Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO hỏi đáp tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đại đoàn kết TOÀN dân tộc, đoàn kết QUỐC tế và mặt TRẬN dân tộc THỐNG NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.8 KB, 27 trang )

1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT

Câu hỏi 1: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Mặt
trận dân tộc thống nhất?
Trả lời: Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta
đã biến nước ta từ chế độ phong kiến lạc hậu thành một xã hội thuộc địa và nửa
phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuần giữa toàn thể nhân dân Việt Nam, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Đầu thế kỷ XX, một số sĩ phu đầy nhiệt huyết đã hướng ra nước ngoài với
hy vọng tìm được con đường cứu nước. Các cuộc cách mạng thế giới, đặc biệt là
Cách mạng tư sản Pháp, Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc và Minh Trị duy tân ở
Nhật Bản đã tác động vào nước ta, làm cho phong trào yêu nước sau một thời
gian chìm lắng lại trở nên sôi động và có bước phát triển mới về nhiều mặt.
Ngoài các đòi hỏi về dân tộc, các phong trào còn nêu yêu sách về dân sinh, dân
chủ, không chỉ đấu tranh vũ trang mà còn tiến hành đấu tranh trên các mặt trận
chính trị, tư tưởng, văn hoá. Cũng với những phong trào truyền bá tư tưởng tự
do, bình đẳng, bác ái, bình quyền, xuất hiện các cuộc vận động bài trừ hủ tục, lập
hội buôn, mở mang công thương nghiệp dân tộc…
Tuy vậy, phong trào đấu tranh và các cuộc vận động chấn hưng dân tộc
vẫn bế tắc vì hầu hết các phong trào đều thiên về hướng ngoại, cầu viện và dựa
vào sức mạnh từ bên ngoài, chưa thấy và càng chưa biết phát huy sức mạnh nội
lực dân tộc là chính. Một số người cầm đầu tuy đã kêu gọi, hô hào "đồng tâm,
"hiệp lực", "đồng bào", "đồng chí" nhưng chưa coi trọng và chưa biết đoàn kết,


2



tập hợp các giai tầng cơ bản trong xã hội, càng chưa biết đến lớp người lao
khổ… Hồ Chí Minh đã nhận xét: Cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực
hiện cải lương chẳng khác gì "đến xin giặc rủ lòng thương" 1; chủ trương của cụ
Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp khác nào "đưa hổ cửa trước, rước
beo cửa sau"2; chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy có thực tế hơn nhưng
cũng không có lối thoát đúng đắn rõ ràng. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh rút ra
kết luận: "Việc lớn chưa thành không phảo vì đế quốc mạnh mà vì nhân dân ta
chưa hiệp lực, đồng tâm". Để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt
Nam cần phải có đường lối cứu nước đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, với xu thế phát triển của thời đại và cần phải có một tổ chức cách
mạng đủ khả năng tập hợp, dẫn dắt toàn dân đi tới thắng lợi.
Với lòng nhiệt thành yêu nước thương dân và trí tuệ vốn có mang theo
trải qua gần mười năm bôn ba hải ngoại tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của nhiều
cuộc cách mạng, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên nhìn thấy ánh
sáng giải phóng trong đêm trường nô lệ. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và
đặc biệt là Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã tạo ra
bước ngoặt quyết định trong lập trường cứu nước của Người. Cùng với sự
chuyển biến về nhận thức, năm 1920 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc tế Cộng
sản, tham gia Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên. Đây không chỉ là bước ngoặt lịch sử trong đời sống hoạt động cách mạng
của Người mà còn đánh dấu bước chuyển về chất của cách mạng Việt Nam. Từ
đây bắt đầu quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm tòi, vận dụng và từng bước truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta, định hình đường lối cứu nước, chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức, đặt nền tảng cho sự ra đời của Đảng và các tổ chức quần
chúng. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất cũng từng
bước được định hình và trở thành một bộ phận cấu thành đường lối cứu nước.
1
2


Trần Dân tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H1994, Tr12
Trần Dân tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động chủ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H1994, Tr12


3

Người chẳng những sớm ý thức được tầm quan trọng mà còn đặt nhiệm vụ hàng
đầu của công cuộc giải phóng là phải tiến hành giáo dục và giác ngộ quần chúng.
Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp", Người đã nhận định: "Ở Đông Dương
chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn… Nhưng
chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức" 1. Do vậy, khi tổng kết về hoạt
động của Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, trong Thư gửi các bạn cùng hoạt
động ở Pháp, Người đã nói rõ mục tiêu của mình khi trở về Tổ quốc: "Đối với
tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, huấn
luyện họ, họ đưa ra đấu tranh giành tự do, độc lập"2.
Khác với các nhà yêu nước tiền bối, ngay từ đầu Nguyễn Ái Quốc đã có
quan niệm đúng đắn về mối quan hệ đoàn kết giữa nhân dân thuộc địa với vô sản
của tất cả các nước là yêu cầu tất yếu, là điều kiện không thể thiếu được để giành
thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Người kêu gọi các dân
tộc phương Đông đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông
tương lai vì "khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng
vô sản"3.
Tuy nhiên, để tiến tới việc thành lập Mặt trận dân tộc chống đế quốc ở các
thuộc địa và xác định vị trí, vai trò của liên minh công nông trong Mặt trận đã
được Người từng bước xác lập trong thời kỳ này. Trong bài phát biểu tại Đại hội
quốc tế Nông dân lần thứ nhất (1923) cũng như trong một số tài liệu của Người
khi hoạt động tại Quốc tế Cộng sản, Người đã chỉ rõ: muốn nắm quyền lãnh đạo
cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn thì phải coi trọng vấn đề nông dân vì đó là
lực lượng to lớn nhất trong phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa. Nhưng
mặt khác, Người cũng giải thích: chỉ với lực lượng của chính mình, nông dân

không bao giờ có thể trút bỏ được gánh nặng đang đè nén họ, mà phải đi theo
giai cấp công nhân. Người khẳng định: Giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H.2002, Tr.132
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H.2002, Tr. 192
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H.2002, Tr. 124
1
2


