Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Án lệ và áp dụng án lệ trong việc giải quyết vụ án dân sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.58 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................................... 2
NỘI DUNG.............................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ÁN LỆ.........................................................................3
1.1. Án lệ............................................................................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm về án lệ..................................................................................................3
1.1.2. Tính chất, đặc điểm của án lệ................................................................................4
1.1.3. Ưu điểm, nhược điểm của án lệ.............................................................................5
1.2. Quy trình hình thành nên án lệ.....................................................................................6
1.3. Quy trình sửa đổi án lệ.................................................................................................7
CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY......................................................................................................................................... 9
2.1. Quy trình lựa chọn và áp dụng án lệ.............................................................................9
2.2. Áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay.......................12
CHƯƠNG 3. CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................................17
3.1. Đề xuất....................................................................................................................... 17
3.2 Kiến nghị...................................................................................................................... 17
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................... 21

1


LỜI NÓI ĐẦU
Xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ chiến
lược của đảng và nhà nước ta. Áp dụng án lệ ở nước ta hứa hẹn sẽ đem lại nhiều đổi
thay cho hệ thống pháp luật và tư duy pháp lí hiện tại, tuy nhiên cho tới nay nó vẫn
chưa được công nhận. Có một cái nhìn cụ thể hơn về án lệ và đề xuất phương cách áp
dụng án lệ là đều cần phải thực hiện để tránh tình trạng tụt hậu, hổng pháp luật…trong
quá trình hội nhập toàn diện, nhiều phức tạp hiện nay.


Đứng trước thực tại như vậy, bài nghiên cứu sau đây của em ra đời; một mặt xuất
phát từ nhu cầu bản thân đó là: Muốn tiếp cận với phương pháp nghiên cứu khoa học –
phương pháp học tập hoàn toàn mới lạ đối với bản thân.Cần đi sâu vào một số vấn đề
chưa được làm sáng tỏ trong quá trình học tập. Có mong muốn góp phần kiện toàn hơn
nữa hệ thống pháp luật nước nhà.
Trong phạm vi của một bài báo cáo, đề tài nghiên cứu tập trung làm rõ cơ sở lí
thuyết về án lệ nói chung và áp dụng án lệ nói riêng. Đồng thời với đó, bài nghiên cứu
chỉ ra một số mô hình áp dụng án lệ trong việc giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam,
cũng như phân tích tình hình hệ thống luật pháp dựa trên sự tổng hợp ý kiến của các
chuyên gia, để có thể đưa ra một số giải pháp nhằm áp dụng án lệ tại Việt Nam.
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống là phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp xã hội học, tổng hợp, phân tích…. dựa trên chủ
nghĩa Mac-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng nhà nước pháp quyền và một số tư
tưởng về nhà nước và pháp luật của các học giả phương tây.
Cũng qua đây, em xin được đề xuất một số ý kiến về tính khả thi của việc áp
dụng án lệ thông qua góc nhìn của sinh viên. Mong rằng thông qua chút đóng góp nhỏ
bé này, vấn đề án lệ sẽ được nhìn nhận một cách trực diện hơn, đúng đắn hơn trên cơ
sở thượng tôn pháp luật, tôn trọng khoa học và đặt lợi ích cho đất nước lên hàng đầu.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ÁN LỆ
1.1. Án lệ
1.1.1. Khái niệm về án lệ
Trên thế giới hiện nay đã hình thành hai hệ thống án lệ chủ yếu như đã nói ở trên
gồm có hệ thống pháp luật thông luật (Common Law) và hệ thống pháp luật dân sự
(Civil Law). Và để có cái nhìn toàn diện nhất và chính xác nhất về án lệ cũng như tiến
trình hình thành, quy trình sửa đổi chúng ta cần có kiến thức khái quát nhất về khái

niệm án lệ.
Theo từ điển Black’s Law thì, án lệ (precedent) có hai nghĩa:“ Một là sự làm
luật bởi tòa án trong việc nhận thức và áp dụng những quy định mới trong khi thi
hành công lý. Hai là một vụ việc đã được quyết định mà cung cấp cơ sở để quyết
định cho những vụ việc liên quan đến các sự kiện hoặc vấn đề tương tự”.
Trong pháp luật, án lệ là một vụ việc đã được xét xử hoặc quyết định của tòa án
được xem như sự cung cấp quy định hoặc quyền lực cho quyết định của một vụ việc
giống hoặc tương tự xảy ra về sau, hoặc khi nếu các sự kiện là khác nhau thì nguyên
tắc chi phối vụ việc đầu tiên có thể áp dụng được cho các sự kiện khác nhau chút ít.
Một án lệ là một quyết định của tòa án chứa đựng trong nó một nguyên tắc.
Nguyên lý cơ bản giống như mẫu mà phần có căn cứ đích xác của nó thường được gọi
là nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một trường hợp cụ thể là bắt buộc đối
với các bên, nhưng nó là bản tóm tắt của nguyên tắc pháp lí cho một phán quyết trong
một trường hợp cụ thể mà chỉ có nó có hiệu lực pháp luật.
Cũng có thể nói một cách khái quát là, một vụ việc trở thành án lệ vì quy định
chung như vậy là cần thiết đối với quyết định thực tế có thể được đưa ra là sự biến
dạng trong những trường hợp phụ.
Thường cũng có thể chấp nhận, tôn trọng một án lệ không phải bởi nó bao quát
một logic ổn định mà bởi từ các phần của nó có thể nảy sinh ra ý tưởng về mẫu mới
của quyết định.
Từ điển này còn giải thích: án lệ bắt buộc là án lệ mà tòa án bắt buộc phải tuân
theo, ví dụ, tòa án cấp thấp hơn bị giới hạn bởi một cách áp dụng của một toà án cấp
cao hơn trong một vụ xét xử tương tự. Án lệ để giải thích là án lệ chỉ có thể được áp
dụng cho một quy định pháp luật hiện đã có rồi. Án lệ gốc là án lệ tạo ra và áp dụng
3


một quy định mới của pháp luật. Án lệ có sức thuyết phục là một án lệ mà tòa án có
thể hoặc là tuân theo hoặc là từ chối, nhưng điều khoản của nó phải được tôn trọng và
cân nhắc cẩn thận.

