MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................2
2. Mục đích của đề tài...................................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................3
4. Bố cục đề tài..............................................................................................4
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG...................................................5
1.1. Khái niệm hợp đồng...............................................................................5
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng.......................................................................5
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng...................................................................5
1.1.3. Chủ thể của hợp đồng......................................................................6
1.1.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng................................................6
1.1.5. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng................................................6
1.2. Hợp đồng dịch vụ theo quy định của BLDS 2015.................................8
1.2.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ...........................................................8
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ......................................................8
1.2.3. Nội dung của hợp đồng dịch vụ......................................................9
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ các bên..............................................................9
1.2.5. Hợp đồng dịch vụ vô hiệu.............................................................10
TIỂU KẾT CHƯƠNG I..................................................................................11
CHƯƠNG II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BLDS 2015 VỀ HỢP ĐỒNG
DỊCH VỤ.............................................................................................................12
2.1. So sánh BLDS 2005 với BLDS 2015 về hợp đồng dịch vụ.................12
2.2. Đánh giá các điểm mới.........................................................................17
2.3. Lí do thay đổi của luật..........................................................................17
KẾT LUẬN.....................................................................................................19
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các tổ chức và cá
nhân ngày càng có nhu cầu sử dụng DVPL. Các tổ chức và cá nhân cần sự trợ giúp
pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao
dịch của mình. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
DVPL cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao dịch
liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp luật
quốc tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của các
chủ thể diễn ra an toàn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía các nhà
cung cấp DVPL. Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVPL đối với bên sử dụng
DVPL được thể hiện dưới hình thức HĐDVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt là của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa tranh
chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về HĐDVPL phải không ngừng hoàn thiện. Đồng thời
hệ thống pháp luật quốc gia về HĐDVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết. Ở Việt Nam, DVPL mới khởi động và phát triển từ những năm 90
của thế kỷ 20 trở lại đây. So với bề dầy truyền thống nghề luật ở các nước phát triển
như Hoa Kỳ, Anh, Pháp…thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là
quá ít ỏi và chưa bài bản. Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng DVPL
cho các hoạt động của mình. Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ
phận cán bộ, công chức nhà nước ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết của một
bộ phận người dân nên rất cần có sự trợ giúp của nhà cung cấp DVPL. “Chất thương
mại” của hoạt động cung cấp DVPL, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật đối với
hoạt động dịch vụ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở
Việt Nam hiện nay còn chưa hoàn chỉnh và được quy định ở rất nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật Luật
sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012); Nghị định số 87/2003/NĐ – CP ngày 22 tháng 7
năm 2003 về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt
Nam; Thông tư số 06/2003/TT – BTP của Bộ Tư pháp ngày 29 tháng 10 năm 2003
quy định về DVPL nước ngoài tại Việt Nam; Luật Công chứng 2006; NĐ 61/
2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009, về thí điểm thực hiện Thừa phát lại tại thành phố Hồ chí
Minh… Bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp DVPL
ký kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL. Các văn bản
pháp luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ không hiện quy định
trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số trường hợp cùng
một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các văn bản khác nhau
và những quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, có nhiều vấn đề
lại không được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng hoặc
quá chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể HĐDVPL, cho hoạt động
QLNN và hoạt động giải quyết chấp về HĐDVPL. Để đảm bảo tính thống nhất, tính
minh bạch, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc ký kết và thực hiện HĐDVPL, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp
HĐDVPL thì pháp luật về HĐDVPL cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Hợp đồng dịch vụ pháp
lý ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình. Đây là một đề tài có tính thời sự và thực
tiễn cao. Hoàn thành đề tài này sẽ là một đóng góp đáng kể vào việc hoàn thiện pháp
luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL ở Việt Nam.
2. Mục đích của đề tài
Là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh HĐDVPL,
trên cơ sở đó xác định các quan điểm, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
HĐDVPL ở Việt nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
-
Đối tượng nghiên cứu
Các quan điểm, tư tưởng luật học về DVPL và pháp luật về HĐDVPL; Cam kết
của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế về DVPL; Các văn bản pháp luật thực định
của Việt Nam về HĐDVPL; Pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về HĐDVPL;
Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam.
