3.

Phương pháp nghiên cứu.

Dựa trên mô hình tăng trưởng tân cổ điển, mô hình tăng trưởng nội sinh để
xây dựng hàm sản xuất có sự tham gia của Chính phủ.
Trong chi tiêu công, tác giả tách làm 2 thành phần gồm: chi đầu tư của Chính
phủ và chi thường xuyên của Chính phủ.
Bài nghiên cứu này tập trung vào thành phần chi tiêu của Chính phủ và tăng
trưởng kinh tế, nên tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu gồm: biến phụ thuộc là tốc
độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân. Biến độc lập: biến chính là chi đầu tư của
Chính phủ và chi thường xuyên của Chính phủ. Biến kiểm soát là tổng đầu tư tư
nhân, tổng tiêu dùng tư nhân và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Bài nghiên cứu phân tích cơ cấu chi tiêu công tại 4 nước Đông Nam Á, dữ
liệu thu thập ở dạng dữ liệu bảng. Vì thế sẽ sử dụng mô hình panel Fixed Effects
Model. Mô hình này cho phép khả năng phân tích chuỗi thời gian (thời kỳ khác
nhau) và dữ liệu chéo (các quốc gia khác nhau) cùng một lúc sau khi đã tiến hành
kiểm định Hausman test.
4.

ối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế tại 4 nước Đông Nam Á gồm Việt Nam,
Thailand, Indonesia và Malaysia trong khoảng thời gian từ năm 1994 đến năm 2011.
5.


ữ liệu nghiên cứu:

Các số liệu nghiên cứu được tổng hợp từ Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê,
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và quỹ tiền tệ thế giới (IMF).


3

6.

óng góp của luận văn:

Luận văn đưa ra xu hướng của hai thành phần chi tiêu công dựa trên nghiên
cứu thực nghiệm để đề xuất mô hình phù hợp áp dụng tại các nước Đông Nam Á.
Một cơ cấu trong chi tiêu công hợp lý và cơ chế kiểm soát chi tiêu công chặt
chẽ nhất định sẽ làm tăng tính hiệu quả trong chi tiêu công, và đây là bệ phóng cho
tăng trưởng bền vững cho từng nước.
Luận văn này là phần tham khảo cho những h c viên muốn tìm hiểu lĩnh vực
chi tiêu công và cho các đề tài nghiên cứu sâu hơn.
7.

Kết cấu luận văn.

Bố cục luận văn được chia làm 4 phần:
Chương 1: Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế.
Chương 2: Cơ cấu chi tiêu công tại Việt Nam giai đoạn 1994 – 2011.
Chương 3: Mô hình và kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Kết luận và khuyến nghị về mặt chính sách.



4

HƯƠN 1
H
1.1

ÊU ÔN

ĂN

RƯỞN K NH Ế

ịnh nghĩa về chi tiêu công.

Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của nhà nước nhằm thực hiện chức năng
vốn có của Nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa công, phục vụ lợi ích kinh tế - xã
hội cho cộng đồng (Dương Thị Bình Minh, 2005).
Theo quan điểm của các nhà kinh tế h c cổ điển, hoạt động của nhà nước
không mang lợi cho quốc gia về mặt kinh tế. Cho nên, chi tiêu công là những
khoảng chi có tính chất tiêu dùng. Vì vậy, cần phải giới hạn tối đa m i khoản chi
tiêu của Chính phủ để tránh làm lãng phí nguồn lực của đất nước.
Sự phát triển của xã hội trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại cho thấy
chi tiêu công không hoàn toàn mất đi mà trái lại nó tạo ra sự tái phân phối giữa các
khu vực trong nền kinh tế. Nhà nước đóng vai trò là trung tâm của quá trình tái phân
phối thu nhập; thông qua các khoản chi tiêu công, Nhà nước “bơm ra” lại cho xã hội
những khoản thu nhập đã lấy đi của xã hội từ các khoản nộp thuế bằng việc cung
cấp những hàng hóa công cần thiết mà khu vực tư không có khả năng cung cấp hoặc
cung cấp không hiệu quả. Với cơ chế này, Nhà nước thực hiện tái phân phối thu
nhập của xã hội công bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường,

đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định (Sử Đình Thành, 2005).
Chi tiêu công trực tiếp trả lời câu hỏi Chính phủ chi cho cái gì. Về cơ bản,
đánh giá chi tiêu công là việc đánh giá công tác hoạch định chính sách ngân sách và
xây dựng thể chế. Nó là công cụ chủ yếu trong việc phân tích các vấn đề của khu
vực công và lý giải tại sao khu vực công cần thiết phải tài trợ cho các hoạt động kinh
tế - xã hội. Mục đích của đánh giá chi tiêu công là giúp cho Chính phủ sử dụng hiệu
quả hơn các nguồn lực tài chính thông qua ưu tiên hóa các khoản chi tiêu nhằm đem
lại lợi ích thiết thực vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội (Sử Đình Thành & Bùi
Thị Mai Hoài, 2006)


5

1.2

ơ cấu chi tiêu công.