Từ quan niệm trên có thể hiểu án lệ là quyết định hoặc lập luận, nguyên tắc hoặc
sự giải thích pháp luật do tòa án đưa ra khi giải quyết một vụ việc cụ thể được nhà
nước thừa nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để tòa án dựa vào đó đưa ra quyết định hoặc
lập luận để giải quyết vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự.
Án lệ được coi là nguồn của pháp luật và được chia làm hai loại là án lệ mang
tính bắt buộc áp dụng (binding precedent,authoritative precedent) như án lệ của toà án
cấp trên bắt buộc toà án cấp dưới cùng phân hệ phải tuân thủ và án lệ không mang tính
bắt buộc áp dụng (persuasive precedent) như án lệ của toà án cùng cấp có thể áp dụng
hoặc chỉ để tham khảo.
1.1.2. Tính chất, đặc điểm của án lệ
Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước thuộc hệ thống
“Common Law”. Đặc điểm của nó được xác định bởi các phương pháp được sử dụng
để tạo ra án lệ và văn hóa pháp lí đặc biệt với những đòi hỏi, nguyên tắc áp dụng án lệ.
Án lệ có những đặc điểm sau:
Án lệ do thẩm phán tạo ra và để giải quyết các vụ việc cụ thể. Tuy nhiên không
phải bản án của bất kì cấp tòa án nào cũng được coi là án lệ mà nó phải được thông
qua một số trình tự, thủ tục nhất định tùy theo quy định của mỗi quốc gia.
Án lệ có tính khuôn mẫu, điều này thể hiện ở việc khi bản án được công nhận là
án lệ thì nó sẽ được lấy làm khuôn mẫu cho các vụ việc có tính chất tương tự và sẽ
được sử dụng nhiều lần.
Án lệ có tính bắt buộc, có nghĩa là nếu bản án được đem ra sử dụng cho vụ việc
có tính chất tương tự nhưng chỉ để tham khảo thì không được coi là án lệ mà bản án đó
phải là khuôn mẫu buộc các thẩm phán phải áp dụng đối với các vụ án tương tự sau
này.
Việc sử dụng án lệ được coi trọng dựa trên nguyên tắc “Stare decisis” nghĩa là
phải tuân theo các phán quyết đã có.Nguyên tắc này bắt nguồn từ việc Common law
được tạo ra không phải bởi các văn bản pháp luật mà bằng việc các toà án sử dụng
quyết định của toà án như một tiền lệ. Nguyên tắc Stare decisis phát triển rất nhanh và

4



do vậy các quyết định của toà trước đây được đưa ra trong vụ việc tương tự phải được
tuân thủ, nghĩa là án lệ phải được tôn trọng.
Tư tưởng cơ bản của việc áp dụng án lệ là nếu một vụ án được xét xử một cách
khách quan đưa lại công bằng, công lý trong xã hội thì nó có thể được coi là những
bản án mẫu mực để áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau. Khi áp dụng án lệ Thẩm
phán phải phân tích kĩ các bản án để có những quyết định sáng suốt phù hợp với tư
tưởng của pháp luật, không đi ngược lại với đạo đức.
1.1.3. Ưu điểm, nhược điểm của án lệ
Án lệ đã có lịch sử hình thành và sử dụng lâu dài trong hệ thống pháp luật
Common law. Do vậy hiệu quả mà án lệ đem lại là không ít:
Đề cập đến những vụ việc đã xảy ra trong thực tế mà không phải là những giả
thuyết có tính lý luận về những tình huống có thể xảy ra trong tương lai, vì vậy nó
thường phong phú và đa dạng hơn so với pháp luật thành văn.
Góp phần bổ sung cho những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn
và khắc phục được tình trạng thiếu pháp luật
Án lệ cũng góp phần giải thích và vận dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ
thể. Những trường hợp thẩm phán phải giải thích và vận dụng pháp luật rất đa dạng,
do pháp luật quy định không rõ ràng, quy định một cách vô lý hay đã bị lạc hậu so với
tình hình thực tế mà nhà lập pháp chưa có điều kiện hay vì một lý do nào đó chưa thay
thế bằng một quy định mới. Do đó chức năng bổ khuyết cho pháp luật giúp cho án lệ
có vai trò lớn trong việc tạo nguồn quy phạm cho pháp luật.
Với sự trợ giúp của án lệ các vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn khi chưa
có luật thành văn điều chỉnh.
Tạo sự thống nhất trong công tác xét xử giữa các cấp toà án.
Án lệ cũng góp phần nâng cao trình độ của các thẩm phán, luật sư…do đòi hỏi
của việc xét xử và tranh tụng nên họ cần phải tìm hiểu về rất nhiều án lệ.
Án lệ là biện pháp hữu hiệu để phòng chống tham nhũng trong ngành tư pháp.
Đối với các vụ án tương tự nhau hoặc giống nhau thì thẩm phán không thể tham nhũng

để xử ưu đãi cho một bên được.
Các án lệ của Toà án tối cao cũng có đóng góp quan trọng trong việc thiết lập các
biện pháp bảo đảm các quyền của công dân trong quan hệ tố tụng.

