Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tổng hợp bai lam mon Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.1 KB, 32 trang )

Câu 1. Phân tích những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới?
1. Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình,Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương sáng về
đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm mà không nói,
phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được bản chất sâu xa của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: "... Trước mặt quần chúng không phải
ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến
những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực thước
cho người ta bắt trước"(1).
Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí Minh
viết: "Nói thì phải làm" "Có lòng bày vẽ cho người" hay trong tác phẩm nâng cao đạo
đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần thực
hiện "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" .
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc biệt
trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, có
tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng
trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức đã trở thành
hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm gương đạo đức của
những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa thúc đẩy cho quá trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các
thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng, chiến sỹ thi
đua nhứng tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành, từng cấp, những tấm
gương "Người tốt việc tốt" rất gần gũi trong đời thường có ở mọi lúc mọi nơi mà chúng
ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh đã nói: "Người tốt, việc tốt nhiều
lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có" (2).
2. Xây đi đôi với chống:
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi đạo đức
luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải
chống cái phi đạo đức.


Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí Minh
căn dặn toàn Đảng: "Phải cương quyết quýet sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức
cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật"(3).
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội nhất là trong
những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức là phải khơi dạy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác nhận
thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, Cảm nhận thấy
1


sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm "Sung sướng vẻ vang nhất trong đời
này" tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự
tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều đó cũng chính là
điều mà Hồ Chí Minh nói về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến
trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại cái xấu,
cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Muốn
xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá nhân. Trong tác
phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quýet sạch chủ nghĩa cá nhân được công bố vào
ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã
mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức cách mạng phải quýet sạch
chủ nghĩa cá nhân.
3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường; xuyên
chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày đấy cũng là công việc phải kiên
trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo Người: "Đạo đức
cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày
mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng

trong"(4).
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với
cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cán nhân trở thành con người
ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức phải
gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy mới phân biệt
được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề
là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy,
thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện
trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương suốtđời tự rèn luyện và trở
thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu của người không
phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ
tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người Việt Nam
trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức
sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 77 năm
qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước Việt nam trong giai
đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, tác
phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là công việc quan trọng để mỗi chúng ta góp
sức mình vào việc xây dựng đất nước.
2


Thấm nhuẫn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Tại hội nghị TW 6(lần 2) khoá VIII
(tháng 2/1999) của Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cuộc vận động và xây dựng chỉnh
đốn Đảng. Trong đó Đảng đặc biệt chú trọng các nguyên tắc về xây dựng đạo đức mới
mà Hồ Chí Minh đã đưa ra.
Hội nghị TW6 khoá IX chỉ rõ: Cần phải tiếp tục thực hiện nghị quyết hội nghị lần

thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về giáo dục - đào tạo và nhấn mạnh phải
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học xã hội nhân văn, nhất là các môn Mác
- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đặc biệt là chỉ thị số 06/CT-TW ngày 7 tháng 11
năm 2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo dục trong
toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của Đảng, nhiệm vụ
đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng của
nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức cách mạng, từng bước quýet
sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê phán những
biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, giác ngộ
trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, đồng thời phát hiện những
nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những tấm gương sáng tiêu biểu để
nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu, lao động và học tập theo đạo đức Hồ
Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
Câu 2. Anh , chị phân tích những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam?
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ chuyển biến cách mạng toàn
diện, sâu sắc và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó nội dung của
thời kỳ này bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
Một là: đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội với các nội dung:
- Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sợ nền công nghiệp hiện đại,
khoa học - kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi tiềm
năng của đất nước, không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế để sản
xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và phát triển đất
nước.
- Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất trên cơ sở thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành

phần, trong đó kinh tế nhà nước phải không ngừng được củng cố và vươn lên giữ vai trò
chủ đạo, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, nhất là
trong lĩnh vực tài chính tín dụng, công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng.
3


Hai là: giữ vững và ổn định về chính trị.
- Từng bước củng cố, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân.
- Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội,
thực hiện các liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao về chính trị và
tinh thần trong xã hội.
- Xây dựng và phát triển tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc.
Ba là: xây dựng nền tư tưởng văn hóa.
- Cần phải làm cho thế giới quan Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước
chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện ngày càng rõ nét hơn
trong đạo đức, lối sống và suy nghĩ của mỗi người.
- Từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra những
điều kiện cho mọi người nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và trực tiếp sáng tạo ra những
giá trị văn hóa.
- Đấu tranh chống mọi tàn dư tư tưởng và văn hóa lạc hậu phản động do xã hội cũ
để lại hoặc do các thế lực thù địch nhập vào.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Bốn là: mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đây là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày
nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hóa quan hệ kinh tế
quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế

trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm...mở rộng
phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở tạo điều
kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới.
Năm là: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, phát
triển mạnh thị trường chứng khoán...Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế. Đổi mới
chính sách tài chính, tiền tệ và giá cả. Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.