4

và duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng,
bằng cách liên minh với giai cấp nông dân.
Năm 1923, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Người đã đề nghị cần
sớm có chương trình hành động "để tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng".
Đến diễn đàn Đại hội Quốc tế Nông dân lần thứ hai (1924), Người lại kiến nghị
Quốc tế Cộng sản phải làm cho "Mặt trận thống nhất của nhân dân chính quốc và
thuộc địa trở thành hiện thực". Tuy nhiên những nhận định, kết luận nói trên mới
chỉ là những phác thảo mang tính khái lược. Chỉ đến tác phẩm "Đường Cách
mệnh" thì những nội dung, nguyên tắc về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân
tộc thống nhất mới được định hình cụ thể và rõ nét. Về tính chất của cuộc cách
mạng, đó là dân tộc cách mạng, như "Việt Nam đuổi Pháp… ấy là dân tộc cách
mạng". Cũng trong tác phẩm này, lần đầu tiên Người đề ra quan điểm về vai trò
của quần chúng nhân dân. Theo Người: "Muốn sống thì phải cách mạng; …cách
mạng là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người" 1. Nhưng
muốn đoàn kết, tập hợp dân chúng thì phải "Biết cách làm, biết cách đồng tâm,
hiệp lực mà làm thì chắc làm được". Muốn vậy, theo Người trước hết phải có
Đảng tiên phong lãnh đạo thì mới đoàn kết thống nhất, đồng tâm hiệp lực được
toàn dân chúng, đó chính là cơ sở đảm bảo chắc chắn nhất cho mọi thắng lợi của
cách mạng. Người chỉ rõ, "muốn cách mạng thắng lợi phải có dân chúng (công

nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống
nhất"; coi trọng sức mạnh "dân khí" hơn mọi thứ vũ khí: "dân khí mạnh thì quân
lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi"… Từ nhận thức nói trên,
Người chủ trương phải đi vào quần chúng để giáo dục, giác ngộ, thức tỉnh họ, tổ
chức, đoàn kết họ thành một khối thống nhất, kiên quyết vùng lên "đánh đổ cả
giai cấp bóc lột mình" chứ không phải "nhờ năm, bảy người giết hại ba anh vua,
chín mười anh quan là được". Người kịch liệt phê phán những phương pháp cách
mạng sai trái như: ám sát cá nhân, xúi dân bạo động…
1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Sdd,…Tr. 259 đến 317


5

Đi đôi với quá trình tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng lý luận, Nguyễn Ái
Quốc còn sáng lập ra nhiều tổ chức nhằm thể nghiệm các hình thức tập hợp quần
chúng như Hội những người Việt Nam yêu nước (tập hợp những Việt kiều yêu
nước trên đất Pháp), Hội liên hiệp thuộc địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức
ở Á Đông. Để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước và chuẩn bị tiến tới
thành lập Đảng, Người còn sáng lập ra tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội, lấy Thanh niên Cộng sản Đoàn làm nòng cốt. Thông qua những tổ
chức nói trên để truyền bá đường lối cứu nước và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc,
đưa chân lý cách mạng của thời đại vào phong trào yêu nước và từ phong trào
yêu nước để truyền bá lập trường giai cấp công nhân vàoổtng các tầng lớp nhân
dân lao động khá. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn đó, không chỉ đã thúc đẩy
phong trào công nhân mau chóng trưởng thành, mà còn hình thành trên thực tế
các Hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân trong toàn dân tộc và cuộc đấu tranh
của nhân dân ta đã chuyển về chất, từ tự phát lên tự giác, dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Đó cũng chính là nền tảng cho sự ra đời Mặt trận dân tộc

thống nhất khi thời cơ và điều kiện chín mùi. Lịch sử cách mạng nước ta đã
chứng minh, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thì Mặt trận dân tộc
thống nhất cũng được hình thành. Đây là một đặc điểm có ý nghĩa rất quan trọng
của cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, sự ra đời của Mặt trận thống nhất Phản đế, hình thức tổ chức
đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất ngay sau khi Đảng vừa mới được thành
lập không phải là sự kiện ngẫu nhiên, mà là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn
bị công phu của Người trong suốt một thập kỷ. Đó là một cống hiến vĩ đại cả về
lý luận và thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam là cơ sở,
nền tảng để Đảng ta nhận thức và vận dụng trong quá trình xây dựng, củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn của cách mạng, nhất là tình
hình hiện nay.