5


Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực trên việc áp dụng án lệ cũng có những
nhược điểm nhất định. Đó là:
Sự nghiêm ngặt: án lệ bắt buộc áp dụng đã trở thành lực cản đối với sự sáng tạo
của các Thẩm phán khi xét xử bởi họ phải tuân thủ án lệ một cách nghiêm ngặt.
Nguy cơ của việc so sánh không logic, tuỳ tiện giữa vụ án lệ đang xét xử với án
lệ để tránh việc áp dụng án lệ cho vụ án đang xét xử.
Áp dụng phức tạp: khối lượng lớn án lệ và sự pháp tạp truy cứu chúng là khó
khăn lớn đối với các thẩm phán và luật sư.
Với những ưu điểm mà án lệ mang lại cũng chính là một trong những lý do quan
trọng để các quốc gia sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử của nước mình. Ngoài ra
các hạn chế của án lệ cũng đang được khắc phục và điều chỉnh để việc áp dụng án lệ
đạt được hiệu quả như mong muốn trong thực tiễn.
Việc sử dụng án lệ cũng đang được các quốc gia theo truyền thống luật thành văn
thực hiện ở một mức độ nhất định. Điều đó cho thấy án lệ ngày càng có vị trí quan
trọng trong các hệ thống luật thành văn trên thế giới.
1.2. Quy trình hình thành nên án lệ
Án lệ cũng như các nguồn pháp luật khác cũng có cơ chế hình thành riêng. Về
nguyên tắc, mỗi bản án là một quyết định cá biệt chỉ có hiệu lực áp dụng đối với vụ
việc mà nó giải quyết chứ không có hiệu lực áp dụng chung đối với các vụ việc khác.
Thông thường để hình thành án lệ trước hết phải có bản án. Bản án chính là chất
liệu đầu tiên hình thành nên án lệ. Nội dung của bản án thường bao gồm hai phần:
Phần nội dung của vụ việc và phần quyết định của toà án. Phần nội dung của vụ việc
bao gồm hai phần là phần trình bày của các bên và phần nhận định của Toà án. Trong

các phần trên, phần nhận định của Toà án chính là phần có giá trị nhất trong việc hình
thành án lệ. Trong phần nhận định này, Thẩm phán thể hiện quan điểm của mình về
hướng giải quyết vụ việc cũng như về những vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ việc. Và
nếu quan điểm này phù hợp với yêu cầu thực tế và phù hợp với trật tự pháp lý thì sẽ
có xu hướng trở thành một quy phạm án lệ có khả năng áp dụng cho các vụ việc tương
tự.
Hạt nhân đầu tiên để hình thành nên một án lệ chính là bản án, trong đó phần
nhận định của Thẩm phán là phần quan trọng nhất. Tuy nhiên, để trở thành án lệ, quan
điểm nhận định này phải trở thành quan điểm chung của các Toà án khi giải quyết các
6


vụ việc tương tự. Như vậy, ở đây xuất hiện một yếu tố thứ hai tham gia vào quá trình
hình thành án lệ đó là yếu tố tiền lệ. Nói cách khác, để có án lệ thì phải có tiền lệ, tức
là trước đó đã từng có nhiều bản án đưa ra cách giải quyết tương tự đối với những
trường hợp tương tự, rồi dần hình thành nên một tiền lệ trong việc giải quyết các
trường hợp đó.
Ngoài hai yếu tố trên (bản án và tiền lệ) còn có một yếu tố thứ ba tham gia vào
việc hình thành án lệ đó là yếu tố thống nhất hoá thông qua vai trò giám sát của Toà
án cấp trên đối với toà án cấp dưới. Chính vai trò giám sát này thể hiện qua cơ quan
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm sẽ đảm bảo hình thành một án lệ
thống nhất cho một địa phương hoặc cho toàn quốc.
Trong quá trình hình thành án lệ, còn có một yếu tố nữa có vai trò rất quan trọng đó
là công tác thông tin tuyên truyền về án lệ nhằm công khai hoá và phổ biến rộng rãi các
bản án và quyết định của toà án các cấp. Sẽ không thể có án lệ nếu các bản án quyết định
của Toà án không được công khai rộng rãi để mọi người cùng biết và tham khảo. Đây
cũng chính là một trong những quy trình thể hiện tính thực tế của án lệ, để án lệ thực sự đi
vào tư duy pháp lý của mọi người dân.
Tóm lại, quá trình hình thành án lệ bao gồm ba yếu tố cơ bản: bản án, tiền lệ và
yếu tố thống nhất hoá. Với quy trình này việc hiện diện của án lệ sẽ không còn quá xa

lạ với tất cả mọi người và nó cũng đảm bảo cho sự tồn tại khách quan của án lệ trong
hệ thống pháp luật tại Việt Nam.
1.3. Quy trình sửa đổi án lệ
Nhìn chung, việc thay đổi này dường như xuất phát từ hai lý do:
Thứ nhất: Bản thân án lệ ngay từ đầu đã bất hợp lý nên việc thay đổi là cần thiết.
Thứ hai: án lệ hoàn toàn hợp lý trong một khoảng thời gian nhưng với sự phát
triển của xã hội, quy phạm tiềm ẩn trong án lệ không còn phù hợp nữa nên cũng cần
thay đổi.
Thay đổi án lệ tức là thay đổi quy phạm, thay đổi cách xử lý đối với những vụ
việc tương tự. Việc sửa đổi, thay đổi án lệ xảy ra khi toà án cấp dưới xét xử khác với
toà án cấp trên trong trường hợp có kháng nghị giám đốc thẩm thì bản án sẽ bị huỷ
hoặc bị sửa lại. Do vậy cơ quan có thẩm quyền trong việc thay đổi án lệ đó là toà án
cao nhất – toà án tối cao.

