Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG KINH tế NHÀ nước VỮNG MẠNH NHÂN tố bảo đảm GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.51 KB, 20 trang )

XÂY DỰNG KINH TẾ NHÀ NƯỚC VỮNG MẠNH - NHÂN TỐ ĐẢM
BẢO GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo sự
nghiệp đổi mới, là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, là sự khẳng định dứt khoát đi theo con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội chứ không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hay
con đường thứ ba nào khác
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
phát triển kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức,
hoàn thiện tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về
sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần
thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta. Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Ðây là một đột phá lý luận rất sáng tạo của Ðảng
ta. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát
triển năng động. Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường
đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để
chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân
công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng
sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện
nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ


lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh
mẽ hơn.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế
thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó,


chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút
vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội,
phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng
trưởng GDP bình quân hằng năm cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
xã hội được tăng cường. Đời sống của nhân dân được cải thiện, nâng cao
tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển trong tương lai
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một trong những nội dung
quan trọng nhất của đường lối đổi mới của Đảng.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức
sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh động lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế - xã
hội; là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...
Cơ cấu thành phần kinh tế đã tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có
đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất
phong phú, đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những
con người ấy, cũng những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn
quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng
khan hiếm, người lao động không có việc làm… đã trở thành một đất nước
không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay
xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước
được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế – xã hội


sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính
sách nhằm không ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của
xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được

huy động.
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ
không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận
kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và
lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi
lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được mở
rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển.
Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ
thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm,
dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác định và
phát triển các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết,
hợp quy luật làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói
chung và tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng phát triển, phát
huy được mọi nguồn sức mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ
thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của đất nước thực sự năng
động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai,
rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo
hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện
ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội,
mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển,
làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý
vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".



Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất
quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ
mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học
và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành
pháp luật.

Kể từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, trong Văn kiện bắt
đầu xuất hiện thuật ngữ kinh tế nhà nước để chỉ một thành phần kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Thành phần kinh tế này
được sử dụng để thay thế cho tên gọi của thành phần kinh tế quốc doanh,
được xác định từ các Đại hội trước của đảng ta.Từ đó đến nay thuật ngữ
thành phần kinh tế nhà nước được sử dụng phổ biến ở nước ta
Từ trước đến nay, tất cả các nghị quyết của các Ðại hội Ðảng đều khẳng
định mạnh mẽ rằng kinh tế nhà nước phải giữ những vị trí then chốt, phải
đóng vai trò chủ đạo, coi đó là một định hướng xã hội chủ nghĩa quan trọng
bậc nhất của sự phát triển nền kinh tế nước ta. Dưới chế độ ta, làm yếu kinh
tế nhà nước là làm yếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong khi sử dụng sức
mạnh tổng hợp của tất cả các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước phải
luôn luôn là đội quân chủ lực trên mặt trận kinh tế, nhờ đó mà Nhà nước có
lực lượng vật chất quan trọng và quyết định nhất để luôn luôn đảm bảo ổn
định xã hội, bảo vệ Tổ quốc, độc lập tự chủ tiến lên. Nói vai trò kinh tế nhà
nước thì trước hết nói bộ phận sống động của nó là các doanh nghiệp nhà
nước. Chúng ta không phủ nhận tình trạng yếu kém, kinh doanh chưa hiệu
quả của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp nhà nước, song phải ra sức
chấn chỉnh, đổi mới, sắp xếp, củng cố theo hướng tiếp tục giữ vững và nâng
cao vị thế của kinh tế nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Cần hiểu đúng rằng các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, chứ