Căn cứ vào chức năng vĩ mô của nhà nước, chi tiêu công được chi cho các
hoạt động:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng
- Tòa án và Viện kiểm soát.
- Hệ thống quân đội và an ninh xã hội.
- Hệ thống giáo dục.
- Hệ thống an sinh xã hội.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
- Hệ thống quản lý hành chính nhà nước.
- Chi tiêu cho các chính sách đặc biệt (viện trợ nước ngoài, chính trị, …)
- Chi khác.
Cách phân loại này giúp cho Chính phủ thiết lập những chương trình hành
động một cách hợp lý, theo những mục đích hay lợi ích muốn đạt tới. Mặt khác,

cách phân loại này cho phép đo lường những biến chuyển về bản chất của những
chương trình và những biến đổi trong việc phân phối nguồn lực của chính phủ giữa
các chương trình và giữa các khu vực công quyền (Sử Đình Thành, 2006).
Căn cứ vào tính chất kinh tế, Chi tiêu công bao gồm: chi thường xuyên của
Chính phủ và chi đầu tư phát triển của Chính phủ.
+ hi thường xuyên:
Đây là nhóm chi phát sinh thường xuyên, cần thiết cho hoạt động của các đơn
vị khu vực công. Nó bao gồm các khoản chi lương, chi nghiệp vụ, chi quản lý cho
các hoạt động: giáo dục, y tế, văn hóa; chi hàng hóa để đáp ứng nhu cầu hoạt động
của bộ máy Nhà nước; chi chuyển giao như an sinh xã hội, bảo hiểm, các khoản trợ
cấp.


6

+ hi đầu tư phát triển:
Đây là nhóm chi gắn liền với chức năng kinh tế của Nhà nước. Nó bao gồm
các khoản chi xây dựng công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; Đầu tư, hỗ
trợ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước
(Sử Đình Thành, 2005).
1.3

Hai trường phái về chi tiêu công.

Đã từ lâu, mối quan hệ giữa chi tiêu của Chính phủ đối với mức độ phát triển
kinh tế đã nhận được sự chú ý rất lớn trong giới h c thuật. Cụ thể, phân tích về mối
quan hệ lâu dài giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế đã cho ra những kết
luận khác nhau. Nói chung, lý thuyết khác nhau về mối quan hệ có thể được tạm
chia thành hai trường phái kinh tế. Trường phái Keynes và Wagner. Sự tương phản
cơ bản cho lý thuyết này là quan hệ nhân quả. Quan điểm của Wagner (1883) về

tăng trưởng kinh tế là do quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế dẫn tới sự
gia tăng t lệ chi tiêu công. Ngược lại, quan điểm của Keynes giả định rằng chi tiêu
của Chính phủ là một công cụ của nhà nước trong việc thực hiện chính sách tài khóa
và với công cụ này ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Adolph Wagner (1835-1917) là người đầu tiên nhận ra mối tương quan
dương giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế, được đề cập trong các tài liệu
như Luật lệ Wagner (1883). Quan điểm này cho thấy vai trò của Chính phủ gia tăng
là do tăng trưởng kinh tế. Điều này được giải thích bởi nhu cầu ngày càng tăng cho
các chức năng quản lý và bảo vệ thì cần thiết để duy trì mức độ gia tăng sức mạnh
kinh tế. Có ba lý do để thể hiện điều này. Thứ nhất: nền kinh tế phát triển, khu vực
công sẽ tiến hành các chức năng hành chính và bảo vệ mà trước đây nó được thực
hiện bởi khu vực tư nhân. Thứ hai: khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu cung cấp hàng
hóa xã hội và văn hóa và dịch vụ tăng lên. Thứ ba, khi nền kinh tế phát triển, sự can
thiệp của Chính phủ lớn hơn là cần thiết để kiềm chế độc quyền tự nhiên và duy trì
tốt chức năng cho các lực lượng thị trường (Bird, 1971). Một số nghiên cứu như
Gandhi (1971), Gupta (1967) và Dritsakis và Adamopoulos (2004) xác nhận lý
thuyết này.