-
Phạm vi nghiên cứu
Do kiến thức và trình độ còn hạn chế nên trong đề tài này tôi sẽ tập trung
nghiên cứu từ Điều 513 đến Điều 521 tại mục 9, chương XVI, phần thứ ba “Nghĩa vụ
và hợp đồng”, BLDS 2015.
4. Bố cục đề tài
Em chia bài tiểu luận thành hai chương như sau:
Chương I: Quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ
Chương II: Những điểm mới về hợp đồng dịch vụ trong BLDS 2015.
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm hợp đồng
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng
Hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng
Thứ nhất, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên, nhưng là sự
thỏa thuận thống nhất ý chí và ý chí đó phải phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Sự thỏa thuận giữa hai bên trở lên mới có thể hình thành hợp đồng dân sự, nếu
chỉ là ý chí của một bên thì đó hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, một thỏa thuận
không dựa trên sự tự nguyện của các bên, tức là không có sự thống nhất ý chí thì hợp
đồng dân sự đó bị tuyên vô hiệu khi có yêu cầu. Nguyên tắc của pháp luật dân sự là
bình đẳng, dựa trên sự thỏa thuận, tự nguyện thiện chí của các bên nên nếu không có
sự thống nhất ý chí thì không được coi là hợp đồng dân sự.Chỉ khi thống nhất ý chí thì
quyền và nghĩa vụ dân sự mới phát sinh. Đồng thời, sự thỏa thuận thống nhất ý chí còn
phải phù hợp với ý chí của Nhà nước để Nhà nước kiểm soát và cho phép Hợp đồng
dân sự phát sinh trên thực tế.
Thứ hai, hợp đồng dân sự là một sự kiện pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý:
Xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể.
Sự kiện pháp lý là sự biến hoặc hành vi mà pháp luật quy định khi xuất hiện thì
sẽ xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Hợp đồng dân sự là một sự kiện
pháp lý, theo đó các bên khi có nhu cầu tham gia giao lưu dân sự nhằm thỏa mãn mục
đích của mình sẽ tiến hành thực hiện.
VD: Hợp đồng mua bán tài sản phát sinh hiệu lực làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của bên mua tài sản và bên bán tài sản.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng dân sự là quyền và nghĩa vụ mà các bên chủ thể
quy định cho nhau.
Thứ tư, mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp, không trái đạo đức
xã hội mà các bên cùng hướng tới: Chỉ khi mục đích của hợp đồng dân sự được chứng
minh hoặc được thừa nhận là hợp pháp, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng dân sự
mới phát sinh hiệu lực, qua đó quyền và nghĩa vụ của các bên mới có thể thực hiện
được trên thực tế.
1.1.3. Chủ thể của hợp đồng
Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì
hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ thể
khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các
điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ:
nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự…);
1.1.4. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường các bên
giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là xuất phát
từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận hợp đồng đó.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối
tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện.
Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ
trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà
không thể thực hiện được thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ.
Thứ tư, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất
định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng.
Hợp đồng không đáp ứng được một trong các điều kiện trên sẽ dẫn đến vô hiệu.
1.1.5. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng
Thứ nhất, khi hợp đồng đã được hoàn thành
Khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ và
do vậy, mỗi bên đều đã đáp ứng được quyền dân sự của mình thì hợp đồng được coi là
hoàn thành
Thứ hai, hợp đồng được chấm dứt theo thoả thuận của các bên
Trong những trường hợp bên có nghĩa vụ không có khả năng để thực hiện hợp
đồng hoặc nếu hợp đồng được thực hiện sẽ gây ra tổn thất lớn về vật chất cho một
hoặc cả hai bên thì các bên có thể thoả thuận chấm dứt hợp đồng. Hợp đồng đã giao
kết được coi là chấm dứt tại thời điểm các bên đạt được sự thoả thuận nói trên.
Thứ ba, hợp đồng sẽ chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân
hoặc các chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc
các chủ thể đó thực hiện.