7


Quy trình sửa đổi này sẽ dựa trên những tính chất, đặc điểm của bản án cũng như
thời điểm phù hợp với bản án và những quan niệm mới trong cách nhìn nhận vụ việc
của cộng đồng và các chuyên gia về luật.

8


CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Áp dụng án lệ được xem là phương thức hiệu quả góp phần nâng cao năng lực
của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại, đặc biệt là những
tranh chấp có yếu tố nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Quy trình lựa chọn và áp dụng án lệ

Hội đồng thấm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết
03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Theo đó, sử dụng
án lệ như là một phương thức mới của Tòa án trong việc áp dụng thống nhất pháp luật
khi xét xử. Dựa trên quy trình lựa chọn cùng với sự góp ý tích cực của Hội đồng tư
vấn án lệ và các nhà khoa học pháp lý, các Thẩm phán trực tiếp xét xử, TANDTC đã
ban hành Quyết định 220/QĐ-CA công bố 6 án lệ đầu tiên của Việt Nam vào ngày
06/4/2016. Có thể xem đây là một dấu mốc quan trọng của tiến trình cải cách tư pháp.
Án lệ có tính thực tiễn cao vì nó tập trung vào việc giải quyết vấn đề cụ thể của
đời sống chứ không phải giải quyết vấn đề bằng các lý thuyết chung chung trừu tượng.
Đồng thời, án lệ khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và kịp thời
trong khi các quy phạm trong các văn bản pháp luật mang tính ổn định, có một số quan
hệ xã hội mới phát sinh mà pháp luật chưa dự liệu được do đó chưa thể giải quyết thì
án lệ có thể giải quyết các trường hợp này một cách nhanh chóng.
Án lệ được hiểu là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ
để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Cụ thể:
Thứ nhất, án lệ là những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau. Trên thực tế, không thiếu trường hợp cùng về một vấn đề nhưng có nhiều
cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng với nhau. Do đó, việc đưa ra một cách hiểu chung, thống nhất cho một
vấn đề pháp lý cụ thể trong vụ việc dân sự không phải điều dễ dàng. Tùy theo từng
trường hợp cụ thể mà Thẩm phán, Hội đồng xét xử sẽ phân tích, đưa ra lập luận, lý
giải quy định còn có cách hiểu khác nhau hoặc giải thích lý do lựa chọn, áp dụng một
hoặc một số điều luật từ đó đưa ra phương hướng giải quyết vụ việc dân sự.
9


Thứ hai, án lệ là phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý làm cơ sở cho
Tòa án chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng. Theo

đó, Tòa án tập quán, quy định tương tự của pháp luật để đưa ra phán quyết trong bản
án, quyết định. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cách thức giải quyết như sau:
+ Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có
thể áp dụng tập quán;
+ Trường hợp không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp
luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp
luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ
việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Tòa án áp dụng theo các nguyên tắc
do Bộ luật Dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ việc dân sự.
Như vậy, án lệ được xác lập nhằm bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật
trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật cần áp dụng chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn đặt ra và khi có những vụ việc dân sự mà vấn đề pháp lý
cần được giải quyết chưa được pháp luật quy định hoặc các bên đương sự không có
thỏa thuận.
Để áp dụng được án lệ, thì vụ việc dân sự cần đáp ứng được điều kiện:
+ Có sự tương đồng hoặc tương tự về các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc
dân sự đang giải quyết với các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc dân sự trong
bản án, quyết định có chứa đựng án lệ;
+ Vấn đề pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý
cũng tương đồng hoặc tương tự như vấn đề pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ.
Việc áp dụng án lệ cần phải đáp ứng các nguyên tắc theo điều 8 Nghị quyết 03.
18 bản án, quyết định được lựa chọn gồm: 8 bản án dân sự; 5 bản án hình sự; 4 bản án
thương mại và 1 bản án hành chính để phát triển thành án lệ theo Nghị quyết số
03/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về quy trình lựa chọn, công bố
và áp dụng án lệ:
Bảng 1. Nguồn án lệ trong các vụ án dân sự ở Việt Nam
STT
1


Nguồn án lệ
Quyết định giám đốc thẩm số 28/2011/DS-GĐT ngày 18-8-2011 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất”.
10


Quyết định giám đốc thẩm số 03/2014/DS-GĐT ngày 09/01/2014 của Hội
2 đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng

3
4

quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất".
Quyết định giám đốc thẩm số 12/2012/DS-GĐT ngày 13/01/2012 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Đòi tài sản”
Quyết định giám đốc thẩm số 52/2014/DS-GĐT ngày 21/11/2014 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp thừa kế tài sản".
Quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS-GĐT ngày 23/9/2013 của Hội

5 đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử

6
7
8

dụng nhà”.
Quyết định giám đốc thẩm số 28/2011/DS-GĐT ngày 18-8-2011 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu nhà, đất”.
Quyết định giám đốc thẩm số 83/2013/DS-GĐT ngày 08/7/2013 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.

Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC về vụ án dân sự “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2014/HSPT1 ngày 12/6/2014 của Tòa án

9 Quân sự Trung ương về vụ án Lưu Thị Hồng, Trương Văn Doãn phạm
tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2015/HS-GĐT ngày 17/12/2015 của Hội
10 đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án hình sự đối với Phan Văn Trường,
Nguyễn Văn Đông, Phan Bá Cường về "Tội giết người".
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2016/HS-GĐT ngày 16/6/2016 của Hội đồng
11 Thẩm phán TANDTC về vụ án hình sự đối với Trịnh Văn Thanh về tội "Vi
phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai".
Quyết định giám đốc thẩm số 29/2010/HS-GĐT ngày 01/11/2010 của Hội
12 đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án hình sự đối với Lê Thị Lan Anh về
tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2015/HSPT1 ngày 14/01/2015 của Tòa án
13 Quân sự Trung ương về vụ án Nguyễn Văn Anh và các đồng phạm phạm

14

tội "Cướp giật tài sản".
Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp hợp đồng tín dụng".
15 Quyết định giám đốc thẩm số 02/KDTM-GĐT ngày 09/01/2014 của Hội đồng
11


Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp hợp đồng tín dụng".
Quyết định giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội

16 đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp về hợp đồng mua bán

17

hàng hóa".
Quyết định giám đốc thẩm số 10/2016/KDTM-GĐT ngày 20/6/2016 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC về vụ án "Tranh chấp hợp đồng tín dụng".
Quyết định giám đốc thẩm số 08/2014/HC-GĐT ngày 19/8/2014 của Hội đồng

18 Thẩm phán TANDTC về vụ án hành chính "Khiếu kiện Quyết định bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất".
Vào ngày 22/9/2016, Hội đồng Tư vấn Án lệ đã tổ chức phiên họp để xem xét
các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án dự kiến đề xuất phát triển
thành án lệ và các dự thảo án lệ. Theo đó, Vụ pháp chế và quản lý khoa học tiếp thu,
tổng hợp, giải trình từng vấn đề liên quan đến các dự thảo án lệ để dự kiến trình Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua vào đầu tháng 10/2016.
2.2. Áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay
Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015 thì: “Khi xét xử,
thẩm phán, hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương
tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải
quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì... tính chất, tình tiết vụ việc tương tự
được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp
lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà
án”.
Như vậy, theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015 nêu trên, để
áp dụng án lệ, thì có hai vấn đề phải xác định cho được là các tình tiết khách quan và
vấn đề pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý có giống
với các tình tiết khách quan và vấn đề pháp lý đã được giải quyết trong bản án, quyết
định có chứa đựng án lệ hay không. Do đó, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng án lệ,
cần phải lưu ý một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, nguồn gốc của sự giống nhau giữa vụ án dân sự này với vụ án dân sự
khác hoặc giữa việc dân sự này với việc dân sự khác là xuất phát từ việc tranh chấp
hoặc yêu cầu trong vụ việc dân sự đó phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự. Tuy
nhiên, cho dù phát sinh từ cùng một loại quan hệ dân sự, cần phải khẳng định rằng trên
12


thực tế không có các vụ việc dân sự mà các tình tiết khách quan của vụ việc này lại
giống hoàn toàn với vụ việc khác. Do đó, sẽ là phi thực tế nếu cho rằng án lệ chỉ được
áp dụng khi và chỉ khi các tình tiết khách quan của vụ việc dân sự đang giải quyết phải
giống hoàn toàn các tình tiết khách quan của vụ việc dân sự trong bản án, quyết định
có chứa đựng án lệ. Ở các nước mà Tòa án áp dụng án lệ để xét xử, giải quyết vụ việc
dân sự, thì theo kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài, án lệ chỉ được áp dụng
khi “các tình tiết khách quan cơ bản” của vụ việc dân sự đang được giải quyết được
xác định là tương tự với “các tình tiết khách quan cơ bản” của vụ việc dân sự trong
bản án, quyết định có chứa đựng án lệ. Các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc dân
sự là các tình tiết chính của vụ việc đó, phản ánh về nội dung mối quan hệ dân sự đang
phát sinh tranh chấp hoặc có yêu cầu giải quyết. Nói cách khác, đây là những tình tiết
quan trọng làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự.
Như vậy, theo tác giả, đây là cách tiếp cận phù hợp nhất để vận dụng trong việc
thống nhất nhận thức về hướng dẫn “những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống
nhau” tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015. Theo đó, việc áp dụng án lệ chỉ được
thực hiện khi vụ việc dân sự đang được giải quyết và vụ việc dân sự trong bản án,
quyết định có chứa đựng án lệ được thẩm phán, hội thẩm, hội đồng xét xử, hội đồng
giải quyết thống nhất là có sự tương đồng về các tình tiết khách quan cơ bản. Nếu các
tình tiết khách quan cơ bản này chỉ giống nhau một phần hoặc phần lớn thì không
được áp dụng án lệ.
Thứ hai, trong mỗi vụ việc dân sự thì các vấn đề pháp lý mà các đương sự yêu
cầu Tòa án giải quyết là khác nhau, theo đó có vấn đề pháp lý thì đã được pháp luật
quy định rõ, hướng dẫn chi tiết hoặc có vấn đề pháp lý lại chưa được pháp luật quy

định hoặc quy định chưa đủ rõ và chi tiết để thực hiện.
Do đó, tùy trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định, lựa chọn các quy định cụ thể
của pháp luật phù hợp để áp dụng hoặc đưa ra nguyên tắc, đường lối xử lý để giải
quyết nếu vấn đề pháp lý trong vụ việc dân sự chưa được điều chỉnh bằng pháp luật
hoặc chưa được pháp luật quy định và các bên không có thỏa thuận. Theo định nghĩa
về án lệ tại Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số 03/2015, thì án lệ chỉ được xác lập để
giải quyết vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến lựa chọn quy định cụ thể của pháp
luật để áp dụng mà quy định của pháp luật đó còn có cách hiểu khách nhau hoặc lựa