7

Quan điểm của Keynes lập luận rằng tăng trưởng kinh tế xảy ra là kết quả của
sự gia tăng chi tiêu khu vực công tăng. Trong bối cảnh này, chi tiêu chính phủ được
coi là một biến ngoại sinh độc lập và có thể được sử dụng như là một biến chính
sách hiệu quả để ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết này được xác nhận
bởi (Ansari et al, 1997).
1.4

Mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế.


Mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế đã trải qua nhiều cuộc
tranh cãi giữa các h c giả. Mà vai trò cốt lõi của Chính phủ là thực thi hai chức năng
cơ bản về đảm bảo an ninh quốc phòng và cung cấp hàng hóa công, nhằm để giảm
thiểu rủi ro về tội phạm, đảm bảo đời sống, giữ gìn tài sản người dân và bảo vệ lãnh
thổ quốc gia tránh sự xâm lược từ bên ngoài. Trong đó, việc cung cấp hàng hóa công
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: quốc phòng, giao thông, giáo dục, y tế, điện
lực… Do đó, các h c giả Abdullah (2000), Al-Yousif Y (2000) lập luận rằng tăng
chi tiêu công vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội sẽ khuyến khích tăng trưởng kinh tế và
tăng chi tiêu công vào lĩnh vực y tế và giáo dục sẽ làm tăng hiệu suất lao động, dẫn
đến gia tăng sản lượng quốc gia. Đồng thời, chi tiêu công vào cơ sở hạ tầng như
đường sá, truyền thông, điện lực… sẽ làm giảm chi phí sản xuất, làm tăng đầu ra.
Cùng quan điểm với ý kiến này còn có sự ủng hộ của các h c giả như Aschauer
(1989; Easterly và Rebelo (1993); Haque và Kim (2003); Odedokun (1997) và
Shioji (2001).
Về lý thuyết, mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế vẫn
còn mơ hồ, chưa đi đến sự thống nhất mà vẫn còn tranh luận gay gắt về vai trò chi
tiêu công đối với tăng trưởng kinh tế. Nổi bật là sự tranh luận về gánh nặng tài chính
mà Chính phủ áp đặt lên công chúng và nền kinh tế. Tiền đề cho sự tranh luận này
dựa trên hai khía cạnh: (i) ngân sách càng lớn thì gánh nặng tài chính áp đặt lên nền
kinh tế càng lớn; và (ii) khu vực tư sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn Chính phủ, nền
kinh tế trở nên đánh đổi giữa hai khu vực (Sử Đình Thành, 2012).


8

Mô hình lý thuyết về mối quan hệ giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh
tế như Barro (1990), Cashin (1995), Bajo-Rubio (2000), và Milbourne et al. (2003)
dự đoán rằng tác động tích cực dự kiến sẽ được tìm thấy trong nước có kích thước
của Chính phủ nhỏ hơn một ngưỡng nhất định, và có tác động tiêu cực ở những
nước mà kích thước của Chính phủ lớn hơn (Raul Alberto Chamorro-Narvaez,

2012).
Trong khi đó, các quan điểm ủng hộ Chính phủ lớn hơn tranh luận rằng, trong
nền kinh tế Chính phủ thực hiện các chương trình cung cấp hàng hóa công có giá trị,
từ đó tác động đến tổng sản lượng thông qua sự tác động với khu vực tư nhân. Phát
triển cơ sở hạ tầng, loại bỏ hay điều tiết các ngoại tác sẽ tạo điều kiện cho các hoạt
động kinh tế và cải thiện sự phân bổ nguồn lực, hoặc các khoản thanh toán chuyển
giao cũng giúp duy trì sự hài hòa của xã hội cũng như làm gia tăng hiệu suất lao
động. Các h c giả (Abdullah, 2000; Al - Yousif Y, 2000; Ranjan KD, 2008; Cooray
A, 2009) đã kết luận rằng sự mở rộng chi tiêu công đóng góp tích cực đến tăng
trưởng kinh tế.
Tuy nhiên các quan điểm ủng hộ chính phủ nhỏ hơn cho rằng Chính phủ càng
lớn thì càng nhiều nguồn lực bị phân phối bởi lực lượng chính trị hơn lực lượng thị
trường; có hai yếu tố chính cho thấy hiệu ứng tăng trưởng trở nên yếu ớt và tiêu cực.
Thứ nhất, càng mở rộng khu vực công để thực thi các chính sách tăng trưởng sẽ làm
thâm hụt ngân sách nhà nước trầm tr ng hơn. Trong nỗ lực gia tăng tài trợ chi tiêu
công, Chính phủ có thể lựa ch n gia tăng thuế và vay nợ. Đánh thuế cao sẽ gây tổn
thất xã hội bởi thuế tạo ra gánh nặng thu nhập và làm thay đổi hành vi sản xuất và
tiêu dùng. Vay nợ để tài trợ chi tiêu công có thể làm gia tăng lãi suất trên thị trường
vốn. Kết quả là vay nợ gây ra hiện tượng chèn lấn đầu tư khu vực tư nhân dẫn đến
thuế trong tương lai tăng cao. Thực tế có nhiều nghiên cứu đã minh chứng chi tiêu
công lớn lại gây ra hiệu ứng âm đối với tăng trưởng kinh tế (Laudau D, 1986; Barro
R, 1991; Engen EM, 1991; Folster S, 2001). Thứ hai, tiến trình chính trị ít năng
động hơn so với thị trường. Chi tiêu càng nhiều làm xói mòn tăng trưởng kinh tế bởi
sự chuyển giao thêm nguồn lực từ khu vực sử dụng hiệu quả nhất của nền kinh tế