4


Câu 3. Những nội dung cơ bản của tt HCM về cách mạng giải phóng dân tộc
Có 5 nội dung cơ bản là:
a) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con dường của
cách mạng vô sản
Thất bại của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX chứng tỏ những con đường giải phóng dân tộc đó không đáp ứng
được yêu cầu khách quan là giành độc lập dân tộc, tự do của dân tộc do lịc sử đặt ra.
Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu, của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mac –
Lênin và Người đã chọn con đường cách mạng vô sản. Heo Người thì:
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải kết hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản
b) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo
Các tổ chức cách mạng kiểu cũ ko thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến
thành công vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp cách mạng
khoa học, ko có cơ sở rộng rãi rong quần chúng. Vì vậy HCM khẳng định:
-


Muốn giải phóng dân tộc phải có Đảng cách mạng.

-

Đảng phải theo chủ nghĩa Mac – Lênin.

-

Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới

c) Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở
liên minh công – nông
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng
là toàn dân tộc:
- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải là việc
của một hai người: “cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động
viên toàn dân, vũ trang toàn dân”
- Trong khởi nghĩa vũ trang HCm đánh giá rất cao vai trò của nhân dân: “dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng ko chống lại được”
- Trong chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện. Lực lượng toàn dân là điều kiện
để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc để giải phóng dân tộc. Trong chiến tranh nhân
dân toàn dân, toàn diện thì lực lượng nòng cốt là liên minh công – nông. Giai cấp công
nhân phải đoàn kết rộng rãi với các giai cấp khác để huy động sự tham gia của mọi tầng
lớp, giai cấp.
d) Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

5



Đại hội VI quốc tế cộng sản cho rằng: “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc
giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản
tiên tiến”. Còn theo HCM thì cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đáu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc:
- Vận dụng lý luận của C.Mac Người đưa ra luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh
em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính anh em”.
- Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, dánh giá
đúng sức mạnh dân tộc từ năm 1921 NAQ đã cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Họ “có thể giúp đỡ”
cách mạng vô sản ở chính quốc giành được thắng lợi hoàn toàn.
e) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực,
kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân.
Con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo
lực. Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng với hai lực lượng là lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang với hai hình thức đấu tranh là đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang. Tùy theo tình hình cụ thể mà quyết định hình thức đấu tranh thích hợp:
- Trong con đường đấu tranh giành chính quyền ta sử dụng hình thức đấu tranh vũ
trang: khởi nghĩa mang tính chất quần chúng kết hợp với xây dựng căn cứ địa, xây dựng
lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trên cơ sở đó chủ động đón thời cơ, chớp thời
co phát động khởi nghĩa để giành thắng lợi.
- Trong chiến tranh cách mạng kết hợp một cách khéo léo và htích hợp hai lực
lượng, hai hình thức đấu tranh tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để
chiến thắng. Cụ thể là:
+ Lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vai trò quyết định.
+ Đấu tranh vũ trang ko tách biệt với đấu tranh vũ trang.
Câu 4. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân do dân và
vì dân, Từ đó liên hệ trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân khi đang ngồi trên ghế
nhà trường và sau khi ra trường?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân, vì dân

a) Nhà nước của dân
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là Nhà nước được tổ chức sao cho
tất cả quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân. Điều 1 Hiến Pháp năm 1946, do
Người làm Trưởng ban soạn thảo, đã khẳng định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

6


- Quyền lực trong nước là của toàn thể nhân dân, theo Hồ Chí Minh, phải được thể
hiện ở chỗ:
+ “Dân làm chủ và dân là chủ”. Dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật
không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”
(Điều 32 – Hiến pháp 1946).
+ Sau khi giành được chính quyền, dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra.
Đồng thời, dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Yêu cầu đối với Nhà nước của dân là:
+ Phải bằng mọi nỗ lực hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền
làm chủ của nhân dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra phải xác định rõ mình chỉ là thừa uỷ quyền
của dân, là “công bộc” của dân.
b) Nhà nước do dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước do dân là:
- Do dân lựa chọn, bầu ra rừ những đại biểu của mình vào các cơ quan quyền lực
của Nhà nước.
- Do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu hoạt động.
- Do dân phê bình, giám sát, xây dựng.

- Khi các cơ quan Nhà nước không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu Chính phủ làm hại dân
thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
c) Nhà nước vì dân
- Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng
của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do
dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân.
- Người cho rằng, trong Nhà nước vì dân, dân là chủ, là người được phục vụ thì cán
bộ nhà nước, từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân, làm đầy tớ cho dân. Để làm
tốt vai trò của mình, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu
cán bộ nhà nước phải:
+ “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh”.
+ Là người đầy tớ phục vụ nhân dân, cán bộ nhà nước phải đồng thời là người lãnh
đạo, người hướng dẫn nhân dân.
7