13


chọn, xác lập nguyên tắc, đường lối xử lý trong trường hợp pháp luật chưa có quy
định.
Như vậy, khi đã có án lệ, thì thẩm phán, hội thẩm phải xem xét, so sánh vấn đề
pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý với vấn đề pháp
lý đã được giải quyết bằng án lệ nhằm tìm ra sự tương đồng hay khác biệt, làm cơ sở
quyết định áp dụng hay không áp dụng án lệ đó. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý rằng trên
phương diện pháp luật áp dụng, thì án lệ bao gồm hai loại: án lệ về áp dụng pháp luật
nội dung và án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng.
Do đó, tùy từng vụ việc dân sự mà Tòa án áp dụng một trong hai loại án lệ nêu
trên để giải quyết. Tuy nhiên, việc phân loại án lệ này cũng chỉ mang tính chất tương
đối; bởi lẽ, cũng có một số loại án lệ về áp dụng pháp luật tố tụng được xác lập trên
nền tảng các quy định của pháp luật nội dung. Vì vậy, án lệ về pháp luật tố tụng cũng
có thể được áp dụng cho các vụ việc dân sự mà quan hệ dân sự phát sinh tranh chấp
hay phát sinh yêu cầu trong vụ việc dân sự đó khác với quan hệ dân sự trong vụ việc
dân sự đã được giải quyết bằng án lệ nhưng yêu cầu pháp lý cần phải giải quyết trong
vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý là tương tự với yêu cầu pháp lý đã được giải quyết
bằng án lệ.
Tóm lại, để áp dụng được án lệ, thì vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý cần đáp

ứng được hai điều kiện:
+ Có sự tương đồng hoặc tương tự về các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc
dân sự đang giải quyết với các tình tiết khách quan cơ bản của vụ việc dân sự trong
bản án, quyết định có chứa đựng án lệ;
+ Vấn đề pháp lý cần được giải quyết trong vụ việc dân sự mà Tòa án đã thụ lý
cũng tương đồng hoặc tương tự như vấn đề pháp lý đã được giải quyết bằng án lệ.
Ví dụ: Giả định rằng vụ án chia di sản thừa kế mà nguyên đơn chứng minh được
yếu tố “trở ngại khách quan, không tính vào thời hiệu khởi kiện” nêu tại Phần 1 bài
viết này được chọn làm án lệ (Sau đây gọi là án lệ số 1). Những tình tiết khách quan
cơ bản của vụ án có án lệ số 1 này là:
a) Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện sau khi thời hiệu khởi kiện đã hết;
b) Thời hiệu mà nguyên đơn có quyền khởi kiện trùng với thời gian chấp hành
hình phạt tù của nguyên đơn;

14


c) Ông nội của nguyên đơn chết trong thời gian mà nguyên đơn đang chấp hành
án phạt tù nhưng nguyên đơn không biết được việc này;
d) Trong thời gian chấp hành án phạt tù nguyên đơn không liên lạc được với bị
đơn và bị đơn không liên lạc, tiếp xúc với nguyên đơn.
Sau khi có án lệ số 1 nêu trên, giả định rằng có một số vụ án về chia thừa kế sau
đây được Tòa án thụ lý để giải quyết:
- Vụ án số 1: Vụ án chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà có các tình
tiết cơ bản tương tự như các tình tiết cơ bản (a, b, c và d) của vụ án có án lệ số 1.
- Vụ án số 2: Vụ án chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà có các tình
tiết cơ bản tương tự như các tình tiết cơ bản (a, b và c) của vụ án có án lệ số 1, ngoại
trừ các tình tiết nguyên đơn và bị đơn có liên lạc, tiếp xúc với nhau theo chế độ gặp
thân nhân nhưng bị đơn thừa nhận không thông báo cho nguyên đơn về việc ông nội
của hai người đã chết.

- Vụ án số 3: Vụ án chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà có các tình
tiết cơ bản tương tự như các tình tiết cơ bản (a và b) của vụ án có án lệ số 1; ngoại trừ
các tình tiết nguyên đơn và bị đơn có gặp nhau tại trại giam tỉnh B theo chế độ gặp
thân nhân, nhưng nguyên đơn không công nhận là bị đơn có thông báo cho nguyên
đơn biết về việc ông nội của hai người đã chết.
- Vụ án số 4: Nguyên đơn vốn là bị hại trong một vụ buôn bán người xuyên quốc
gia. Sau một thời gian bị lưu giữ trái phép ở nước ngoài, nguyên đơn được giải cứu về
Việt Nam. Trong cùng thời gian mà nguyên đơn bị lưu giữ trái phép ở nước ngoài thì
ông nội của nguyên đơn ở Việt Nam chết. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
tài sản của ông nội để lại nhưng bị đơn phản đối cho rằng thời hiệu mà nguyên đơn có
quyền khởi kiện chia di sản thừa kế đã hết.
Theo em, trong 4 vụ án nói trên, thì vụ án số 1 áp dụng được án lệ số 1. Bởi lẽ,
các tình tiết khách quan cơ bản và vấn đề pháp lý cần giải quyết của vụ án này với các
tình tiết khách quan cơ bản và vấn đề pháp lý của vụ án có án lệ số 1 là tương tự như
nhau. Theo đó, cả hai vụ án đều phát sinh từ quan hệ về thừa kế tài sản và vấn đề pháp
lý cần phải giải quyết là vấn đề thời hiệu khởi kiện đã hết hay chưa.
Đối với vụ án số 2 và vụ án số 3, khả năng áp dụng được án lệ số 1 hay không
phụ thuộc rất nhiều vào lý do tại sao bị đơn không thông báo cho nguyên đơn biết ông
nội của hai người đã chết cũng như làm rõ được tình tiết bị đơn có thông báo cho
15