chúng ta không thể cào bằng vai trò của chúng. Chúng ta phải thực hiện
nghiêm túc điều Bác Hồ dạy: kinh tế quốc doanh là sở hữu của toàn dân, là
lợi ích của toàn dân (tức là lợi ích cao nhất), nó lãnh đạo nền kinh tế quốc
dân, cho nên Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên.
Tuy nhiên ở đây cần phải nhấn mạnh thêm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước không phải là kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế
quốc dân, mà là kinh tế nhà nước nắm lấy những lĩnh vực then chốt như kết
cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển.
Dĩ nhiên, chúng ta nhận thức rằng việc phát triển nhiều thành phần kinh tế
khác, rất đa dạng, phong phú, là một thành tựu to lớn trong công cuộc đổi
mới, đang góp phần làm cho đất nước giàu mạnh. Chúng ta tiếp tục có thái
độ và chính sách nhất quán, lâu dài phát triển các thành phần kinh tế đó. Với
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chúng ta coi tất cả các thành phần kinh
tế hợp thành sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Sự chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế - xã hội thể hiện nổi
bật trong chiều hướng tăng lên của sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa" đã
xác định :
Cần nhấn mạnh rằng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, trong khi nói những định hướng về chính sách kinh tế xã hội, đã chỉ ra rất đúng đắn về việc phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Cương lĩnh ghi: "Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần


theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn
có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên

nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh
doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định.
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình
được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần
kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết,
hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh".
Ðịnh hướng xã hội chủ nghĩa ở đây trước hết là có vai trò quản lý của Nhà
nước, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với thị trường

Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
bởi vì: giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là sự thể hiện định hướng
XHCN của nền kinh tế; kinh tế nhà nước là công cụ chủ yếu để Nhà nước
điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giữ được vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được những vị trí then chốt của nền kinh tế
bằng trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, chứ không phải dựa
vào bao cấp, "xin - cho" hay độc quyền kinh doanh. Đổi mới doanh nghiệp
nhà nước theo hướng cổ phần hóa là con đường chủ yếu nâng cao hiệu quả
kinh doanh, là cách thức để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày cảng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân của nước ta. Để có
được quan điểm sâu sắc như trên, Đảng ta đã trải qua một quá trình hoàn
thiện nhận thức về vai trò của kinh tế nhà nước.
Trong hơn 30 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống Xã hội
Chủ nghĩa (XHCN) đã đi theo hai con đường khác nhau. Các nước XHCN ở

châu Âu lựa chọn con đường quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Tuy nhiên, sự quay trở lại con đường TBCN đã không đem lại cho các nước
này kết quả mong muốn. Ngược lại, nhiều nước rơi vào tình trạng suy thoái,
hỗn loạn, bị xâu xé bởi các mâu thuẫn dân tộc và âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch. Việt Nam lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị
trường (KTTT) định hướng XHCN, tức là xây dựng nền kinh tế, trong đó
thừa nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai
trò chủ đạo, thừa nhận KTTT, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
theo “luật chơi” của các nước tư bản, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền
tảng chính trị của CNXH, trong đó mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền,
xây dựng nhà nước XHCN có khả năng thi hành các chính sách định hướng
XHCN. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện
mức sống và nâng cao vị thế quốc gia; trong giữ vững độc lập, tự chủ, tự
quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng định
sự lựa chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn.
Tuy nhiên để có được sự nhận thức rõ ràng về kinh tế nhà nước như hiện nay
là cả một quá trình hoàn thiện nhận thức của Đảng ta, bắt đầu từ ý tưởng về
xây dựng nền kinh tế XHCN dựa trên chế độ công hữu thuần khiết được xác
định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đến tư tưởng xây


dựng kinh tế XHCN dựa trên sở hữu toàn dân và tập thể của Đại hội Đảng
lần thứ III... Và, mặc dù đến Đại hội Đảng lần thứ VI, khi đưa ra chính sách
kinh tế nhiều thành phần vẫn chưa có khái niệm "kinh tế nhà nước", song
chủ trương của Đảng vẫn là "đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn
ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế khác"(1).
Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, đồng thời với nhận thức về chế độ đa dạng
hóa các loại hình sở hữu đã rõ nét hơn, Đảng đã chuyển sang quan điểm