9

sang khu vực Chính phủ - nơi sử dụng kém hiệu quả hơn. Vì Chính phủ thiếu thông
tin trong việc ra quyết định chính sách, đồng thời do các nhà chính trị theo đuổi

những lợi ích riêng nên ra quyết định chính sách phân bổ sai nguồn lực và gây cản
trở tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết của Kiskanen (1971) cho rằng đội ngũ công chức
trong khu vực công có khuynh hướng tối đa hóa ngân sách để tối đa hóa lợi ích riêng
của h . Hệ quả là, hàng hóa cung cấp không đáp ứng được nhu cầu tối ưu của xã hội
nhưng bộ máy khu vực công ngày càng phình to (Sử Đình Thành, 2012).
Như vậy, với các bằng chứng ở trên, có thể nói rằng có mối quan hệ giữa chi
tiêu công và tăng trưởng kinh tế, ngoài ra quy mô chi tiêu công cũng ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Nhưng làm thế nào để biết mối quan hệ đó là âm hay dương thì
cần đến các nghiên cứu thực nghiệm để xem xét. Và tiếp theo chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu về một số kết quả thực nghiệm được nghiên cứu thông qua mô hình kinh tế
lượng ở một nước cụ thể hoặc tập hợp một số nước cụ thể.
1.5

Một số mô hình nghiên cứu thực nghiệm.

 Tại Việt Nam:
Phạm Thế Anh (2008) nghiên cứu tại 61 tỉnh thành ở Việt Nam từ năm 2001
đến 2005 và sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS). Tác giả tách chi
tiêu công thành 5 lĩnh vực gồm nông lâm thủy sản, giao thông vận tải, giáo dục đào
tạo, y tế và ngành khác, mỗi lĩnh vực lại gồm có chi đầu tư và chi thường xuyên. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có sự chênh lệch khá lớn về tính hiệu quả giữa các khoản
chi ngân sách khác nhau đối với tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, thứ nhất, các khoản
chi đầu tư có hiệu ứng tích cực hơn so với các khoản chi thường xuyên trong các
ngành nông, lâm, thu sản, giáo dục & đào tạo, y tế, và ngành “khác”. Kết luận này
là ngược lại cho ngành giao thông vận tải. Thứ hai, cả chi đầu tư và thường
xuyên cho ngành giao thông vận tải, giáo dục & đào tạo, và ngành khác có
vai trò tích cực lớn hơn đối với tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn so với các khoản
chi tương ứng cho ngành nông, lâm, thu sản và ngành y tế. Kết quả này hàm ý