Cần phải hiểu rằng không phải trong mọi trường hợp cứ cá nhân giao kết hợp
đồng chết, pháp nhân hoặc các tổ chức khác giao kết hợp đồng chấm dứt thì hợp đồng
đều được coi là chấm dứt. Theo căn cứ trên thì chỉ những hợp đồng nào mà do tính
chất của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó hoặc do các bên đã thoả thuận trước là
người có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ đó hay chỉ người có quyền mới
được hưởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi họ chết, hợp đồng mới chấm dứt.
Thứ tư, hợp đồng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng
Ngoài việc hợp đồng được chấm dứt theo các căn cứ quy định tại Điều 424 Bộ
luật dân sự thì hợp đồng còn chấm dứt khi một bên đơn phương đình chỉ thực hiện hợp
đồng. Khi có một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng. Việc đơn chấm dứt thực hiện hợp đồng được thực hiện theo quy
định tại Điều 426 Bộ luật dân sự. Khi đơn phương đình chỉ hợp đồng thì phần hợp
đồng chưa thực hiện sẽ chấm dứt, nghĩa là hợp đồng được coi là chấm dứt kể từ thời
điểm bên vi phạm nhận được thông báo chấm dứt hợp đồng từ bên bị vi phạm. Khi
hợp đồng bị chấm dứt, bên có nghĩa vụ không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của
mình nhưng các bên phải thanh toán phần hợp đồng đã được thực hiện.
Thứ năm, hợp đồng chấm dứt khi một bên huỷ bỏ hợp đồng
Nhằm nâng cao tính kỉ luật trong việc thực hiện hợp đồng, pháp luật cho phép
các bên trong hợp đồng được thoả thuận về việc một bên có quyền huỷ hợp đồng nếu
bên kia vi phạm hợp đồng. Vì vậy, trong những trường đó thì bên bị vi phạm hợp đồng
có quyền đơn phương huỷ hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại.
Khi một bên huỷ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các
bên phải hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng vật
thì phải hoàn trả bằng tiền.
Thứ sáu, hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không
còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại
Trong những trường hợp đối tượng của hợp đồng là một vật đặc định hoặc đơn
chiếc mà do bị mất hoặc bị tiêu huỷ hay các lí do khác nên vật đó không còn thì hợp
đồng đó đương nhiên được coi là chấm dứt vào thời điểm vật là đối tượng của hợp
đồng không còn. Tuy nhiên, các bên có thể thoả thuận vẫn duy trì hợp đồng đó bằng
cách thay thế vật không còn bằng một vật khác.
1.2. Hợp đồng dịch vụ theo quy định của BLDS 2015
1.2.1. Khái niệm hợp đồng dịch vụ
Hợp đồng dịch vụ trong dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung
ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả
tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ
• Đặc điểm chung:
Hợp đồng dịch vụ trong thương mại cũng mang những đặc điểm pháp lý cơ bản
của hợp đồng dịch vụ trong dân sự, đó là:
-
Là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ
đều có quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền của bên này tương ứng với nghĩa
vụ của bên kia và ngược lại.
-
Là hợp đồng ưng thuận: có hiệu lực ngay từ thời điểm các bên thỏa thuận
xong các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
• Đặc điểm riêng :
- Đối tượng của hợp đồng dịch vụ trong thương mại là dịch vụ. Đối tượng
dịch vụ của hợp đồng dịch vụ trong thương mại có phạm vi hẹp hơn đối tượng công
việc của hợp đồng dịch vụ trong dân sự. Theo nghĩa đơn thuần thường hiểu thì dịch vụ
có thể là mọi hành vi của chủ thể này thực hiện công việc mang lại hiệu quả có lợi cho
chủ thể khác. Dịch vụ là đối tượng của hợp đồng dịch vụ trong thương mại còn phải
được thực hiện vì mục đích sinh lời. Nhưng như vậy thì phạm vi của hợp đồng dịch vụ
sẽ bao gồm cả những hợp đồng khác như hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển,…
- Dịch vụ đó phải là dịch vụ có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm và
không trái đạo đức xã hội.