Câu 5. Phân tích những chuẩn mực cơ bản và nguyên tắc xây dựng đạo đức
con người mới ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh? Từ đó liên hệ với bản
thân?
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Hồ Chí Minh coi đạo đức có vị trí như thế nào trong mỗi con người?
- Nhấn mạnh vai trò của đạo đức nhưng Hồ Chí Minh có xem nhẹ tài năng không?
Theo Người, đức và tài có quan hệ với nhau như thế nào?
- Nền đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng đã phát huy vai trò như thế
nào trong cách mạng Việt Nam?
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại

mới
a) Trung với nước, hiếu với dân
- “Trung”, “hiếu” là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới.
Trong đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, “trung” là trung với vua, tức là
mọi người trung với một con người; còn “hiếu” là hiếu với cha mẹ. Ngược lại, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, “trung” là trung với nước, trung thành với lợi ích của đất nước, của
nhân dân; còn “hiếu” là hiếu với nhân dân, trong đó có cha mẹ mình.
- Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, để thể hiện lòng trung với nước, hiếu với dân,
mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, trên mọi lĩnh vực công tác và nghề nghiệp, phải
làm tốt công việc chuyên môn, hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình,
nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, sống gần gũi, gắn bó với những người xung quanh mình, thân ái, giúp đỡ những
người gặp khó khăn, hoạn nạn.
Đối với những người lãnh đạo, Hồ Chí Minh còn yêu cầu phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí. Thực hiện được những điều đó, nhất định người lãnh đạo sẽ được dân tin, dân
yêu, dân kính, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Hồ Chí Minh đã kế thừa những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
từ đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những nội
dung tốt đẹp, lọc bỏ những nội dung không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới
phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo con
đường XHCN.
- Người đã giải thích: + Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế
hoạch và đạt năng suất cao. Người nhấn mạnh: phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
8



+ Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước và của bản thân mình.
+ Liêm tức là trong sạch, không tham lam, không tham tiền tài, danh vọng, địa vị.
Liêm tức là “luông tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “Không xâm phạm một đồng
xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”
+ Chính nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, thấy việc đúng dù nhỏ cũng làm, thấy điều
sai dù nhỏ cũng tránh. Đối với mình, không tự cao tự đại, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa chữa điều giở của bản thân mình. Đối với người , không nịnh hót
người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết, thật thà; không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên, lên trước việc
nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, không sợ khó khăn, nguy hiểm.
+ Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, luôn vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng
bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí
công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
- Theo Hồ Chí Minh, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ
mật thiết với nhau:
+ Người coi cần và kiệm như hai chân của một con người, phải đi đôi với nhau.
+ Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của một con người, thiếu một đức thì
không thành người.
+ Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại, đã chí công vô tư,
một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng, thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính
và có được nhiều tính tốt khác.
c) Yêu thương, quý trọng con người
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu thương, quý trọng con người là tình cảm rộng
lớn giành cho mọi người dân trên trái đất, trước hết là những người cùng khổ, những
người lao động bị áp bức, bóc lột thuộc mọi chủng tộc và màu da.
- Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương, quý trọng con người phải được thể hiện ở:
+ Thể hiện bằng ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do,
mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
+ Thể hiện ở tất cả các mối quan hệ của cuộc sống (Quan hệ với bạn bè, đồng chí,

anh em, với mọi người bình thường trong cuộc sống hàng ngày,v.v..).
d) Tinh thần quốc tế trong sáng
- Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức không thể
thiếu được đối với mỗi Đảng cách mạng và mỗi người dân. Bản thân Người là một biểu
tượng cao đẹp của tinh thần quốc tế trong sáng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng có nội dung rộng lớn,
sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống
sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc, phân biệt chủng tộc; đó là tình thần đoàn kết với các
9


dõn tc, on kt vi nhõn dõn cỏc nc vỡ mc tiờu ho bỡnh, c lp dõn tc, dõn ch
v tin b xó hi.
3. Nhng nguyờn tc xõy dng o c mi
a) Núi i ụi vi lm, phi nờu gng v o c
Trong cuc sng ta vn thng gp nhng ngi núi nhiu lm ớt. Nhng ngi
nh vy s lm mt nim tin v s ng h ca ngi khỏc ginh cho mỡnh. Ngi cỏn
b, ng viờn núi nhiu lm ớt li cng nguy hi. H khụng nhng lm gim uy tớn ca
bn thõn m cũn lm nh hng n uy tớn ca ng, n lũng tin ca dõn vo ng.
- H Chớ Minh ó giỏo dc mi ngi núi i i vi lm, phi nờu gng v o
c v chớnh bn thõn ngi ó thc hin iu ú mt cỏch nghiờm tỳc v y nht.
Ngi ó núi, ó ha vic gỡ l lm cho k c vic ú, cho dự vic ú l to hay nh,
vic quc gia i s hay vic nh nht i thng.
- H Chớ Minh ht sc chỳ trng n vic nờu gng o c. Ngi ó phỏt hin
ra rng i vi cỏc dõn tc phng ụng, mt tm gng sng cú giỏ tr gp trm bi
din vn tuyờn truyn. Vỡ vy, theo Ngi, nờu gng phi tr thnh mt vic lm
thng xuyờn ca mi Ngi trong xó hi.
Trong gia ỡnh thỡ ú l tm gng ca ụng, b, cha, m i vi con chỏu, anh, ch
i vi em; trong nh trng thỡ ú l tm gng ca thy, cụ i vi hc trũ; trong
ng, Nh nc, cỏc on th thỡ ú l tm gng ca Ngi lónh o, ph trỏch vi