công hữu giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa phân biệt rõ doanh nghiệp nhà
nước và kinh tế nhà nước, nên còn gọi chung sở hữu nhà nước dưới thuật
ngữ “kinh tế quốc doanh”. Cùng với đổi mới quan điểm về chế độ sở hữu,
Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về KTTT: "Đổi
mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; “Cơ
chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác”(2); và phân định rõ phạm vi quản lý
của Nhà nước và phạm vi tác động của cơ chế thị trường.
Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng định rõ ràng mục tiêu vận
hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái
niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: "Kinh tế nhà
nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành
nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân


chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn
tại phổ biến"(3). Đại hội VIII đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các
thành phần kinh tế khác, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành
cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh
tế hợp tác dần trở thành nền tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng
lần thứ VIII.
Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT định hướng
XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng: " Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN"(4). Sự khẳng định mô hình KTTT định hướng XHCN là
mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là,
khẳng định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai
là, xác định rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà
nước không những thực thi vai trò chính trị mang bản chất XHCN, mà còn
là một thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng
của chế độ kinh tế mới. Đồng thời, Đại hội IX cũng phân định kinh tế nhà
nước có nội hàm rộng lớn hơn so với doanh nghiệp nhà nước, phân định sở
hữu, thành phần và hình thức tổ chức kinh doanh, phân định quyền chủ sở
hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Với
việc chính thức hoá các đặc điểm nêu trên, Đại hội IX đã đưa ra quan điểm
mới về thành phần kinh tế nhà nước. Thứ nhất, thành phần kinh tế nhà nước
dựa trên chế độ sở hữu nhà nước; thứ hai, sở hữu nhà nước có thể nằm trong
tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác như ngân sách nhà
nước, tài sản công…; thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu nhà nước


hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lý của Nhà nước,
cho doanh nghiệp nhà nước ...thì Nhà nước mới có thể định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế…, tức thực thi vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX một lần nữa lại
khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền tảng của chế độ kinh tế XHCN,
nhưng quá trình hình thành nền kinh tế XHCN phải dần dần, trong đó cần
phát huy tối đa khả năng sản xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây
dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế của đất nước, sự nhận thức về
tổ chức kinh tế nhà nước của Đảng ngày càng hoàn thiện, thể hiện rất rõ nét
tại Đại hội Đảng lần thứ X dưới ba khía cạnh:
Thứ nhất, Đại hội X của Đảng đã phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần

kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Khi nói chế độ sở hữu là
nói về quyền của các chủ thể đối với tài sản nằm trong cơ cấu của cải xã hội.
Chế độ sở hữu của nước ta gồm ba loại: toàn dân, tập thể, tư nhân. Như vậy,
lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận nền kinh tế quá độ của nước ta là nền kinh tế
hỗn hợp, gồm nhiều loại hình sở hữu, mỗi chế độ sở hữu đều là yếu tố hợp
thành chế độ kinh tế chung.
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế
dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở hữu nhà
nước. Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu chung của một nhóm, một
tập đoàn người, một cộng đồng dân cư nhất định. Thành phần kinh tế tư
nhân dựa trên sở hữu của tư nhân. Đại hội lần thứ X chỉ rõ hai thành phần


kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên sở hữu
hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân. Tuy nhiên, ở đây không
thể gọi nó là thành phần kinh tế nhà nước vì nó không hoạt động trực tiếp vì
lợi ích toàn dân, cũng không thể gọi nó là thành phần kinh tế tư bản tư nhân
vì nó chịu sự chi phối mang tính XHCN của Nhà nước. Ngoài ra, cần thiết
phải tách thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi thành phần
kinh tế tư nhân, nhấn mạnh tính đặc thù của thành phần kinh tế này ở chỗ nó
chịu sự chi phối của nước chủ đầu tư. Như vậy, thành phần kinh tế không chỉ
bao hàm giác độ sở hữu, mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh hợp
tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định.
Thành phần kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước,
mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt
động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch
định chính sách đúng đắn của Nhà nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống
doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý
của Nhà nước. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước đã được hiểu tổng hợp

hơn so với các kỳ Đại hội Đảng trước đây.
Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới
một hình thức nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản
xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác
nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là
công cụ trong tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục
vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ X nhấn
mạnh tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình
thức doanh nghiệp phổ biến. Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ
chức đại diện cho chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế phát huy vai trò của


mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh
nghiệp, doanh nhân trong phát triển kinh tế và tôn vinh những doanh nhân
có tài, có đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc. Cùng với chính
sách cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và quyết định của Nhà
nước coi ngày 13 - 10 hàng năm là ngày doanh nhân, Đảng, Nhà nước ta đã
chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân nói chung,
doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.
Thứ hai, Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định lại vai trò chủ đạo, nền tảng
trong chế độ kinh tế XHCN của kinh tế nhà nước: “Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và
điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác
cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân" (5). Mặc dù khẳng định
lại quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhưng Đại hội Đảng lần thứ X cũng
làm rõ nội hàm của khái niệm chủ đạo của kinh tế nhà nước: Một là, kinh tế
nhà nước là lực lượng vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh
tế quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh đằng sau các chính sách
điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của kinh tế nhà nước nhằm để tạo

môi trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho
doanh nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng định lại một lần nữa kinh tế nhà nước
có nội hàm rộng hơn doanh nghiệp nhà nước, hay nói cách khác, doanh
nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước.
Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng
tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành


mạnh”(6) Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không
phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về
quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội
trước đây. Hơn nữa, Đại hội chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà
nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch, cạnh tranh thực
sự, xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất, kinh doanh và buộc các doanh
nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại. Nói cách khác,
Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tồn tại ở những
nơi nó có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả kinh tế quốc dân, nghĩa là tính ưu
việt của quan hệ sản xuất XHCN phải được chứng minh trong môi trường
bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác. Đại hội cũng nêu rõ các điều kiện
để doanh nghiệp nhà nước có thể phát huy ưu thế của mình, đó là doanh
nghiệp nhà nước được giao quyền tài sản, được thực sự tự chủ, tự chịu trách
nhiệm theo nguyên tắc thị trường và pháp luật, tạo cơ chế gắn trách nhiệm
và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước với hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp, tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện có…
Như vậy, mặc dù vẫn nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng
cách thức chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở Đại hội Đảng lần thứ X
có nhiều điểm mới so với trước.
Thứ ba, Đại hội Đảng lần thứ X đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh

nghiệp nhà nước nói riêng trong môi trường thị trường đồng bộ, cạnh tranh
và hội nhập. Có nghĩa là, kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà
nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường
KTTT, chấp nhận luật chơi của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh
tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm đến mức tối thiểu. Cụ thể, "
Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị


trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển thị trường hàng
hoá và dịch vụ. Thu hẹp lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ
độc quyền doanh nghiệp,…Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao
gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn
chỉnh…..Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử
dụng đất và bất động sản gắn liền với đất….Phát triển thị trường lao động
trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thị trường khoa học công nghệ trên cơ
sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học, công nghệ trở
thành hàng hoá"(7) và “ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song
phương, lấy phục vụ đất nước làm mục tiêu cao nhất” (8). Quan điểm chỉ đạo
kiên quyết này đặt ra cho quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp những yêu
cầu mới: một là, Nhà nước phải chủ động thay đổi những phương thức hành
động không phù hợp với KTTT và các cam kết quốc tế bằng các phương
thức phù hợp và có hiệu quả hơn. Để làm được như vậy, Nhà nước phải có
tiềm lực tài chính lớn, có nghĩa là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm
đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh nghiệp nhà nước phải được cải tổ
nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động có hiệu quả để tồn tại và đem
lại cho Nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như
vậy, Đại hội chỉ rõ, “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản

xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích…
Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực...” (9); ba
là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai trò mới theo hướng:


- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các
chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở
tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát
huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội;
bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…;
- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và
các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản
lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt động
sự nghiệp;
Bốn là, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải có trình độ chuyên môn
giỏi hơn, chuyên nghiệp hơn và nhất là phải thành thạo ngoại ngữ và sử
dụng các phương tiện làm việc hiện đại như công nghệ thông tin, luật pháp
quốc tế...
Tóm lại, quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ X về kinh tế nhà nước vừa là
sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, quan điểm của các kỳ
Đại hội trước, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải thích rõ hơn các
nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối quan hệ của nó với thành
phần kinh tế khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ
đạo của kinh tế nhà nước, phương thức hoạt động của kinh tế nhà nước trong



nền kinh tế thị trường, hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế và nhà
nước chính trị… Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức
đúng đắn cho các đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản
lý. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra
nhiều yêu cầu mới phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.