1.2.3. Nội dung của hợp đồng dịch vụ
Nội dung của hợp đồng dịch vụ bao gồm tổng hợp các điều khoản trong hợp
đồng. Trong một hợp đồng dịch vụ, các bên có thể thỏa thuận về : đối tượng (dịch vụ
nào?), giá dịch vụ, thời hạn hoàn thành dịch vụ, thời hạn thanh toán…
1.2.4. Quyền và nghĩa vụ các bên
a. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ
• Quyền bên thuê dịch vụ
– Bên thuê dịch vụ có quyền yêu cầu bên làm dịch vụ thực hiện công việc theo
đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các nội dung khác mà hai bên đã thỏa
thuận.
– Có quyền nhận kết quả công việc mà bên làm dịch vụ đã thực hiện.
–
Có quyền đơn phương chẩm dứt thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường
thiệt hại, nếu bên làm dịch vụ vi phạm nghĩa vụ. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng, bên thuê dịch vụ phải báo trước cho bên làm dịch vụ trong một khoảng thời
gian họp lý và phải trả tiền công theo số lượng, chất lượng mà bên làm dịch vụ đã thực
hiện và bồi thường thiệt hại (nếu có).
–
Trong trường hợp chất lượng, sổ lượng dịch vụ không đạt được như thoả
thuận hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn do lỗi của bên làm dịch
vụ, thì bên thuê dịch vụ có quyền giảm tiền công và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
• Nghĩa vụ
–
Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ cung cấp cho bên làm dịch vụ thông tin, tài
liệu và các phương tiện cần thiết để thực hiện công việc nếu các bên có thỏa thuận
hoặc việc thực hiện dịch vụ có yêu cầu.
– Bên thuê làm dịch vụ phải trả tiền công (thường gọi là tiền thù lao) cho bên
làm dịch vụ theo thỏa thuận khi xác lập họp đồng. Tiền công được trả tại địa điểm thực
hiện dịch vụ khi hoàn thành dịch vụ, nếu các bên không có thoả thuận khác.
b. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ
• Quyền bên cung ứng dịch vụ
–
Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ phải cung cấp
thông tin, tài liệu và phương tiện để thực hiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ.
–
Được phép thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ mà
không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt
hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên thuê dịch vụ biết.
– Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu bên thuê dịch vụ phải trả tiền công
theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng các bên không thỏa thuận cụ thể,
thì tiền công được xác định theo mức trung bình đối với công việc cùng ỉoại tại thời
điểm và địa điểm hoàn thành công việc.
– Bên cung ứng dịch vụ cũng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ
của mình hoặc thực hiện không đúng như nghĩa vụ mà các bên đã cam kết.
• Nghĩa vụ
Bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện công việc đúng chất lượng, khối
lượng, thời hạn và các điều khoản khác mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp
đồng.
–
Không được giao cho người khác làm thay công việc, nếu không có sự đồng
ý của bên thuê dịch vụ.
–
Phải bảo quản và giao lại cho bên thuê dịch vụ tài liệu và phương tiện được
giao để thực hiện dịch vụ sau khi hoàn thành công việc. Khi nhận tài liệu, phương tiện,
thông tin nếu thấy không đầy đủ, không bảo đảm chất lượng để hoàn thành công việc
thì phải báo ngay cho bên thuê dịch vụ biết.
–
Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian làm dịch yụ, nếu các
bên có thoả thuận trong hợp đồng hoặc pháp luật có quy định. Bên cung ứng dịch vụ
phải bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nếu làm mất mát, hư hỏng tài liệu được
giao để làm dịch vụ hoặc trong quá trình làm dịch vụ đã tiết lộ bí mật thông tin.
1.2.5. Hợp đồng dịch vụ vô hiệu
Bên cạnh việc xác định điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, chủ thể cần xem xét
đến các trường hợp vô hiệu khác của hợp đồng, cụ thể:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 130 – Bộ
Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn (Điều 131 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình (Điều 133 – Bộ Luật dân sự);
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I đã giới thiệu một cách khá khái quát về những vấn đề liên quan đến
hợp đồng dịch vụ như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, mục đích và nội dung, hình thức,
hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể, tranh chấp và giải quyết tranh chấp,
ngoài ra còn có nguyên tắc và trình tự giao kết. Từ đó, giúp độc giả thuận lợi hơn
trong việc theo dõi chương tiếp theo.