nguyên đơn về việc ông nội của hai người đã chết hay không. Bởi lẽ, theo án lệ số 1
thì “trở ngại khách quan” dẫn đến nguyên đơn không biết ông nội của nguyên đơn đã
chết là việc nguyên đơn không liên lạc, tiếp xúc được với người thân thích hoặc không
có nguồn thông tin khác để biết được ông nội của nguyên đơn đã chết. Trong hai vụ án
này (vụ án số 2 và vụ án số 3), nguyên đơn và bị đơn đã có sự liên lạc, tiếp xúc trực
tiếp với nhau. Do đó, về nguyên tắc, không có gì cản trở để nguyên đơn và bị đơn trao
đổi với nhau về tình hình, tin tức gia đình và người thân thích.
Đối với vụ án số 4, theo tác giả thì không áp dụng được án lệ số 1. Bởi lẽ có sự

khác biệt giữa tình tiết nguyên đơn thi hành án phạt tù và tình tiết nguyên đơn bị giữ
bất hợp pháp ở nước ngoài. Tình tiết nguyên đơn bị giữ bất hợp pháp, không thể liên
lạc được với người thân thích Việt Nam, với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hay
của nước ngoài phải được coi là một ví dụ mới về khái niệm trở ngại khách quan,
không tính vào thời kiện kiện quy định tại khoản 1 Điều 161 của Bộ luật Dân sự. Có
thể nói đây là án lệ mới cho việc làm rõ khái niệm “trở ngại khách quan” quy định tại
Bộ luật Dân sự năm 2005.
Trên đây là một số phân tích cơ bản của em về án lệ áp dụng trong giải quyết vụ
án dân sự ở Việt Nam hiện nay, việc áp dụng án lệ được hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trên phương diện xét xử,
giải quyết vụ việc dân sự. Việc áp dụng án lệ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta cũng như tạo điều
kiện cho việc pháp luật được áp dụng thống nhất trong công tác xét xử tại Tòa án. Tuy
nhiên, đây là một loại phương thức mới để thực hiện công tác bảo đảm áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử nên trong thời gian tới việc nghiên cứu, áp dụng án lệ là
phụ thuộc rất lớn vào kết quả lựa chọn, xác định án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao và kỹ năng, kiến thức của thẩm phán, hội thẩm, hội đồng xét xử,
hội đồng giải quyết vụ việc dân sự trong việc áp dụng án lệ.

16


CHƯƠNG 3. CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC ÁP DỤNG ÁN LỆ
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Đề xuất
Án lệ đã và đang trở thành một nguồn luật quan trọng trong việc phát triển, hoàn
thiện hệ thống pháp luật ở một số nước trên thế giới. Việc áp dụng án lệ trong việc giải
quyết vụ án dân sự ở Việt Namhiện nay vẫn còn đang gây nhiều tranh cãi trong giới
làm luật nói chung và các nhà lập pháp nói riêng.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật đang là một trong những tiêu chí quan trọng cho

việc hướng tới xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật chiếm
đa số trong việc thi hành án và các phán quyết của các thẩm phán. Thế nhưng, các văn
bản đó cũng chưa đáp ứng đầy đủ và có tính xác đáng nhất cho việc xét xử các vụ án
có những tính chất đặc biệt, không được quy định một cách rõ ràng gây khó khăn cho
công tác xét xử và phán quyết của tòa án. Với tình hình hiện nay của Việt Nam, khi
công tác áp dụng án lệ mới đang ở những bước cơ sở, vẫn chưa được công nhận hoàn
toàn như một nguồn luật chính thức. Tuy nhiên những người ủng hộ án lệ ở Việt Nam
tin rằng một hệ thống án lệ bên cạnh luật thành văn để bổ sung, hoàn thiện cho nhau sẽ
giải quyết những lỗ hổng hoặc những quy định chưa rõ ràng của pháp luật trong khi
những lỗ hổng này xuất hiện khá nhiều, nhất là trong lĩnh vực phi hình sự.
Quy định về thẩm quyền giải thích pháp luật hiện nay ở Việt Nam cũng là trở
ngại cho việc áp dụng án lệ. Theo quy định này thì thẩm quyền giải thích pháp luật
hiện nay được trao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội trong khi thẩm phán là người trực
tiếp xét xử vụ án. Và chính trong quá trình xét xử thẩm phán phải giải thích về ý nghĩa
và nội dung của từng điều luật cho các đương sự nói riêng và xã hội nói chung. Điều
này gây trở ngại cho việc linh hoạt xét xử của các thẩm phán, khiến quá trình xét xử bị
thụ động, không phát huy được khả năng của thẩm phán.
3.2 Kiến nghị
Trong suốt quá trình tìm hiểu, tổng hợp về án lệ - một loại nguồn pháp luật, em
nghiên cứu đề tài cũng đã hình thành những suy nghĩ và chính kiến của riêng mình về
vấn đề này. Thiết nghĩ đây là một vấn đề lớn, trong phạm vi của một bài nghiên cứu
khoa học em xin được trình bày một vài quan điểm cá nhân nhằm góp phần thể hiện ý

17


chí nguyện vọng của bản thân với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trên
tinh thần bảo vệ công lý.
Việt Nam vốn là một quốc gia theo hệ thống luật thành văn. Các văn bản quy