6

Câu hỏi 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu đối ngoại trong
chiến lược đại đoàn kết?
Trả lời: Mục tiêu nhất quán về đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao
giờ cũng được xác định một cách rõ ràng, là nhằm phục vụ cho lợi ích của quốc
gia dân tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Người nói: "muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm" 1. Cuộc đời Hồ
Chí Minh là một tấm gương sáng vì nước, vì dân. Trong bài Nói chuyện cùng
đồng bào trước khi sang Pháp, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân… Bất kỳ bao giờ,
bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân"2.
Ngay sau khi nước nhà vừa được độc lập, Hồ Chí Minh thay mặt chính
phủ lâm thời công bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới bản Tuyên ngôn
độc lập, mở đầu bằng những giá trị pháp lý và đạo lý mang tính phổ biến "những

lẽ phải không ai chối cãi được":
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Bản Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyền tự do, độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn
80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân

1
2

Nguyễn Dy Niên, Tư tưởng ngoại dao Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 112
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập.2, Sdd… Tr. 240


7

tộc Việt Nam quyết đem tất cả tình thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"1.
Ngày 16-7-1947, trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh: "Chính
sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh
phúc… Chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước khác thật thà
cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh
tàn phá, hai là để điều hoà kinh tế thế giới và giữ gìn hoà bình"2.
Trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh chủ
trương phải đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể để hoạt động đối ngoại đáp

ứng yêu cầu thực tiễn đất nước và phù hợp với tình hình quốc tế. Quan điểm của
Hồ Chí Minh là: "Tình hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm
mới, sách lược mới… chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi, cho hợp với
tình hình mới"3. Nhưng cuối cùng thì, các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể đều nhằm
mục đích thực hiện cho được mục tiêu cơ bản, đó là: Xây dựng một nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới. Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, quan điểm tư tưởng
của Người về đối ngoại trong chiến lược đại đoàn kết được thể hiện trên một số
vấn đề cơ bản sau:
Một là, đấu tranh cho hoà bình và cùng tồn tại hoà bình là mục tiêu xuyên
suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn
mạnh nguyện vọng của dân tộc Việt Nam là muốn có được một nền hoà bình
hợp công lý. Ngay từ năm 1946, Người đã khẳng định: "Chúng tôi trịnh trọng
tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước" 4. Ý chí quyết
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập.4, Sdd… Tr. 3-4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập.5, Sdd… Tr. 169-170
3 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Sdd… Tr. 315
4 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Sdd… Tr. 469
1
2


8

tâm giải phóng nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ, xây dựng cuộc sống tự
do, hạnh phúc được thể hiện mạnh mẽ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
"… Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta

lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ…"1.
Hai là, hoà bình của một quốc gia phải trên cơ sở độc lập, tự do. Vì vậy,
cuộc đấu tranh cho độc lập tự do của các quốc gia cũng tức là đấu tranh để bảo
vệ nền hoà bình của mình. Theo Hồ Chí Minh, giữ gìn nền hoà bình thế giới tức
là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là
nhất trí… Đó cũng là biểu hiện của tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên
hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong
trào ủng hộ hoà bình thế giới.
Quan điểm về “hoà bình” phải được gắn liền với nền độc lập thực sự của
các dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là hạt nhân quan
trọng cho việc tập hợp, tranh thủ sự ủng hộ của phong trào vì hoà bình của nhân
dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam.
Ba là, lập trường yêu chuộng hoà bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa
rõ ràng, nhất quán vừa thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa ý chí quyết tâm
bảo vệ hoà bình cho đất nước mình vừa góp phần giữ gìn hoà bình cho các dân
tộc khác. Người nói: "Nhân dân Việt Nam vĩnh viễn không để cho bất cứ kẻ nào
xâm lược nước mình, đồng thời cũng vĩnh viễn không xâm lược nước khác.
Nhân dân Việt Nam luôn luôn ủng hộ tất cả những cuộc đấu tranh chống xâm
lược và bảo vệ hoà bình thế giới.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Sdd… Tr. 480


9

Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng mọi sự phân tranh trên thế giới đều có

thể giải quyết bằng cách hoà bình; tin chắc rằng các nước dù chế độ xã hội khác
nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hoà bình được.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện
hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ
quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị
của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình. Chúng tôi tin chắc rằng
sự hợp tác đó sẽ có lợi cho cả đôi bên và có lợi chung cho công cuộc hoà bình
toàn thế giới"1. Trong Lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp (10-1-1947), Hồ
Chí Minh viết:"… Chúng tôi muốn hoà bình ngay để máu người Pháp và Việt
ngừng chảy. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý như nhau. Chúng tôi mong
đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hoà bình. Nếu không,
chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước"2.
Trong khi ra sức phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu đối ngoại của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh rất tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia dân tộc
khác. "Mình chớ làm cho người những điều không muốn người làm cho mình"3.
Phát biểu nhân dịp Quốc kháng lần thứ 10 của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (2-9-1955), Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: "Trong quan hệ đối với các
nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là rõ ràng và trong
sáng: đó là một chính sách hoà bình và quan hệ tốt. Chính sách đó dựa trên năm
nguyên tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bố chung Trung- Ấn và Trung-Miến,
tức là: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm,
không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đẳng và hai bên cùng có lợi,
chung sống hoà bình"4.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Sdd… Tr. 4-5
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Sdd… Tr. 18-19
3 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Sdd… Tr. 354
4 Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Sdd… Tr. 58
1
2