CHƯƠNG II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BLDS 2015 VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH
VỤ
2.1. So sánh BLDS 2005 với BLDS 2015 về hợp đồng dịch vụ
BLDS 2005
BLDS 2015
Khái niệm hợp Hợp đồng dịch vụ là sự thoả Không thay đổi. (Điều 513)
đồng dịch vụ
thuận giữa các bên, theo đó
bên cung ứng dịch vụ thực
hiện công việc cho bên thuê
dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ
phải trả tiền dịch vụ cho bên
cung ứng dịch vụ.
Đối tượng của Đối tượng của hợp đồng dịch Không thay đổi. (Điều 514)
hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể
vụ
thực hiện được, không bị
pháp luật cấm, không trái
đạo đức xã hội.
Nghĩa vụ của 1. Cung cấp cho bên cung Không thay đổi. ( Điều 515)
bên
sử
dịch vụ
dụng ứng dịch vụ thông tin, tài liệu
và các phương tiện cần thiết
để thực hiện công việc, nếu
có thoả thuận hoặc việc thực
hiện công việc đòi hỏi.
2. Trả tiền dịch vụ cho bên
cung ứng dịch vụ theo thoả
thuận.
Quyền của bên 1. Yêu cầu bên cung ứng Không thay đổi. (Điều 516)
sử dụng dịch vụ dịch vụ thực hiện công việc
theo đúng chất lượng, số
lượng, thời hạn, địa điểm và
thoả thuận khác.
2. Trường hợp bên cung ứng
dịch vụ vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ thì bên sử
dụng dịch vụ có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Nghĩa vụ của 1. Thực hiện công việc đúng Không thay đổi. (Điều 517)
bên cung ứng chất lượng, số lượng, thời
dịch vụ
hạn, địa điểm và thoả thuận
khác.
2. Không được giao cho
người khác thực hiện thay
công việc nếu không có sự
đồng ý của bên sử dụng dịch
vụ.
3. Bảo quản và phải giao lại
cho bên sử dụng dịch vụ tài
liệu và phương tiện được
giao sau khi hoàn thành công
việc.
4. Báo ngay cho bên sử dụng
dịch vụ về việc thông tin, tài
liệu không đầy đủ, phương
tiện không bảo đảm chất
lượng để hoàn thành công
việc.
5. Giữ bí mật thông tin mà
mình biết được trong thời
gian thực hiện công việc, nếu
có thoả thuận hoặc pháp luật
có quy định.
6. Bồi thường thiệt hại cho
bên sử dụng dịch vụ, nếu làm
mất, hư hỏng tài liệu, phương
tiện được giao hoặc tiết lộ bí
mật thông tin.
Quyền của bên 1. Yêu cầu bên sử dụng dịch Không thay đổi. (điều 518)
cung ứng dịch vụ cung cấp thông tin, tài
vụ
liệu và phương tiện để thực
hiện công việc.
2. Được thay đổi điều kiện
dịch vụ vì lợi ích của bên sử
dụng dịch vụ mà không nhất
thiết phải chờ ý kiến của bên
sử dụng dịch vụ, nếu việc
chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại
cho bên sử dụng dịch vụ,
nhưng phải báo ngay cho bên
sử dụng dịch vụ.
3. Yêu cầu bên sử dụng dịch
vụ trả tiền dịch vụ.
Trả tiền dịch vụ 1. Bên sử dụng dịch vụ phải Không thay đổi. (điều 519)
trả tiền dịch vụ theo thoả
thuận.
2. Khi giao kết hợp đồng,
nếu không có thoả thuận về
giá dịch vụ, phương pháp xác
định giá dịch vụ và không có
bất kỳ chỉ dẫn nào khác về
giá dịch vụ thì giá dịch vụ
được xác định căn cứ vào giá
thị trường của dịch vụ cùng
loại tại thời điểm và địa điểm
giao kết hợp đồng.