cỏc ng viờn, nhõn viờn, on viờn, ca cp trờn i vi cp di; trong xó hi thỡ ú l
tm gng ca ngi ny i vi ngi khỏc, mi ngi soi vo nhau hc tp nhau
nhng iu hay, vic tt.
b) Xõy i ụi vi chng
- Trong xõy dng o c mi, H Chớ Minh yờu cu xõy cỏi gỡ, chng cỏi gỡ?
- xõy dng o c mi mt cỏch hiu qu, H Chớ Minh yờu cu chỳng ta phi
lm gỡ?
c) Phi tu dng o c sut i
- Theo H Chớ Minh, o c cỏch mng do õu m cú?
- H Chớ Minh yờu cu vic tu dng, rốn luyn o c phi c thc hin
õu? Khi no?
Cõu 6. Phõn tớch nhng quan im ca HCM v i ũan kt dõn tc
a) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc, quyết định thành công
của cách mạng.
- HCM cho rằng đại đoàn kết không phải là khẩu hiệu nhất thời, không phảI là thủ
đoạn chính trị mà là t tởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt qua trình cách mạng Việt Nam,
là nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng.
- Trong nhận thức và thực tiễn cách mạng, HCM đã xây dựng thành một chiếm lợc
đại đoàn kết bao gồm: mục tiêu, phơng hớng, biện pháp, chủ trơng, chính sách cụ thể để
tập hợp lực lợng cách mạng. Tuy nhiên, trong từng hoàn cảnh cụ thể thì có thể và cần
10


thiết phải điều chỉnh chính sách và phơng pháp tâph hợp cho phù hợp với các đối tợng
khác nhau.
- Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng và sức mạnh của toàn dân một khi đã
đồng tâm, đồng sức, đồng chí hớng. Ngời đã khẳng định đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công..
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công

b) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
- Đại đoàn kết dân tộc là đòi hỏi khách quan của mọi tầng lớp nhân dân trong cuộc
đấu tranh để tự giải phóng, là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Dân là gốc, là lực lợng
tự giải phóng nên đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam.
- Đảng có nhiệm vụ tập hợp, hớng dẫn quần chúng; biến đòi hỏi khách quan thành
sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của con ngời.
c) Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
- Nói đến đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết cả mọi ngời không phân biệt giai cấp,
dân tộc, tôn giáo. Trong t tởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân nhân dân là mọi con dân
đất Việt là Mỗi một ngời con Rồng cháu tiên. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Ta đoàn
kết để đấu tranh cho độc lập và thống nhất của tổ quốc... Ai có tài, có đức, có sức lòng
phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ.
- Muốn có đại đoàn kết thì phải:
+ Có lòng bao dung, độ lợng với con ngời, nhất là những ngời lầm đờng lạc lối đã
hối cải, không định kiến, cách biệt họ; phải thật thà đoàn kết.
+ Tìm và giải quyết đúng mục tiêu chung, quyền lợi chung cho mọi ngời, mọi bộ
phận giai cấp thàn viên.
+ Phải xây dựng nên tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết.
d) Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức, đó là Mặt
trận dân tộc thống nhất, dới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đại đoàn kết không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở t tởng, ở những lời kêu gọi mà
phải trở thành chiến lợc cách mạng. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lợng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất. Cụ thể là:
+ Cả dân tộc (hay toàn dân) chỉ trở thành lực lợng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi đợc giác ngộ về con đờng cách mạng.
+ Quần chúng đợc tổ chức lại và hoạt động theo một đờng lối chính trị đúng đắn
mới tăng thêm sức mạnh tổng hợp.
+ Hình thức tổ chức phù hợp là mặt trận (tổ chức theo giới, theo ngành nghề hay
theo lứa tuổi...). Mặt trận thống nhất các tổ chức chính trị xã hội thành một khối.
- Để mặt trận thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn cần phải xây dựng

theo các nguyên tắc sau:
+ Mặt trận đợc xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông trí thức đặt dới sự
lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi
cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
11


+ Mặt trận phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thơng dân chủ, bảo đảm đoàn kết
ngày càng rộng rãi và bền vững.
+ Mặt trận là khối đoàn kết phải lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân
ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cờng đoàn kết.
+ Đảng Cộng Sản vừa là thành viên Mặt trận dân tộc thống nhất vừa là lực lợng lãnh
đạo mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi Đảng và
nhà nớc phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại.
- Trong thời gian qua khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông
- tầng lớp trí thức, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. sự tập
hợp nhân dân vào các mặt trận đoàn thể, các tổ chức xã hội bị hạn chế.
- Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cờng
khối đaị đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc vì mục tiêu CNXH.
Để vận dụng t tởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay cần chú ý:
- Phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh là động lực chủ yếu
đảm bảo thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính dáng
của các giai cấp tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và tập thể.

- Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân
lãnh đạo là các tổ chức đảng.
- Lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tơng đồng xoá boả mặc
cảm định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi
mở tin cậy lẫn nhau.
Cõu 7. S vn dung phỏt trin sỏng to ca ng ta vo cụng cuc xõy dng
ch ngha xó hi hin nay
Ngy nay, tỡnh hỡnh quc t din bin phc tp, thay i khú lng. Hũa bỡnh, hp
tỏc, phỏt trin vn l xu th ln. Nhng xung t v trang, tranh chp lónh th, khng b
quc t, xung t dõn tc, tụn giỏo...vn din ra nhiu ni. Cỏch mng khoa hc cụng
ngh v ton cu húa to c hi cho cỏc nuc phỏt trin, nhng cnh tranh, tranh ginh
th trung, cỏc ngun nguyờn liu, nng lng, ngun lc khoa hc cụng ngh gia cỏc
quc gia, cỏc tp on kinh t din ra quyt lit, t cỏc quc gia, nht l cỏc nc ang
v kộm phỏt trn trc nhng thỏch thc gay gt. trong nc, bờn cnh thng thun
li c bn do nhng thnh tu to ln v cú ý ngha lch s m ng v nhõn dõn ta ó
ginh c trong s nghip i mi lm tng th v lc, uy tớn quc t ca t nc,
chỳng ta cng ang ng trc nhng khú khn, thỏch thc to ln. Cht lng, hiu qu,
sc cnh tranh ca nn kinh t thp. C cu kinh t chuyn dch chm. Cỏc cõn i kinh
t ln, n nh kinh t v mụ cha tht vng chc. Mt s lnh vc xó hi cũn cú nhng
mt yu kộm nh giỏo dc, o to, khỏm cha bnh, chm súc sc khe nhõn dõn, qun
lý cỏc hot ng vn húa, bo m trt t an ton xó hi, an ton giao thụng; t tham
nhng, lóng phớ chm c khc phc, gõy bc xỳc trong nhõn dõn. Cỏc th lc thự
12


địch, cơ hội chính trị chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hết sức quyết liệt,
bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt
động “diễn biến hòa bình”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái
của cơ chế thị truờng tác động làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán
bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.

Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn và được lịch sử
phát triển của dân tộc ta gần một thế kỷ qua chứng minh rằng: chỉ có con đường xã hội
chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn
định, phồn vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn,
phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh
mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân
giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con nguời có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cải
biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới để
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; vì vậy, nhất định
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước phát triển, không thể đơn giản, chủ
quan, nóng vội.
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát triển các
quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương hướng và nhiệm vụ
cơ bản sau:
Một là: Phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừngnâng cao năng suất lao động xã
hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải thiện đời sống

nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất
là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh,
bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu
quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp một cách
toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông
13


thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng giao thông, điện, nuớc, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường,
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các
vùng đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cơ
chế thị truờng được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước
để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị
trường, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Ba là: Chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng, giữ
vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống

văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu
tranh chống tư tưởng, văn hoá hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Bốn là: Củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế
trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây
dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu
cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang
được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội;
chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất
nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới.
14


Sáu là: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả
các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi
chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi

với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để
tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân
dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các cam
kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và nhân
dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong
sạch, vững mạnh; có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế
kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm
phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Tám là: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng; thật sự là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự
chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong
sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu
cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo của

Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đây là nhân
tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay và trong
tương lai.
Câu 8. Vận dụng tư tưởng HCM về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào
công cuộc đổi mới hiện nay của Việt Nam
15


Trong những năm 1960 công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa thực
sự vận động theo đúng quy luật của nó (còn gọi là chủ nghĩa xã hội thời chiến) nên có
nhiều điều Hồ Chí Minh chưa kịp nghĩ, chưa kịp làm, chưa kịp tổng kết.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, với những bối cảnh trong nước và
quốc tế có nhiều thay đổi so với những năm 1960 ở Miền Bắc, nhưng những tư tưởng về
chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là cơ sở lý luận và
phương pháp luận chỉ đạo chúng ta tiếp tục suy nghĩ, sáng tạo để tìm ra những hình thức,
bước đi, cách làm trong tình hình mới. Điều này được thể hiện rõ trong nghị quyết của
các đại hội Đảng như: “cương lĩnh xây dựng đất nước 1991, văn kiện đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII (1996), IX (2001) và X (2006).
Cụ thể Đảng ta khẳng định như sau: Để tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, tiếp
tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên giành những thành tựu mới, Đảng ta đang kiên
trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm giải quyết tốt các vấn đề dưới đây:
Một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã kiên trì
phấn đấu và hy sinh, theo đuổi suốt hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bằng kinh nghiệm lịch sử cũng như thực tế của một dân tộc bị nô lệ nhân dân ta
hiểu rõ rằng: Muốn biến đổi tình hình nghèo nàn lạc hậu, sau khi giành độc lập nước ta
không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững

chắc cho độc lập dân tộc.
Hiện nay chúng ta thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ và văn minh”, cũng chính là để hoàn thành mục tiêu lý tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh và của nhân dân ta trong hoàn cảnh mới. Chúng ta kiên quyết thực hiện: Đổi mới
nhưng không đổi hướng, không thay đổi mục tiêu, chúng ta kiên định chính từ bài học
của Liên Xô và các nước Đông Âu để khẳng định con đường phát triển chủ nghĩa tư bản
dứt khoát không phải là con đường lựa chọn của
chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận thấy: Xây dựng chủ nghĩa xã hội. bỏ quá chế độ
phát triển TBCN là một sự nghiệp khó khăn và phức tạp.
Hiện nay chúng ta chấp nhận nền kinh tế thị trường (đây là điều mới với chúng ta
và chưa có tiền lệ trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế) nên phải chấp nhận cả mặt
tích cực và mặt tiêu cực của nó:
- Tích cực: Thông qua các quy luật kinh tế của nó để kích thích sản xuất phát triển,
làm cho đời sống kinh tế và con người trở nên năng động, nhộn nhịp, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đào thải những yếu tố bảo thủ, thụ động của kinh tế bao cấp
trước kia.