10

việc chuyển dịch cơ cấu chi tiêu giữa các ngành này có thể giúp thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Hoàng Thị Chinh Thon (2010) nghiên cứu tại 31 địa phương ở Việt Nam và
sử sụng phương pháp Pooled OLS để phân tích. Kết quả hồi quy được cho thấy
nguồn chi cho đầu tư cấp huyện cần được tăng cường, trong khi chi tiêu đầu tư cấp
tỉnh nên giảm để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Nguyễn Thị Hằng (2009) áp dụng mô hình lý thuyết của Barro ở Việt Nam
giai đoạn 2001 -2005 cho thấy: Nếu quy mô được tính bằng t lệ tổng chi ngân sách
(bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) trên GDP thì quy mô chi
ngân sách cao hơn tương đối so với t lệ tối ưu theo mô hình lý thuyết; nếu quy mô
được tính bằng t lệ chi đầu tư trên GDP thì quy mô lúc đó lại nhỏ hơn so với t lệ
tối ưu theo mô hình lý thuyết.
 Trên thế giới:
Barro (1991) nghiên cứu dữ liệu chéo tại 98 nước từ giai đoạn 1960 đến
1985, sử dụng phương pháp phân tích hồi quy bội với nhiều biến, trong đó có t lệ
tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người và t số giữa chi tiêu dùng Chính phủ
thực tế trên GDP thực tế. Barro đã đi đến kết luận rằng mối quan hệ tiêu cực giữa
tăng trưởng kinh tế và chi tiêu dùng Chính phủ.
Mesghena Yasin (2000) nghiên cứu tại các nước Châu Phi từ giai đoạn 1987
đến 1997, sử dụng dữ liệu bảng bằng kỹ thuật Fixed-effect và Ramdom-effect. Kết
quả là chi đầu tư Chính phủ có tác động dương và có ý nghĩa đến tăng trưởng kinh tế.
Jirawat Jaroensathapornkul (2010) nghiên cứu tại Thái Lan từ năm 1995 đến
năm 2004, sử dụng mô hình ECM. Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến chi tiêu
Chính phủ có quan hệ dài hạn với tăng trưởng kinh tế. Chi thường xuyên được xem
xét là không hiệu quả đối với tăng trưởng kinh tế, hướng đề xuất nên gia tăng t
tr ng chi đầu tư nghiên cứu và phát triển để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực.



11

Devarajan et al (1996) nghiên cứu tại 43 nước đang phát triển giai đoạn 1970
– 1990 bằng hàm hồi quy bội đã chỉ ra rằng việc gia tăng t tr ng chi thường xuyên
trên tổng chi tiêu công có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, và ngược lại
việc gia tăng chi đầu tư lại có tác động tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế.
Ghosh và Gregoriou (2008) nghiên cứu với số liệu từ 15 nước đang phát triển
từ năm 1972 đến 1999, sử dụng phương pháp GMM. Kết quả là những nước như
Brazil thì chi thường xuyên đóng vai trò chủ yếu trong tăng trưởng dài hạn, trong
khi các nước như Sudan thì chi thường xuyên đóng vai trò thứ yếu đối với tăng
trưởng kinh tế.
Khalifa H. Ghali (1997) nghiên cứu tại Saudi Arabia từ năm 1960 đến 1996,
sử dụng phương pháp VAR . Kết quả nghiên cứu cho thấy không có bằng chứng phù
hợp của các thành phần chi đầu tư và chi tiêu dùng trong chi tiêu công tác động tới
tăng trưởng kinh tế. Khuyến nghị của tác giả là Chính phủ nên giảm thiểu quy mô và
giới hạn vai trò Chính phủ để hạn chế thâm hụt ngân sách.
Peter (2003) nghiên cứu tại Thủy Điển từ năm 1960 đến 2001 bằng phương
pháp hồi quy OLS. Chi tiêu dùng Chính phủ có tác động âm đến tăng trưởng và chi
đầu tư Chính phủ có tác động dương đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cả 2 khoản
chi này đều không có ý nghĩa thống kê.
Adewara Sunday Olabisi (2012) nghiên cứu tại Nigeria từ năm 1960 đến
2008 bằng phương pháp VAR. nghiên cứu thực nghiệm cho thấy Chi tiêu cho Y tế
và nông nghiệp có tác động dương đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi chi tiêu cho
giáo dục và nước uống có tác động âm tới tăng trưởng kinh tế.
Raul Alberto Chamorro-Narvaez (2012) nghiên cứu tại 12 nước đang phát
triển tại Châu Mỹ Latin từ năm 1975 đến 2000 bằng phương pháp GMM cho thấy
rằng tác động của cả chi đầu tư và chi thường xuyên đều không có ý nghĩa thống kê
đến tăng trưởng kinh tế.
Easterly và Rebelo (1993) cũng rằng đầu tư vào giao thông vận tải và thông
tin liên lạc tương quan với sự phát triển khi sử dụng dữ liệu chéo của 100 quốc gia

trong giai đoạn 1970-1988, và một bảng dữ liệu bảng của 28 quốc gia trong cùng
thời gian.