3. Bên sử dụng dịch vụ phải
trả tiền dịch vụ tại địa điểm
thực hiện công việc khi hoàn
thành dịch vụ, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
4. Trường hợp dịch vụ được
cung ứng không đạt được
như thoả thuận hoặc công
việc không được hoàn thành
đúng thời hạn thì bên sử
dụng dịch vụ có quyền giảm
tiền dịch vụ và yêu cầu bồi
Đơn
thường thiệt hại.
phương 1. Trong trường hợp việc tiếp 1. Trường hợp việc tiếp tục
chấm dứt thực tục thực hiện công việc thực hiện công việc không có
hiện hợp đồng không có lợi cho bên thuê lợi cho bên sử dụng dịch vụ
dịch vụ
dịch vụ thì bên thuê dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có
có quyền đơn phương chấm quyền đơn phương chấm dứt
dứt thực hiện hợp đồng, thực hiện hợp đồng, nhưng
nhưng phải báo cho bên cung phải báo cho bên cung ứng
ứng dịch vụ biết trước một dịch vụ biết trước một thời
thời gian hợp lý; bên thuê gian hợp lý; bên sử dụng dịch
dịch vụ phải trả tiền công vụ phải trả tiền công theo
theo phần dịch vụ mà bên phần dịch vụ mà bên cung ứng
cung ứng dịch vụ đã thực dịch vụ đã thực hiện và bồi
hiện và bồi thường thiệt hại.
thường thiệt hại.
2. Trong trường hợp bên sử 2. Trường hợp bên sử dụng
dụng dịch vụ không thực dịch vụ vi phạm nghiêm
hiện nghĩa vụ của mình hoặc trọng nghĩa vụ thì bên cung
thực hiện không đúng theo ứng dịch vụ có quyền đơn
thoả thuận thì bên cung ứng phương chấm dứt thực hiện
dịch
vụ
có
quyền
đơn hợp đồng và yêu cầu bồi
phương chấm dứt thực hiện thường thiệt hại.
hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
Tiếp tục hợp Sau khi kết thúc thời hạn Không thay đổi. (Điều 521)
đồng dịch vụ
thực hiện công việc theo hợp
đồng dịch vụ mà công việc
chưa hoàn thành và bên cung
ứng dịch vụ vẫn tiếp tục thực
hiện công việc, bên sử dụng
dịch vụ biết nhưng không
phản đối thì hợp đồng dịch
vụ đương nhiên được tiếp tục
thực hiện theo nội dung đã
thoả thuận cho đến khi công
việc được hoàn thành.
2.2. Đánh giá các điểm mới
So với BLDS 2005 thì BLDS 2015 về hợp đồng dịch vụ chỉ có thay đổi về đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ đó là “chỉ khi bên sử dụng dịch vụ vi
phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên cung ứng mới có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng và yêu cầu BTTH”. Điểm mới đã làm rõ hơn so với BLDS 2005 và
đảm bảo sự công bằng cho hai bên tham gia hợp đồng dịch vụ.
2.3. Lí do thay đổi của luật
Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định riêng dành cho Hợp đồng dịch vụ là
từ Điều 518 đến Điều 526. Với tổng cộng 9 điều luật dành cho hợp đồng dân sự thông
dụng này, các quy định pháp luật đã tạo nên một khung pháp lý cơ bản dành cho Hợp
đồng dịch vụ. Tuy nhiên, trên góc nhìn đối chiếu với các thuộc tính dịch vụ cho thấy
một số điểm còn chưa phù hợp:
Một là, quy định pháp luật về Hợp đồng dịch vụ chưa quy định ranh giới giữa
công việc mang tính chất dịch vụ và công việc không mang tính chất dịch vụ. Theo
Điều 519 Bộ luật Dân sự năm 2005, nguyên tắc pháp luật đặt ra với công việc là đối
tượng Hợp đồng dịch vụ gồm: Có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm và
không trái đạo đức xã hội. Nguyên tắc “có thể thực hiện được” đối với dịch vụ được
quy định chung chung. Thuộc tính của dịch vụ cho thấy, dịch vụ có hai đặc trưng so
với công việc không mang tính dịch vụ là tính chuyên nghiệp và tính sinh kế của
người thực hiện công việc. Điều 519 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định chưa cụ thể
nên dẫn đến trong thực tiễn xét xử, nhiều Tòa án áp dụng quy định dành cho Hợp đồng
dịch vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng nếu hợp đồng có đối tượng là công việc.