16


- Tiêu cực: Các tệ nạn như buôn gian bán lận, lừa đảo, chạy theo đồng tiền, tham
nhũng, ma tuý..., tình trạng phân hoá giàu nghèo, thất học, đói nghèo bị bóc lột ở một bộ
phận nhân dân lao động; sự thoái hoá biến chất ở một số bộ phận cán bộ có chức có
quyền...biến họ thành những phần tử phá hoại từ bên trong, thành chỗ dựa cho những âm
mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch từ bên ngoài.
Hai là: Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một
yêu cầu có tính quy luật đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã

hội chưa qua giai đoạn phát triển CNTB, nhằm tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa
học công nghệ, của giao lưu quốc tế để phát triển đất
nước. Để CNH-HĐH thành công cần phát huy tất cả nguồn lực bên trong và bên
ngoài, nhưng lấy nguồn lực bên trong là chủ yếu, cụ thể:
- Sử dụng tốt nguồn lực bên trong để sử dụng tốt và có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài.
- Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, tạo không khí dân chủ, cởi mở,
nâng cao dân trí để người dân có thể tham gia vào mọi công việc của nhà nước.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh, trên cơ sở của liên
minh công - nông - trí thức, đồng thời tranh thủ sự đóng góp, ủng hộ của tất cả
những ai tán thành đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
Ba là: Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đaị.
Công cuộc đổi mới của chúng ta diễn ra trong điều kiện thế giới đang có nhiều
thuận lợi, chúng ta phải tranh thủ tối đa mọi cơ hội tốt để thu hút vốn đầu tư, khai thác
và sử dụng tốt nhất các nguồn lực bên ngoài.
Tranh thủ đi đôi với khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc, cảnh
giác trước mọi âm mưu của các thế lực thù địch nước ngoài.
Giao lưu hội nhập đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hoá
dân tộc, đặc biệt cho thanh niên. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ
mới tạo ra bộ lọc tốt nhất để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời có sức đề
kháng tốt nhất chống lại mọi văn hoá độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào.
Bốn là: Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh
đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH
Xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng để Đảng
CSVN xứng đáng là tổ chức duy nhất lãnh đạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Phải làm trong sạch bộ máy nhà nước, những người thừa hành công vụ phải trong
sạch, liêm khiết, phải thực sự là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của dân như Bác Hồ
17



mong muốn. Bởi vì: dù Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách đúng đắn nhưng đội
ngũ cán bộ thừa hành không tận tuỵ, mẫn cán, lại hà lạm, sách nhiễu, tham nhũng, cửa
quyền...thì chẳng những họ không làm cho đường lối chính sách đó đi vào lòng dân, mà
có khi họ còn trở thành nguyên nhân trực tiếp gây nên những điểm nóng, có thể dẫn tới
bùng nổ xã hội không thể xem thường.
Để tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, muốn thế phải quyết tâm
làm trong sạch bộ máy nhà nước, loại trừ những phần tử thoái hoá biến chất, làm cho
nhà nước ta thực sự là “của dân, do dân, vì dân”, vì chính tệ quan liêu tham nhũng, mất
dân chủ, tác phong hách dịch, cửa quyền, lối sống xa hoa lãng phí, thiếu đạo đức...của
một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đã gây nên những vụ bất bình trong dân, làm đổ
vỡ niềm tin của quần chúng vào tương lai XHCN.
Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá cũng đang kích thích lòng ham muốn vật chất và
lối sống tiêu dùng trong một bộ phận cán bộ và nhân dân, do đó:
- Phải tiết kiệm trong mọi lĩnh vực, nếu không như Bác Hồ nói: “sản xuất mà không
tiết kiệm thì như gió vào nhà trống, không lại hoàn không”, như vậy tiết kiệm không chỉ
là một nếp sống đạo đức, nó là một chính sách kinh tế. Hơn nữa, tiết kiệm còn là vấn đề
chính trị: vì những kẻ xa hoa lãng phí đều dẫn đến xâm phạm tài sản của nhân dân.
=> Tóm lại: Nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn và triệt để về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những
thuận lợi và khó khăn mà chúng ta với quyết tâm chính trị cao phải phấn đấu vượt qua,
tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí.
Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, thực tiễn của công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo hơn 25 năm qua với những thành tựu hết
sức khả quan cho phép chúng ta khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự
đồng thuận của nhân dân, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất định kết
thúc thắng lợi.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết đồng thuận một lòng xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn minh trên con đường

quá độ đi lên CNXH. Làm cho vị thế của Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng trong
khu vực và trên thế giới. Dân tộc Việt Nam bước đến đài vinh quang, sánh vai cùng các
cường quốc năm châu trên thế giới./.
Câu 9. Trình bày khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh và làm rõ quá trình hình
thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tại Đại hội lần IX: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạngViệt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
18


độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kệm,
liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng
lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta”.
* Quá trình hình thành, phá triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.
cứu nước

Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng


- Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình và quê hương yêu nước, giàu truyền
thống cách mạng. Lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, tận mắt chứng
kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình cũng như
những thất bại của các cuộc đấu tranh của các vị tiền bối và đương thời… Tất cả đã thôi
thúc Người ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước.
- Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, quê hương và gia đình, với sự nhạy
bén đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những hạn chế của những người
đi trước, đã tự định ra cho mình một hướng đi mới: phải tìm hiểu cho rõ bản chất của
những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem
nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, sẽ trở về giúp đồng
bào mình.
2.
dân tộc

Thời kỳ từ năm 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng

- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Đó là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ, khác với các vị tiền bối là đi sang các nước
phương Đông.
- Cuộc hành trình qua nhiều thuộc địa, phụ thuộc, tư bản, đế quốc, chứng kiến cuộc
sống lầm than của nhân dân lao động những nơi đã đi qua và những bài học từ thời niên
thiếu, Nguyễn Ái Quốc không chỉ đau với nổi đau của dân tộc mà còn xót xa trước nổi
đau của các dân tộc khác. Từ đó Nguyễn Ái Quốc đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải
đoàn kết những người bị áp bức để đấu tranh cho nguyện vọng và quyền lợi chung.
- Cuộc hành trình qua nhiều nơi cũng đã rèn luyện Người trở thành một công dân
có đấy đủ phẩm chất, tư tưởng, tâm lý của giai cấp vô sản. Nhất là sau khi Người đọc sơ
thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận
cương của Lênnin đã giúp Người xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc.
3.
Nam


Thời kỳ 1921 – 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt
19


- Người viết nhiều bài báo tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc, khẳng
định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới.
- Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường cách mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930)… là sự phát triển và
tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc. Các tác phẩm đó nổi lên
mấy vấn đề sau:
+ Kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động toàn thế giới là chủ nghĩa thực dân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có
mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là cuộc “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi bọn
ngoại xâm, giành độc lập, tự do.
+ Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội, bị đế quốc, phong kiến bóc lột nặng nề. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn
giành được thắng lợi cần phải lôi cuốn, thu phục được nông dân đi theo, cần xây dựng
khối công nông liên minh làm động lực cho cách mạng, đồng thời cần tập hợp, thu phục
các giai cấp và tầng lớp khác.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng, Đảng Mác – Lênin lãnh
đạo.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải là việc của
một vài người.

4.
Thời kỳ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường
cách mạng
- Sau Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 – 1930, BCH TW lâm thời họp Hội nghị lần
thứ nhất vào tháng 10 – 1930. Tại hội nghị lần này, do ảnh hưởng cánh tả của Quốc tế
Cộng sản, BCH TW quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, ra
Nghị quyết thủ tiêu Cương lĩnh chính trị do Nguyễn Ái Quốc thông qua tại Hội Nghị
hợp nhất vì cho rằng đường lối của Nguyễn Ái Quốc vạch ra “chỉ lo đến việc phản đế,
mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”.
- Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại
những biểu hiện tả “khuynh” và biệt phái trong Đảng.
- Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Người là đúng đắn. Điều này được thể
hiện qua nghị quyết của Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản (7 - 1935) và sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong thời kỳ 1936 – 1939.
20


- Tại Hội nghị BCH TW lần thứ 8 (5 - 1941) dưới sự chủ trì của Người, BCH TW
Đảng Cộng sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Những tư tưởng và đường lối đúng đắn, sáng tạo theo quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc được đưa ra và thông qua tại Hội nghị này có ý nghĩa quyết định đến
chiều hướng phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta, đưa đến thắng lợi
của Cách mạng Tháng tám năm 1945 – khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ngày 02 – 9 – 1945.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám là sự khẳng định, kiểm chứng tính chân lý
các quan điểm của Hồ Chí Minh thể hiện trong Cương lĩnh của Đảng; đó là thắng lợi của
chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng, phát triển ngày càng sát, đúng với hoàn cảnh
Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ
Chí Minh.

5.
thiện

Thời kỳ 1945 – 1969: Tư tưởng Hồ Chí Mimh tiếp tục phát triển, hoàn

- Vừa mới ra đời, chính quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đứng trước vô
vàn khó khăn, thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh cách mạng Việt Nam đã vượt qua hiểm nguy, bước vào cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân pháp.
- Với đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, tư lực cánh sinh. Với vai trò là linh hồn của cuộc kháng chiến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân bảo vệ vững chắc thành quả của
Cách mạng Tháng tám, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp với sự
giúp sức cao độ của đế quốc Mỹ (1945 - 1954).
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là thắng lợi
của tư tưởng Hồ Chí Minh: vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, kết
hợp chặt chẽ và đúng đắn giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, vận
dụng sáng tạo nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, kế tục và phát triển kinh nghiệm chống xâm lược lâu đời của
cha ông…
- Sau hệp định Giơnevơ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, nhưng đất
nước bị chia cắt làm hai miền bởi âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đứng trước
hoàn cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính
của cách mạng, đề ra nhiệm vụ chiến lược cách mạng cho mỗi miền đó là: tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miềm
Nam. Trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định đối với
toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà;
còn cách mạng ở miền Nam giữa vai trò quyết định trực tiếp nhất đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trên cả nước.