12

Odedokun (1997) và Shioji (2001) có được một kết quả tương tự như h thấy
đầu tư công vào cơ sở hạ tầng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Odedokun tập trung vào
một mẫu của 48 nước đang phát triển trong thời kỳ 1970-1990, trong khi các nghiên
cứu sau này tập trung vào 48 tiểu bang ở Hoa Kỳ trong giai đoạn 1963-1997, và trên
46 tỉnh của Nhật Bản trong giai đoạn 1955-1999.
Hơn nữa, một số nghiên cứu thấy rằng các quốc gia có t tr ng cao trong
tổng đầu tư công có xu hướng tăng trưởng nhanh chóng (Landau, 1983; Aschauer
năm 1989; Knight et al, 1993; Cashin, 1995; Nazmi và Ramirez, 1997; Kocherlakota
và Yi, 1997; Kneller et al, 1999; Gupta et al, 2002; Clements et al, 2003; Ramirez và
Nazmi, 2003).
Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm thì không đồng nhất để để đưa ra kết
luận chính xác nhất và nó phụ thuộc vào các khía cạnh khác nhau như phương pháp
hay kỹ thuật sử dụng, giả định, quốc gia hoặc tập hợp các quốc gia được đưa vào
phân tích.
1.6

Lý thuyết mô hình tăng trưởng tân cổ điển.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển, còn được g i là mô hình tăng trưởng Solow
được xuất bản vào năm 1956 dựa trên tư tưởng thị trường tự do của lý thuyết tân cổ
điển kết hợp với một số giả định của mô hình Harrod-Domar. Nếu như mô hình
Harrod-Domar nguyên bản chỉ xét đến vai trò của vốn sản xuất (thông qua tiết kiệm
và đầu tư) đối với tăng trưởng kinh tế thì Solow đã đưa thêm nhân tố lao động và
tiến bộ công nghệ vào phương trình tăng trưởng. Mô hình này cho biết: tiết kiệm,

tăng dân số và tiến bộ công nghệ có ảnh hưởng như thế nào tới mức sản lượng và tốc
độ tăng trưởng của một nền kinh tế theo thời gian (Trần Th Đạt, 2010).
Dạng cơ bản của mô hình Solow đặt trong một nền kinh tế đóng, sản xuất
một loại hàng hóa nhờ sử dụng hai đầu vào là lao động và vốn. Mô hình này coi tiến
bộ công nghệ là cho trước và t lệ tiết kiệm mang tính ngoại sinh (Trần Th Đạt,
2010).


13

Mô hình tập trung vào bốn biến số: Y = AF(K, L)

(1.1)

-

Dòng sản lượng (Y)

-

Mức vốn (K)

-

Số lao động (L)

-

Tiến bộ công nghệ hay hiệu quả lao động (A). Theo phương trình (1.1) thì
A là trung lập Hicks, là trường hợp công nghệ không bao hàm trong các

yếu tố đầu vào (Trần Th Đạt, 2010).

1.7

Lý thuyết mô hình tăng trưởng nội sinh.

Mô hình tăng trưởng tân cổ điển vừa là một thành công lớn vừa là một thất
bại lớn. Thành công nằm ở chỗ mô hình này đã mô tả được những đặc điểm chủ yếu
của một hệ thống kinh tế thực tế ở các nước công nghệ tiên tiến. Vì thế mô hình tăng
trưởng tân cổ điển là cấu trúc cơ sở và được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu
kinh tế vĩ mô liên quan đến các nước phát triển. Thất bại là do nó không giải thích
được đầy đủ những thực tế của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát
triển. Trong dài hạn nền kinh tế không thể tăng mãi đầu vào được, đồng thời cũng
gặp phải lợi tức cận biên giảm dần nếu tiếp tục tăng thêm vốn vào quá trình sản
xuất. Do đó tiến bộ công nghệ là yếu tố duy nhất tác động đến tăng trưởng kinh tế,
mà nó lại được xác định một cách ngoại sinh (Trần Th Đạt, 2010).
Những hạn chế của mô hình tăng trưởng Solow là nguyên nhân dẫn đến sự ra
đời một loại mô hình tăng trưởng (vẫn dựa trên khuôn khổ lý thuyết tân cổ điển)
được g i là mô hình tăng trưởng nội sinh.
Cụm từ “tăng trưởng nội sinh” nguyên gốc được sử dụng để nói tới những mô
hình mà trong đó, những thay đổi của chính sách của Chính phủ có thể ảnh hưởng
tới tốc độ tăng trưởng trong dài hạn.
Mô hình tăng trưởng nội sinh được xác định để lấp vào mặt hạn chế của mô
hình tân cổ điển, đặc biệt là ở các nước đang phát triển bằng cách đưa năng suất có


14

được từ tích lũy vốn con người hay các hoạt động phát minh sáng chế tạo nên tăng
trưởng dài hạn. Ta thêm phương trình (1.1) yếu tố vốn con người (H):

Y = AF(K, L, H)

(1.2)