phạm pháp luật là nguồn chủ yếu cơ bản quan trọng nhất của pháp luật, bởi lẽ các cơ
quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm
quyền của mình chủ yếu dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL). Các
VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật, thể hiện trí
tuệ tập thể nên tính khoa học tương đối cao. Tuy nhiên các VBQPPL vẫn còn có
những hạn chế: chưa dự đoán được hết những tình huống xảy ra trong tương lai dẫn
đến việc chưa có quy phạm pháp luật thành văn kịp thời điều chỉnh những tinh huống
này. Vậy nên việc hiện diện của án lệ là một xu thế tất yếu trước đòi hỏi của thời đại.
Án lệ thực sự là một nguồn pháp luật bổ sung hữu ích cho luật thành văn, điều này đã
được trải nghiệm qua các nước thông luật.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc công nhận án lệ là một nguồn luật
chính thức chưa thực sự phù hợp. Với một số lý do như: trình độ của các thẩm phán
chưa cao. Tỉ lệ án sai, án oan, án phải sửa vẫn chưa hề giảm, điều đó đồng nghĩa với
việc số lượng các vụ án oan trái tăng lên. Trong bối cảnh hội nhập, khi các thẩm phán
chưa có kinh nghiệm về các tranh chấp quốc tế, không được tiếp cận thường xuyên với
án lệ thế giới thì việc áp dụng án lệ quả là một bước đi nguy hiểm.
Hơn thế nữa, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
vai trò của tư pháp, với trung tâm là tòa án cần được nâng cao thì các thẩm phán phải
được tự do tư duy và dùng lí lẽ bảo vệ công lí của mình một cách độc lập, sáng tạo.
Vậy khâu cần giải quyết ở đây là khâu đào tạo nhân lực thực hành luật, cụ thể là thẩm
phán chứ không nên quy kết cho việc dùng nguồn luật nào, vì dù là nguồn luật nào thì
thẩm phán cũng chỉ có nghĩa vụ duy nhất là bảo vệ công lí.
Góp phần ứng dụng được những ưu việt của án lệ, bổ sung cho nguồn pháp luật
Việt Nam, em xin đề ra mấy biện pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất là công khai toàn bộ các bản án của các tòa án nhân dân các cấp. Điều này
có thể thực hiện một cách dễ dàng với một trang web điện tử và một nhân viên kĩ thuật
internet cho mỗi đơn vị tòa án. Việc làm này giúp pháp luật được công khai, thể hiện tính
dân chủ, nâng cao quyền tự do thông tin của người dân. Qua các vụ việc cụ thể, người dân

18



có thể đánh giá, phản biện góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật, phục vụ công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền.
Thứ hai là đăng tải định kì các vụ án giám đốc thẩm, các vụ án tiêu biểu trên các
chuyên trang tạp chí. Các thẩm phán có thể lấy đó là nguồn hữu ích để học hỏi, hay kiến
nghị lên cấp trên, đúc rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao trình độ của mình. Thật là không
công bằng khi chỉ trau dồi kiến thức cho thẩm phán, những người đại diện cho công lí mà
không nâng cao trình độ của luật sư, những người bảo vệ quyền vô tội hợp pháp của
người dân. Vì thế, các vụ án được đăng tải định kì này nhất thiết phải bao gồm cả phần
tranh tụng của luật sư.
Thứ ba là tuyển tập các vụ án tiêu biểu đặc biệt là trong các vụ án kinh tế, hành
chính cùng với những đánh giá, bình luận từ phía các chuyên gia, từ đó đúc kết ra
được nguyên tắc xét xử mang tính định hướng lâu dài, phục vụ công tác xét xử cũng
như lập pháp.
Thứ tư là công tác đào tạo sinh viên luật cần gắn liền với hoạt động thực tiễn tại
tòa án. Điều này đảm bảo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao, và có thể
bỏ các quy định tuyển chọn yêu cầu thẩm phán phải có ít nhất bốn năm hành nghế luật
như hiện nay.

19


KẾT LUẬN
Trên cơ sở tìm tòi, suy nghĩ, tham khảo các tài liệu, đề tài đã trình bày được một số
vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với việc áp dụng án lệ trong việc giải quyết vụ án dân
sự ở Việt Nam hiện nay. Dựa trên những kết quả tìm hiểu đó, đã hình thành nên những
ý kiến riêng nhằm góp phần thực hiện việc áp dụng án lệ trong việc giải quyết vụ án
dân sự ở Việt Nam hiện nay trở nên hiệu quả nhất. Đây cũng chính là phần thể hiện rõ
nhất kiến thức và hiểu biết của em, là kết quả của quá trình học hỏi, nghiên cứu về đề

tài. Thông qua vốn hiểu biết và kiến thức về tình hình hệ thống pháp luật của Việt Nam
hiện nay, em nghiên cứu chỉ muốn đóng góp những suy nghĩ, ý kiến của sinh viên về
việc hoàn thiện pháp luật của đất nước tạo cơ sở cho công lý, công bằng được tồn tại.
Thiết nghĩ đây cũng là cách thể hiện sự quan tâm của bản thân em nghiên cứu trong quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trên phương diện pháp lý. Em nghiên cứu cũng hy
vọng rằng trong thời gian tới Việt Nam sẽ có những biện pháp, phương hướng tốt nhất
trong việc áp dụng án lệ với các công tác xét xử và thi hành án của tòa án.
Trong phạm vi một đề tài nghiên cứu khoa học, và cũng là lần đầu tiên tham gia
nghiên cứu nên bản báo cáo này cũng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết
điểm cả về nội dung cũng như hình thức. Do vậy bản thân em nghiên cứu rất mong
muốn nhận được sự đánh giá, góp ý, phê bình của tất cả mọi người đặc biệt là của các
thầy cô và các bạn sinh viên. Hy vọng rằng với tất cả những gì đã làm được, bản
nghiên cứu này sẽ góp một phần nào đấy trong công cuộc phát triển của đất nước, đặc
biệt là trong lĩnh vực luật pháp.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật-Khoa luật ĐHQG HN,
Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên).
2. Giáo trình Luật Hiến pháp. Khoa luật ĐHQG HN. Nguyễn Đăng Dung (chủ
biên).
3. Nghị quyết số 55/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội “Về kết quả
giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao”.
4. Khái niệm trở ngại khách quan tại khoản 1 Điều 161 của Bộ luật Dân sự năm
2005 vẫn được giữ nguyên tại khoản 1 Điều 156 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

21




×