Câu 10. Trình bày những đặc trưng cơ bản của CNXH
21


Trả lời:
1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa)
là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Cả mặt thực tế, cả lôgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, xã hội xã hội chủ
nghĩa là sự kế tiếp sau xã hội tư bản chủ nghĩa, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn
mà chủ nghĩa tư bản đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn
giữa yêu cầu xã hội hoá ngày càng tăng của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại hơn
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Do đó, lực lượng sản
xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa, khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có lực lượng sản xuất cao (như G7...)
thì lên xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một cuộc
cách mạng chính trị thành công. Khi đó chính trình độ lực lượng sản xuất đã phát triển
cao là một cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện chủ nghĩa
xã hội - cả quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
ở những nước xã hội chủ nghĩa "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" (như Việt Nam và
các nước khác) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Hiện
nay, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng vững chắc.
2. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội không xoá
bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất (còn các chế độ tư hữu khác: chế độ tư hữu chủ nô, phong kiến, xét trên toàn
cầu thì đã bị chủ nghĩa tư bản xoá bỏ trước đó rồi). Bởi vì chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại đa số nhân dân lao động,

đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai
cấp thống trị xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kết cấu xã hội còn đan xen nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội; cơ sở kinh tế quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế sản
xuất hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn tại những quan hệ kinh tế cụ thể như thuê
mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể còn bóc lột những cá nhân khác. Đó chỉ
là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả một chế độ xã hội, giai
cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng Cộng sản Nga, sau một
thời gian áp dụng "Chính sách cộng sản thời chiến" (trưng thu lương thực... do yêu cầu
phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá
độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ thực hiện "Chính sách kinh tế mới" (NEP)
với kinh tế hàng hoá 5 thành phần và tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại
sản phẩm. Đó là một đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của chủ nghĩa xã hội.
Việc xoá bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ quan duy ý chí
22


trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước xã hội chủ nghĩa là trái với quan điểm
của V.I. Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Xã hội xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới
Quá trình xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là một quá trình hoạt động tự giác
của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính từ bản chất và mục đích đó
mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay vẫn
còn giá trị: chủ nghĩa xã hội sẽ là một kiểu tổ chức lao động mới của bản thân nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội tiên phong của giai cấp
công nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những
đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp
chế xã hội chủ nghĩa, vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động
giác ngộ về vai trò làm chủ đích thực của mình trước xã hội, trước mọi công việc được

phân công ngày càng tốt hơn). Đương nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và
kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn
thiện chủ nghĩa xã hội.
4. Xã hội xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động nguyên tắc phân phối cơ bản nhất
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số
lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao
động của họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã
hội. Nguyên tắc phân phối này là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng
sản xuất trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những cơ sở của
công bằng xã hội ở giai đoạn này.
5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định rõ
bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản. Thực chất nhà nước
đó là do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân tổ chức ra. Thông qua nhà nước
là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện
quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân ngày càng tham gia
nhiều vào công việc nhà nước, theo V.I. Lênin, nhà nước chuyên chính vô sản (hay nhà
nước xã hội chủ nghĩa) không còn nguyên nghĩa như nhà nước của chủ nghĩa tư bản, mà
là "nhà nước nửa nhà nước", với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các
quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
6. Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức
bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản
để con người phát triển toàn diện
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về chính trị
suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh
thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức sống vật chất của nhân dân
23



còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là đã không còn chế độ tư hữu,
áp bức bất công với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế
khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng con người
và phát triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó không thể giải
phóng con người, không thực hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh xã
hội... Nói bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội, là nói trong điều kiện, giai đoạn xã hội vẫn
còn giai cấp, còn nhà nước, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể sản
xuất - kinh doanh (dù họ ở thành phần kinh tế nào...) trước pháp luật chung của nhà
nước; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, v.v..
Câu 11. Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng.
* Trung với nước, hiếu với dân
- "Trung" và "hiếu" vốn là những khái niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn
hẹp: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ", phản ánh bổn phận, trách nhiệm của dân đối với
vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đưa vào khái niệm cũ một nội dung mới, mang
tính cách mạng, đó là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu.
- Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
+ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách
mạng. Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện
mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Hiếu với dân là thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Muốn vậy phải
gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với
cán bộ lãnh đạo, Người yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên
quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
lao động cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,

không dựa dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí,
không phô trương, hình thức…”. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, nhưng phải kiên
quyết chống xa xỉ
+ Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm đến một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”…

24


+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình, không tự
cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, đối với việc thì việc công lên trên, lên trước
việc tư, tiệc nhà. Được giao nhiệm vụ thì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy
cũng phải làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
+ Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần
thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ,
lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với
tất cả mọi người.
+ Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán
bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách
mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
+ Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh
thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời
sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ,
để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
+ Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì

đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành
chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng.
* Thương yêu con người, sống có nghĩa tình.
- Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm
cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương con người, yêu thương nhân dân mà
chấp nhân mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho con người.
- Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng kiểu
tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản,
dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn,
vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người.
* Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
- Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng
sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội xã
hội chủ nghĩa.
- Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rộng lớn và sâu sắc. Đó
là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù,
bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng định: bốn phương vô sản
25


×