Thêm vào đó, nguồn vốn từ Chính phủ để thực hiện chức năng cơ bản như xây
dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư vào y tế, giáo dục, … là nhân tố trực tiếp đóng góp vào
năng suất kinh tế. Do đó, chúng ta đưa chi tiêu công (G) vào hàm sản xuất như sau:
Y = AF(K, L, H, G)

(1.3)

Khi Chính phủ mở cửa để hội nhập kinh tế, ta cũng có thể đưa thêm biến độ
mở cửa thương mại (Z). Ngoài ra, ta cũng có thể đưa thêm các biến quan sát khác để
giải thích sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế như tiêu dùng (C), … Lúc này phương
trình (1.3) được viết lại là:
Y = AF(K, L, H, G, Z, C, …)
1.8

(1.4)

Mô hình được điều chỉnh

Mô hình mà tác giả đưa ra nhấn mạnh đến các thành phần chi tiêu công, nên để
đơn giản hóa trong quá trình phân tích, các biến được đưa vào mô hình có dạng sau:
Y = F(K, C, G1, G2, Z)

(1.5)

Để xem xét cơ cấu chi tiêu công lên tăng trưởng kinh tế với 2 biến chính là
Chi thường xuyên (G1) và Chi đầu tư (G2) thì ta còn xem xét sự tương tác giữa tăng

trưởng kinh tế và các biến kiểm soát gồm: vốn đầu tư tư nhân (K), chi tiêu dùng tư
nhân (C) và độ mở cửa thương mại (Z).
Đối với phương trình (1.5), chúng ta đưa ra cơ sở lý thuyết để xác định dấu
của các biến độc lập tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các biến độc lập căn cứ vào
lý thuyết tổng cầu của Keyness.
Tài khoản quốc dân chia GDP thành bốn nhân tố lớn gồm Tiêu dùng tư nhân,
đầu tư tư nhân, chi tiêu chính phủ và xuất nhập khẩu ròng. Cả bốn nhân tố này gia
tăng thì tác động tích cực lên GDP (Nguyễn Văn Ng c, 2010).


15

Bảng 3.1: Kỳ v ng tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc.
Biến độc lập

Kỳ v ng

1. Đầu tư tư nhân (K)

+

2. Tiêu dùng tư nhân (C)

+

3. Chi thường xuyên (G1)

+/-

4. Chi đầu tư (G2)

5. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Z)

+
+/-

+ Tổng đầu tư tư nhân (K): bao gồm hàng hoá được mua để dùng trong tương
lai. Đầu tư cũng được chia làm 3 nhóm nhỏ: đầu tư cố định vào kinh doanh, đầu tư
cố định vào nhà ở và đầu tư vào hàng tồn kho. Đầu tư cố định vào kinh doanh là
việc mua sắm máy móc và thiết bị mới của doanh nghiệp. Đầu tư cố định vào nhà ở
là việc mua nhà mới của hộ gia đình và người cho thuê nhà. Đầu tư vào hàng tồn
kho là mức tăng tồn kho hàng hoá của doanh nghiệp (Nguyễn Văn Ng c, 2010).
Đầu tư tư nhân đóng 6 vai trò quan tr ng trong kinh tế vĩ mô như: đóng góp
nhu cầu hiện tại cho vốn hàng hóa; gia tăng cơ sở sản xuất, năng lực sản xuất trong
tương lai; hiện đại hóa quá trình sản xuất và cải thiện chi phí hiệu quả; giúp đạt năng
suất cao hơn; cho phép cải tiến sản phẩm mới; kết hợp giữa đổi mới và tiêu chuẩn
chất lượng. Đầu tư được tích lũy làm gia tăng nguồn vốn và do đó làm tăng sản xuất
trong tương lai. Đầu tư được kỳ v ng có tác động tích cực lên GDP (Piana, 2001).
+ Tiêu dùng tư nhân (C): bao gồm các khoản chi tiêu của các hộ gia đình để
mua hàng hoá và dịch vụ, g i tắt là hàng tiêu dùng. Nó được chia làm ba bộ phận
chủ yếu là hàng mau hỏng, hàng lâu bền và dịch vụ. Hàng mau hỏng là những hàng
hoá chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn như thực phẩm hay quần áo. Hàng lâu bền
bao gồm những hàng hoá tồn tại trong một thời gian dài như ô tô, ti vi. Dịch vụ bao
gồm các công việc phục vụ cho người tiêu dùng do cá nhân và doanh nghiệp thực
hiện như khám chữa bệnh, giáo dục, ngân hàng, tài chính, … (Nguyễn Văn Ng c,
2010).