10

Bốn là, đề cao chính nghĩa, đạo lý vì hoà bình và cuộc sống độc lập, tự
do, hạnh phúc của nhân dân tất cả các dân tộc là nền tảng xuyên suốt trong tư
tưởng đối ngoại của Người. Trong hoạt động ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ chú trọng phát huy pháp lý quốc tế mà còn đề cao chính nghĩa, vận
dụng những giá trị của văn hoá và của ngoại giao truyền thống Việt Nam, cũng
như các tư tưởng phổ biến, tiến bộ của nhân loại, luôn chú ý tìm ra những điểm
đồng, nêu cao nhân nghĩa và đạo lý trong quan hệ quốc tế để thuyết phục, tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới và đấu tranh với đối phương. Sức mạnh
ngoại giao, sức thuyết phục của Hồ Chí Minh còn xuất phát từ sự chân thành,
lòng thuỷ chung, tình người đặc biệt ở Hồ Chí Minh. Những phẩm chất cao đẹp
đó của Người đã từng làm xúc động nhân dân và bạn bè quốc tế. Tại buổi tiếp
Hồ Chí Minh trong chuyến thăm hữu nghị Ấn Độ (4-2-1958) của Người, Thủ
tướng Ấn Độ Nêru nói: "Tôi không có nhiệm vụ trong cuộc chiêu đãi này, nhưng
tôi cũng cố gắng đến tham gia vì là chiêu đãi Hồ Chủ Tịch… Hồ Chủ Tịch là
một nhân vật đặc biệt, tính rất giản đơn nhưng lòng rất rộng rãi. Hôm qua khi từ
sân bay về, Hồ Chủ Tịch nói với tôi rằng Ngài có đem từ Hà Nội sang một vòng
hoa và một cây đại để đặt và trồng ở nơi kỷ niệm Thánh Găngdi. Ngài còn nói
thêm rằng cũng có đưa vòng hoa và cây đào để kỷ niệm ông cụ thân sinh tôi. Hồ
Chủ Tịch gặp ông cụ thân sinh tôi ở Thủ đô nước Bỉ năm 1927 trong cuộc Hội
nghị quốc tế chống chủ nghĩa thực dân. Một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi và cách đây
đã lâu năm mà Hồ Chủ Tịch còn nhớ đến cụ thân sinh tôi. Đó tuy là một việc
bình thường nhưng nó chứng tỏ một cách rõ rệt phẩm chất vĩ đại của Hồ Chủ
Tịch"1.
Năm là, giữ vững mục tiêu và nguyên tắc, đồng thời sẵn sàng thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở là nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối
ngoại. Ngay từ năm 1946, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh đã nêu

rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như sau:
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9, Sdd… Tr. 84


11

"1. Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai
nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa
các nước có chủ quyền.
2. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách
mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao
thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế
dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân
trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những
hiệp ước liên quan…"1.
Trả lời phỏng vấn của phóng viên Anh Rốt Xenxpô (26-4-1956): "Chủ
tịch có định mở rộng những quan hệ ngoại giao và nhất là thương mại đối với
phương Tây không?", Hồ Chí Minh tuyên bố: "Trên nguyên tắc bình đẳng và hai
bên cùng có lợi, chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất
cả các nước"2.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh việc xác định đúng đắn mục tiêu đối ngoại là
cơ sở để thực hiện chiến lược đại đoàn kết, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực
lượng có thể đoàn kết, tập hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

tạo ra thế và lực cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Song phải giữ vững nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Sdd… Tr. 470
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Sdd… Tr. 160


12

Câu hỏi 3: Để chuẩn bị lực lượng cho công cuộc giải phóng dân tộc
(thời kỳ 1940-1945), Hồ Chí Minh đã có những hoạt động đoàn kết quốc tế
tiêu biểu nào ?
Trả lời: Tháng 6-1940, khi bắt liên lạc được với Ban hải ngoại của Đảng
ở Côn Minh, trong buổi gặp gỡ có các đồng chí trong nước mới sang. Người đưa
ra nhận định: "Đức đã đánh nhau với Ba Lan, Pháp, Liên Xô ký hiệp ước không
xâm phạm với Đức là hợp với tình hình hiện tại…, tuy có hiệp ước như vậy,
nhưng thế nào mà bọn Đức cũng tấn công Liên Xô trong một ngày gần đây.
Nhưng đụng vào Liên Xô thì chúng sẽ bị tiêu diệt" 1. Được tin chính phủ Pháp
đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc triệu tập một cuộc họp rất quan trọng tại Ban
hải ngoại của Đảng ở Côn Minh. Người phân tích rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa
bọn thực dân ở chính quốc và bọn thực dân ở Đông Dương và nhận định: "Việc
Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm
mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách
mạng"2. Những nhận định trên cho thấy tầm nhìn xa, thấy rộng của Nguyễn Ái
Quốc, giúp cho việc xác định đường lối, chủ trương chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nan lúc này.

Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc triển khai những hoạt động quốc tế
dồn dập nhằm tranh thủ mọi lực lượng có thể đoàn kết, tạo hậu thuẫn cho cách
mạng Việt Nam. Cuối tháng 6-1940, Người đáp máy bay gặp Chu Ân Lai, đại
diện Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh để trao đổi về thời
cuộc và bàn phối hợp hoạt động giữa cách mạng hai nước. Đầu tháng 7, Người
trở lại Côn Minh, viết báo cáo gửi Quốc tế cộng sản. Tư liệu mới tìm được trong
tập Tư liệu về Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc có văn bản Gửi Quốc tế cộng
sản viết bằng chữ Hán đề ngày 12-7-1940. Trong đó, Người trình bày vắn tắt
1
2

Vũ Anh, Những ngày gần Bác trong cuốn: Đầu nguồn, Nxb Văn học, H. 1975, Tr 233
Vũ Anh, Những ngày gần Bác trong cuốn: Đầu nguồn, Nxb Văn học, H. 1975, Tr 234


13

những nét chủ yếu tình hình Đông Dương về thái độ của các giai cấp xã hội,
phong trào cách mạng Việt Nam từ năm 1930. Người phân tích kỹ tình hình nội
bộ Đảng ta từ khi thành lập đến đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Đặc biệt là
những đánh giá có tính chất dự báo khá chính xác về tình hình quốc tế, về tình
thế cách mạng mới đối với Việt Nam.
Cuối tháng 7, Nguyễn Ái Quốc chuyển về Quảng Tây. Tại đây, Người
triệu tập cuộc họp cán bộ để thảo luận vấn đề: phải nhân danh một tổ chức hợp
pháp để quan hệ với Tưởng, phải có cớ về nước đàng hoàng, càng sớm càng tốt,
trong lúc Tưởng đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch "Hoa quân nhập Việt" và quan
hệ Quốc-Cộng lúc này đã xấu đi. Người quyết định cho lập Việt Nam độc lập
đồng minh hội do Hồ Học Lãm, một người yêu nước làm sĩ quan trong Bộ tham
mưu quân đội Tưởng đứng đầu. (Tổ chức này được chính phủ Nam Kinh cho
phép hoạt động hợp pháp). Người căn dặn: "Trong việc giao dịch với Quốc dân

Đảng không mong chi nhiều. Điều chủ yếu là làm sao cho chúng không cản trở
công việc của ta. Phải hết sức bí mật. Về chuyện "Hoa quân nhập Việt" đừng chỉ
nhìn mặt thuận lợi. Hiện nay chỉ có Hồng quân Liên Xô và Hồng quân Trung
Quốc mới là những đội quân anh em, mới là đồng minh thực sự của ta. Còn quân
đội Tưởng Giới Thạch dù có vào Việt Nam để đánh Nhật cũng chỉ là đồng minh
tạm thời"1. Người còn chỉ thị, phải giữ cho được tổ chức này để liên lạc với quốc
tế, duy trì quan hệ với Quốc dân Đảng Trung Hoa để tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của nhân dân Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
Tháng 12-1940, Nguyễn Ái Quốc cùng một số cán bộ về Tĩnh Tây, gần
biên giới Tổ quốc. Tại đây, Người mở lớp, trực tiếp huấn luyện 43 cán bộ cách
mạng Việt Nam; đồng thời Người còn nhận định: "Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở
ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước,
lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế thuận lợi. Nhưng từ Cao
Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp
1

Võ Nguyên Giáp, Từ nhân dân mà ra, Nxb QĐND, H. 1969, Tr. 31


14

xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc
thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn
có thể giữ"1. Mục đích mở lớp huấn luyện là nhằm bồi dưỡng về tình hình quốc
tế và trong nước, nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam, phương pháp lãnh
đạo, phương thức hoạt động về chính trị, quân sự của các đoàn thể cứu quốc…
Sau lớp huấn luyện, 43 cán bộ trở về nước tuyên truyền, giác ngộ và tổ chức các
đoàn thể cứu quốc. Như vậy, song song với những hoạt động nhằm tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động đào
tạo cán bộ, lựa chọn căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị thành lập Mặt trận dân tộc

rộng rãi cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Bước chuẩn bị này
là rất cần thiết và quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật đánh vào Đông Dương. Nhân dân ta bị một
cổ hai tròng dưới ách thống trị và bóc lột của phát xít Nhật-Pháp. Lúc này, cách
mạng bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi Đảng ta phải lãnh đạo nhạy bén, kịp thời
và tập trung hơn nữa. Trước tình hình đó, mùa xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc
quyết định về nước cùng Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là
sự kiện lịch sử vĩ đại, có tầm quan trọng đặc biệt đối với thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau khi nghiên cứu, nắm bắt tình hình mọi mặt, Nguyễn Ái Quốc triệu tập
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám từ ngày 10 đến 19-5-1941 tại Pắc Bó,
Cao Bằng. Dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị đã đánh giá về tình hình thế giới
và trong nước, tập trung thảo luận nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là giải phóng dân
tộc, chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị lực lượng tiến tới Tổng
khởi nghĩa. Bằng những kinh nghiệm hoạt động của mình và luôn nắm sát tình
hình quốc tế, kết hợp với những nhận định trước đây, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra
những nhận định sáng suốt làm cơ sở để Hội nghị thảo luận thống nhất nhận định
1

Hoàng Tranh, Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb Sao Mới (Trung Quốc) 1990, Tr32