Hai là, chưa quy định về nghĩa vụ tiền hợp đồng dành cho các nhà cung ứng
dịch vụ chuyên nghiệp. Trong quy định về hợp đồng dân sự nói chung, Việt Nam chưa
thừa nhận các nghĩa vụ tiền hợp đồng. Nhiều nghĩa vụ như cung cấp thông tin, tài liệu,
yêu cầu… thường phải thực hiện trước khi hợp đồng được giao kết để xác định phạm
vi đối tượng. Trong pháp luật của Liên minh Châu Âu đã xây dựng thống nhất một số
nguyên tắc chung, trong đó có nguyên tắc chung về Hợp đồng dịch vụ (Principle of
European Law: service contracts - viết tắt PEL SC) quy định về nghĩa vụ tiền hợp
đồng dành cho các nhà cung ứng dịch vụ như Điều 1:103 quy định nghĩa vụ cảnh báo
trước hợp đồng mà bên cung ứng dịch vụ…
Ba là, chưa quy định về tiêu chuẩn dịch vụ nói chung. Dịch vụ rất đa dạng và
bản thân mỗi dịch vụ có một tiêu chuẩn khác nhau hoặc mỗi nhà cung ứng dịch vụ sẽ
cung cấp dịch vụ ở một tiêu chuẩn nhất định. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận về chất lượng dịch vụ thì pháp luật cần đưa ra các phương thức
xác định tiêu chuẩn dịch vụ.
Bốn là, không quy định về thời điểm thực hiện dịch vụ. Về nguyên tắc, sau khi
Hợp đồng dịch vụ được giao kết và có hiệu lực, các bên thực hiện các quyền và nghĩa
vụ được thỏa thuận, ghi nhận trong hợp đồng. Tuy nhiên, đối với một nhà cung ứng
dịch vụ chuyên nghiệp, pháp luật cần phải có quy định mang tính chất chặt chẽ hơn.
Thời điểm thực hiện dịch vụ cần được tham khảo trong pháp luật một số quốc gia, khu
vực, đặc biệt là PEL SC.
Năm là, cần thay đổi góc nhìn đối với việc giao thực hiện dịch vụ cho người thứ
ba. Theo quy định của pháp luật thì bên cung ứng dịch vụ phải tự mình thực hiện công
việc, không được phép giao cho người khác thực hiện thay công việc. Bộ luật Dân sự
năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định này trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên,
dịch vụ là một hoạt động kinh tế đỉnh cao và chất lượng dịch vụ được đảm bảo bởi sự
chuyên nghiệp. Nếu pháp luật tiếp tục quy định như vậy thì sẽ giảm bớt tính năng
động, linh hoạt cho các nhà cung ứng dịch vụ.
KẾT LUẬN
Với những phân tích trên bài viết đã làm rõ những khái niệm, đặc điểm, nội
dung về hợp đồng dịch vụ. Trong đó đã làm sáng tỏ được những điểm mới trong hợp
đồng dịch vụ. Ngoài ra bài viết đã làm rõ vấn đề thỏa thuận hợp đồng dịch vụ đối với
các doanh nghiệp hiện nay. Hợp đồng dịch vụ sẽ càng ngày càng đóng góp cho sự phát
triển nói riêng của doanh nghiệp Việt Nam và cho sự phát triển của ngành dịch vụ nói
chung. Hợp đồng dịch vụ không chỉ là một công cụ pháp lý mà qua đó nhu cầu trao
đổi, giao lưu của người được thực thi và bảo đảm, giúp cho luồng lưu thông hàng hóa,
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội và nền kinh tế. Vì vậy các doanh
nghiệp cần phải có những nghiên cứu cụ thể về hợp đồng thương mại dịch vụ để tránh
những rủi ro pháp lý mà loại hợp đồng này có thể mang lại.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu còn nhiều điểm thiếu sót và hạn chế. Em
rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo và các bạn.