16

Tiêu dùng là thành phần của GDP và tác động trực tiếp của tiêu dùng sẽ làm

GDP tăng lên với một lượng tương đương nếu các yếu tố khác không đổi. Do đó chi
tiêu dùng nhiều hơn được kỳ v ng làm tăng GDP (Piana, 2001).
+ Chi tiêu của Chính phủ là thành tố bao gồm tất cả các khoản chi tiêu của
các cơ quan chính quyền Chính phủ từ trung ương tới địa phương để mua hàng hoá
và dịch vụ (Nguyễn Văn Ng c, 2010).
Chi thường xuyên của Chính phủ (G1): Nếu m i thứ được giữ cố định, thì
tăng tiêu dùng chính phủ làm sẽ làm tăng GDP vì khoản này đóng góp vào nhu cầu
hiện tại, do đó được kỳ v ng có tác động tích cực đến GDP. Tuy nhiên, khoản chi
này cũng có thể tác động tiêu cực đến GDP khi nhu cầu gia tăng trong chi tiêu công
được tài trợ bởi thuế tăng thêm hoặc vay nợ, mà thuế tăng thêm dẫn tới thu nhập khả
dụng của tư nhân giảm sút và ảnh hưởng dây chuyền này làm giảm GDP (Piana,
2001).
Chi đầu tư của Chính phủ (G2): đầu tư vào các lĩnh vực chính thuộc chức
năng của Chính phủ như cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế ,… được kỳ v ng là có tác
động dương đến tăng trưởng kinh tế (Piana, 2001).
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (Z): hội nhập quốc tế nhiều hơn được kỳ
v ng có tác động tích cực tới GDP. Vì nền kinh tế càng hội nhập thì t lệ tăng
trưởng càng cao hơn so với nền kinh tế đóng. Tuy nhiên hội nhập ở mức độ cao
chưa hẳn có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế vì một nền kinh tế mà nhập
khẩu lớn hơn xuất khẩu thì xuất khẩu ròng sẽ âm và làm tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế.
Lấy đạo hàm phương trình (1.5) theo Y ta có:
dY/Y = (∂Y/∂K) dK/Y + (∂Y/∂C) dC/Y + (∂Y/∂G1) dG1/Y +
(∂Y/∂G2) dG2/Y + (∂Y/∂Z) dZ/Y
Trong đó:
∂Y/∂K: là thừa số biên của vốn.
∂Y/∂C: là thừa số biên của tiêu dùng.

(1.6)



17

∂Y/∂G1: là thừa số biên của chi thường xuyên của Chính phủ.
∂Y/∂G2: là thừa số biên của chi đầu tư của Chính phủ.
∂Y/∂Z: là thừa số biên của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
ổng kết chương 1:
Phần này trình bày ngắn g n và tổng quát nhất về chi tiêu công và thành phần
của chi tiêu công. Thành phần của chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên và chi
đầu tư phát triển của Chính phủ. Chi thường xuyên chiếm một t tr ng khá lớn trong
tổng chi ngân sách để trang trải cho m i hoạt động của Chính phủ từ chi hành chính,
sự nghiệp đến các khoản chi mang tính bảo vệ như chi cho quân đội, cảnh sát, …
Phần chi còn lại là chi đầu tư phát triển của Chính phủ, nhằm mục đích đầu tư vào
cơ sở hạ tầng để kích thích sự phát triển khu vực tư nhân. Tiếp đến, tác giả trình bày
những nền tảng cơ bản về chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế, kết quả thực nghiệm
của các h c giả trong và ngoài nước về mối quan hệ giữa các thành phần trong chi
tiêu công đến tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ sở để tác giả thiết kế nghiên cứu xem
liệu các thành phần trong chi tiêu công có tác động đến tăng trưởng kinh tế tại một
số nước Đông Nam Á không, và nếu có thì tác động đó như thế nào.


18

HƯƠN 2
Ơ ẤU H

ÊU ÔN
Ệ NAM

2.1.


ĂN
A

RƯỞN K NH Ế

N 1994 – 2011.

iới thiệu về kinh tế - xã hội iệt Nam.

Việt Nam thống nhất vào năm 1975. Đến năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực
hiện đường lối đổi mới với ba trụ cột: chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan tr ng; chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của
Việt Nam.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong trong thời kỳ đổi mới đã
mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã
tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu
quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các
quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng
nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa
xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ
ngày càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối...
Trong hơn 25 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu như
trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân
3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình
quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%,
thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu

Á. Từ năm 2001 đến năm 2007, tốc độ tăng GDP của Việt Nam luôn giữ ở mức cao
và ổn định. Năm 2003 tăng 7,3%; năm 2004 tăng 7,7%; năm 2005 tăng 8,4%; năm


×