15

về tình hình quan hệ quốc tế và trong nước, tin tưởng vào thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Về tình hình thế giới, Hội nghị nhận định:
khác với cuộc chiến tranh thế giới lần trước, "cuộc chiến tranh này xen vào
những cuộc chiến tranh chống xâm lược của các dân tộc nhỏ yếu chống lại đế
quốc xâm lược" và "nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô,
một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều

nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công". Từ
những phân tích, nhận định trên, Hội nghị cho rằng, Liên Xô nhất định sẽ thắng,
"Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản
công của Anh-Mỹ… Tất cả những điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động
của Đảng ta mau phát triển và rồi đây, lực lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gây
một cuộc khởi nghĩa toàn quốc rộng lớn". Hội nghị chỉ rõ: "Cuộc cách mạng
Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế giới và giai đoạn hiện tại là một bộ
phận dân chủ chống phát xít… Vận mạng của dân tộc Đông Dương lại chung với
vận mạng nước Trung Quốc cách mạng và Liên bang Xôviết" 1 và đây là lúc phải
gấp rút chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để đón thời cơ giành thắng lợi quyết định
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, Hội nghị chủ trương
nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, xác định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách
mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc: Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì
chẳng những toàn thể dân tộc quốc gia còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
tám về nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là bỏ quên nhiệm vụ
giải phóng giai cấp, cũng không phải là lùi một bước, "chỉ là bước một bước
ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn". Về thực chất, Hội nghị đã chỉ rõ
1

ĐCSVN, Văn kiện Đảng 1930-1945, T3, BNCLSĐ, H.1977, Tr198


16

nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là phải tập trung vào giải quyết một
vấn đề “bức thiết” nhất, là giải phóng dân tộc… Cũng tại Hội nghị này, theo

sáng kiến và đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị nhất trí thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập Đồng minh gọi tắt là
Việt Minh. Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, tháng 5-1941, Nguyễn
Ái Quốc chỉ đạo việc soạn thảo các văn kiện cơ bản của Mặt trận Việt Minh.
Đến tháng 9 và tháng 10-1941, Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ của Việt
Minh soạn thảo xong, làm phụ lục cho Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ tám và được công bố. Những văn kiện đó đã thể hiện đầy đủ sự nhất trí
cao giữa quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta về mặt trận
đoàn kết dân tộc thống nhất, về những vấn đề chiến lược cách mạng, về kết hợp
nhân tố dân tộc và nhân tố quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Chính vì vậy có thể nói, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5.
1941) thật sự là hội nghị đã bổ sung, hoàn chỉnh về đường lối chiến lược cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sau này đồng chí Trường Chinh kể lại:
"Đây là lần đầu tiên đồng chí được gặp và làm việc với Nguyễn Ái Quốc. Hội
nghị đã thảo luận theo tư tưởng chỉ đạo và những vấn đề mà Người nêu lên. Tự
tay Người đã sửa lại Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám thật ngắn gọn, súc
tích và cụ thể"1. Nghị quyết đúng đắn của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
tám và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi quốc dân đồng bào được
phát đi sau Hội nghị đó đã cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân và được chấp
hành một cách nghiêm chỉnh, là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám 1945 sau này.

1

Trường Chinh, Hồi tưởng, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử đảng.


17


Câu hỏi 4: Đảng ta vận dụng phương châm, mục đích của ta là bất di
bất dịch, nguyên tắc của ta phải vững chắc, sách lược của ta phải linh hoạt,
thực hiện “ dĩ bất biến, ứng vạn biến” của tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp đổi mới như thế nào ?
Trả lời: Đảng ta khởi xướng sự nghiệp đổi mới vào lúc đất nước đang
trong tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm trọng; Mỹ và một số nước
khác tiến hành bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với Việt Nam. Trước
những thách thức to lớn, cách mạng Việt Nam lúc này đặt ra hai yêu cầu quan
trọng và cấp bách:
Một là, phải giải toả tình trạng căng thẳng, đối đầu của các thế lực thù
địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, nhằm tiến tới thiết lập quan hệ và mở rộng
quan hệ giữa Việt Nam với các nước, tạo môi trường khu vực thuận lợi, tăng
cường hợp tác với bên ngoài để xây dựng, phát triển đất nước.
Hai là, phải giải quyết những khó khăn về kinh tế đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với
các quốc gia khu vực, trong bối cảnh các nguồn viện trợ, đầu tư từ các nước xã
hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu không còn.
Bước vào công cuộc đổi mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI đã xác định rõ quan điểm về đối ngoại của Đảng ta là, tăng cường quan
hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, chủ trương hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn
nhau, coi đây là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em; xác
định quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam; tăng cường quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế; tăng
cường hợp tác giữa các đảng anh em trong công cuộc đấu tranh vì những mục
tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…. Điều đó


18


chứng tỏ, ngay từ đầu công cuộc đổi mới đã phản ánh rất rõ những đổi mới về tư
duy đối ngoại của Đảng.
Việc Đảng ta nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới và rút ra bài học
kinh nghiệm quí báu là "phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong điều kiện mới" và "xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước,
kể cả các nước có chế độ kinh tế-xã hội khác nhau, là những điều kiện rất quan
trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Từ đó, Đảng
chủ trương "sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh
tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội"1.
Trên cơ sở kiên trì với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới, Đảng ta luôn chủ động đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
cho công tác đối ngoại; tiến hành điều chỉnh chiến lược đối ngoại "lấy mục tiêu
hoà bình và phát triển làm chuẩn mực trong mọi hoạt động quốc tế của mình";
chủ động chuyển sang giai đoạn đấu tranh dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình
với các nước láng giềng, khu vực và quán triệt ý nghĩa chính trị quan trọng của
hội nhập kinh tế quốc tế giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau;
kiên quyết mở rộng quan hệ quốc tế; quyết tâm tạo chuyển biến cơ bản trong
quan hệ với các nước lớn; thực hiện mở rộng liên kết, hợp tác và thu hút đầu tư
nươc ngoài phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Chủ trương đổi mới của Đảng
về quan hệ quốc tế đã mở ra một trang mới trong hoạt động đối ngoại của Việt
Nam.
Những nhận thức mới trên đây đã đặt nền móng cho việc hình thành các
chủ trương đổi mới của Đảng ta về quan hệ quốc tế.
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến
động sâu sắc. Sự thay đổi chế độ chính trị- xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, Nxb ST, H.1987, Tr. 31