(1)

Văn kiện Đại hội đại biểu taòn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr

56.
(2)

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H.1991,tr

55.
(3)

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia,

H.1996,tr
(4)

81.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia,

H.2001,tr
(5)


68.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,


(6)

2006,

Nội

.

2006,

tr

83.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,

H.2006,
(8)
(9)

tr83

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,



(7)

Nội.

tr


d

80-82.
tr

Sđ d tr 85

Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta

113-114.


Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh
tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước.
Có được thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực
hiện nền kinh tế nhiều thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
cơ bản nhất.
Một thời chưa xa, chúng ta lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận hai thành phần là
quốc doanh và tập thể. Và không ít người cho rằng, chỉ có như vậy mới thực sự là xã hội
chủ nghĩa.(!)
Chúng ta không phê phán một cách phi lịch sử, nhưng quan trọng là đã nhận ra những lẽ
cần thiết của sự tồn tại hai thành phần kinh tế đó và những hạn chế làm kìm hãm sự phát
triển của đất nước khi thực hiện nền kinh tế chỉ có hai thành phần như vậy để từ đó tìm ra

cách làm ăn mới phù hợp với quy luật phát triển.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới
kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất phong phú, đa dạng và
sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những con người ấy, cũng những điều kiện tự
nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên
ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động không có việc làm… đã trở thành một
đất nước không những đủ ăn, mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và đến nay xuất
khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu dùng trong nước được thỏa mãn về
nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế – xã hội sôi động, đất nước không
ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm không ngừng phát triển các
thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức
mạnh của bên ngoài được huy động.
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ không thừa nhận kinh tế tư nhân
đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ
không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ
được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được mở
rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát triển. Những biến đổi
như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế,
giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động,
sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền kinh tế
nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp
phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Nghị quyết
Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong điều kiện nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân,
cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu
nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần
kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát



triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói đây
là quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện
cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một
tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác định và phát triển
các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, hợp quy luật làm cơ
sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và tạo điều kiện cho từng
thành phần kinh tế nói riêng phát triển, phát huy được mọi nguồn sức mạnh, giải phóng
mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế của đất
nước thực sự năng động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự thống nhất của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu dài, vừa hợp tác vừa cạnh tranh
lành mạnh góp phần phát triển vững mạnh nền kinh tế nước ta trong điều kiện thực hiện
chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
2 – Phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài
nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân
sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã
hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở "làm đòn
bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn,
hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là

công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước
giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất,
chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật.
Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét toàn văn dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó, tập
trung thảo luận các vấn đề: đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng, mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ; các phương hướng cơ bản; vị trí,
vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.


Ban Chấp hành Trung ương xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ,
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng xong về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh. Từ nay đến khoảng giữa thế kỷ XXI, toàn Ðảng, toàn dân ta phải ra sức phấn
đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các phương hướng cơ bản để thực hiện thành công các mục tiêu trên là: Ðẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Ðảng trong sạch, vững
mạnh. Về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, dự thảo Cương lĩnh xác định: Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã
xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là:
Kinh
tế
nhà
nước
Kinh
tế
tập
thể
- Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
Kinh
tế

bản
nhà
nước


Kinh
tế

vốn

đầu

nước
ngoài
*
Kinh
tế
nhà
nước:
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản
xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân
sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên
quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh
tế.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Vai
trò
đó
được
thể
hiện
nhu
sau:
Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh
tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế

chấp
hành

pháp
luật.
Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó
mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo
định
hướng

hội
chủ
nghĩa.
Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. ã hội và chấp hành pháp luật.



×