19

Đông Âu; các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá nhằm xoá bỏ
hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới… Trong bối cảnh đó, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khai mạc (24-6-2001), để "quyết định
không những nhiệm vụ nặng nề trước mắt, mà cả tiền đồ rộng lớn của cách mạng
nước ta và của Đảng ta trong những thập niên tới" 1. Nổi bật trong công tác đối
ngoại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh yêu cầu cần phải quán triệt và thực hiện
đúng đắn chủ trương của Đảng về đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế
với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn
thành viên của nước ta trong việc gia nhập các tổ chức quốc tế, các hiệp hội kinh
tế khác khi cần thiết và có điều kiện. Theo quan điểm của Đảng ta, đa dạng hoá
quan hệ có nghĩa là mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học kỹ thuật đến các quan hệ về Nhà nước, về Đảng và các tổ chức
đoàn thể xã hội. Đa phương hoá, có nghĩa là quan hệ với nhiều đối tượng khác
nhau, với các tổ chức thuộc các xu hướng và chế độ chính trị xã hội khác nhau,
với các tổ chức phi chính phủ…
Điểm đáng lưu ý về chính sách đối ngoại được đề cập tại Đại hội VII là
trong khi chủ trương đoàn kết với các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, lập trường của Đảng ta được thể hiện: "sẵn
sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các Đảng xã hội-dân chủ, các phong trào
dân chủ và tiến bộ trên thế giới" 2. Tiếp đó, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII (1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ
đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với tất cả các nước, trên cơ sở tư
tưởng chỉ đạo là: "Giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội
đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu

1
2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VI, Nxb ST, H.1987, Tr. 6
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ VII, Nxb ST, H.1991, Tr. 89


20

vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ". Hội nghị quán triệt sâu
sắc thêm về yêu cầu vận dụng đúng bốn phương châm xử lý các quan hệ quốc tế
do Hội nghị trung ương ba đề ra: Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết
hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân. Hai là, giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại. Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh
trong quan hệ với mọi đối tượng. Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở
rộng quan hệ với tất cả các nước.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã thể hiện sự tiếp
tục đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta trước tình hình mới, đồng thời phản
ánh tính tích cực, chủ động của Đảng trong việc nắm bắt tình hình và xử lý một
cách sáng suốt, kịp thời các tình huống trong quan hệ quốc tế.
Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục bổ sung và cụ thể hoá quan điểm, chủ
trương mở rộng quan hệ đối ngoại của Đại hội VII và các Hội nghị Trung ương
khoá VII, nhấn mạnh việc mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn
đề bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp phù hợp thông qua thương lượng, bảo
đảm hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Trên cơ sở đánh giá thành tựu và thiếu sót, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm

vụ, phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 1996-2000, với nội dung cơ bản: Một là, mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Hai là, phát triển kinh tế đối ngoại theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, tăng cường sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Ba là, đa phương hoá,
đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại nhưng có trọng tâm, trọng điểm.


21

Bốn là, khai thác các tiềm năng, phát huy các nguồn lực bên trong của cả nước
để phát triển kinh tế đối ngoại một cách đồng bộ, hướng mạnh vào xuất khẩu,
đồng thời coi trọng đúng mức thị trường trong nước. Năm là, tạo được sự tín
nhiệm của các nước trong giao lưu kinh tế đối với nước ta. Sáu là, kinh tế đối
ngoại hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành thống nhất của
Nhà nước, với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp
nhà nước là chủ lực. Bảy là, xây dựng, giáo dục, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
cán bộ, nhân viên làm công tác kinh tế đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức phẩm chất tốt, có trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ.
Đại hội IX, X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh và cụ thể hoá nhiệm vụ của
công tác đối ngoại trong tình hình mới là giữ vững môi trường hoà bình và tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội; chủ động
hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo đúng lộ trình trên cơ sở giữ
vững các nguyên tắc đã được Đảng ta xác định từ trước nhằm tận dụng, phát huy
cao nhất những lợi thế, chủ động khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong quá
trình hội nhập. Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh hoạt động kinh
tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu,
khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”1.
Như vậy, sự điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng ta kể từ
Đại hội VI là thể hiện sự nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm của Hồ Chí

Minh về đối ngoại với phương châm: mục đích của ta là bất di, bất dịch, nguyên
tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì phải hết sức linh hoạt,
mềm dẻo, thực hiện "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Nắm vững phương châm trên
trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong tình hình mới, Đảng ta chỉ rõ: "Tình
hình mới đã đặt ra những nhiệm vụ mới, phương châm mới, sách lược mới…
chính sách và khẩu hiệu cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình mới".
Nhưng cuối cùng thì các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể đều nhằm mục đích thực
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, Tr. 113, 114


22

hiện cho được mục tiêu cơ bản, đó là: Xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới.

CÂU HỎI 5. Vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của đại đoàn kết theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay ?
Đoàn kết là qui luật tồn tại của mọi quốc gia, dân tộc và là qui luật giành thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Sớm Nhận thức được đặc điểm, tính chất và xu thế
của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản
thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa để xác định đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam trong quá trình xây dựng, củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, nhằm tạo ra thực lực cho cách
mạng Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, là một tổng kết lịch sử dựng
nước, giữ nước của dân tộc ta, đúc kết thực tiễn kinh nghiệm xây dựng lực lượng
của các cuộc cách mạng trên thế giới, đồng thời phản ánh đúng đắn xu thế, nguyện

vọng chính đáng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, vì nền độc lập của mỗi quốc gia
dân tộc và mục tiêu chung của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Lịch sử cách mạng nước ta hơn nửa thế kỷ qua cho thấy: bất cứ thời kỳ,
giai đoạn cách mạng nào, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh được quán triệt và
vận dụng đúng đắn thì thời kỳ, giai đoạn đó, cách mạng phát triển mạnh mẽ và
giành được thắng lợi; ngược lại thời kỳ, giai đoạn cách mạng nào, xa rời tư tưởng
đó, thì thời kỳ, giai đoạn đó, cách mạng bị trở ngại và tổn thất.
Nhận thức, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ,


23

“Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 1 . Đồng thời khẳng định “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan
hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” 2 . Đó là
bước phát triển, sáng tạo của Đảng ta, nhằm phát huy hơn nữa bài học về
sức mạnh nội lực, kết hợp sức mạnh nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi
ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, chúng ta đang ra sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh quốc tế

diễn biến hết sức phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức
ráo riết chống phá cách mạng nước ta một cách quyết liệt, dưới nhiều hình thức hết
sức tinh vi, xảo quyệt. Trong nước, sự tác động của nhiều nhân tố, nhất là sự tác
động của mặt trái kinh tế thị trường, đã gây ra không ít khó khăn, phức tạp cho quá
trình thực hiện xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Để
tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, làm thất bại mọi âm mưu, hành động của các
thế lực thù địch, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, phải thường xuyên
nêu cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ sự cần thiết phải không ngừng củng cố và
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời phải nắm vững nguyên tắc,
kiên định mục tiêu chiến lược trong việc mở rộng quan hệ quốc tế, chủ động hội
1
2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, H. 2006, Tr. 116
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, H. 2006, Tr. 112


24

nhập với thế giới nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của cách mạng nước ta.
2. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết hiện nay
là gì ?
Xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết là một qúa trình cách
mạng hết sức công phu, đòi hỏi Đảng phải có phương pháp khoa học và phải chủ
động, sáng tạo trong xử lý các mối quan hệ trong nước và quốc tế. Quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay,
cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Trên cơ sở nắm vững mục tiêu chung: “giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”1, đồng thời

bám sát và nắm bắt đúng diễn biến tình hình trong nước và quốc tế để định hướng
đúng cho quá trình củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết trong thời kỳ mới, nhằm
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thế và lực cho cách mạng Việt
Nam tiếp tục vững bước trên con đường phát triễn đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong bối cảnh hiện nay, việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết đòi
hỏi chúng ta phải hết sức sáng suốt, trong khi tiếp tục khẳng định và đề cao vai trò
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mặt khác phải tích cực, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Tuy nhiên,
việc mở rộng và tăng cường quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế
giới và các tổ chức quốc tế, phải trên nguyên tắc “Tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết các vấn đề bất đồng và tranh chấp thông
qua thương lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi”2.
Mở rộng dân chủ hoá, đi đôi với hoàn thiện hệ thống Pháp luật, xây dựng bầu
không khí cởi mở, tin cậy trong toàn xã hội, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng trí
1
2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, H. 2006, Tr.116
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, H. 2006, Tr. 116


25

tuệ trong nhân dân. Kết hợp hài hoà những yếu tố truyền thống bền vững với những
nhân tố mới có ý nghĩa đột phá, tạo ra động lực mới cho sự phát triển đất nước bằng
những phong trào, hành động cách mạng thiết thực của quần chúng nhân dân trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết
phải được gắn liền với cuộc đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm lệch lạc, cô
độc hẹp hòi, tự ty dân tộc hoặc đoàn kết vô nguyên tắc, buông lỏng vai trò lãnh đạo

của Đảng làm suy yếu khối đại đoàn kết.
Để xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết ngày càng được bền vững, bên
cạnh sự tích cực, chủ động tìm kiếm và phát huy những yếu tố tương đồng, sự trùng
hợp về lợi ích lâu dài hoặc trước mắt trong cộng đồng dân tộc, khu vực và quốc tế,
đồng thời phải nắm vững nguyên tắc và xử lý khéo các mối quan hệ giữa dân tộc
với giai cấp, quốc gia với quốc tế, thì mới có thể động viên, khơi dậy và phát huy
được những khả năng cao nhất của mọi tổ chức, cá nhân, thành phần và lực lượng ở
trong nước và quốc tế vào sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Tuy nhiên, đối với đại đoàn kết dân tộc, phải luôn luôn đặt lên hàng đầu mục
tiêu chung làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các
tầng lớp nhân dân trong toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời chủ động xây dựng được một hệ
thống chính sách đúng đắn, phù hợp cho từng đối tượng, động viên khích lệ các
tầng lớp nhân dân, tích cực, hăng hái tham gia lao động sản xuất, kinh doanh theo
đúng pháp luật, thực hiện “ích nước, lợi nhà”.
Đối với đoàn kết quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế “Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. 1 Tích cực cải thiện và mở
rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước có chế độ xã hội và
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, Tr. 112

1


×