Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.36 KB, 12 trang )



1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi
phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật (PL) nói chung và PL về thi hành án dân sự
(THADS) nói riêng. Có PL thì phải có cơ quan nhà nước duy trì PL đó vào
trong đời sống xã hội. Thực tiễn cho thấy, từ PL đến pháp chế là quá trình phát
triển thông qua việc thực hi
ện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Vì
thế pháp chế XHCN có vai trò quyết định hiệu lực, hiệu quả của PL trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả lĩnh vực THADS.
Về phương diện lý luận, pháp chế XHCN, một phạm trù pháp lý cơ bản
của học thuyết nhà nước và PL của chủ nghĩa Mác-Lênin cần được nghiên
cứu, kế th
ừa, phát triển trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam, nhất là pháp chế
XHCN trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Pháp chế XHCN trong
hoạt động THADS là một bộ phận của pháp chế XHCN cần được luận chứng
không chỉ khái niệm, đặc trưng mà còn phải xác định phương hướng, giải pháp
bảo đảm nó trong nền kinh tế thị trường định hướ
ng XHCN.
Về PL, ở Việt Nam, kể từ năm 1945 cho đến nay, PL THADS không
ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Tuy nhiên, trong thực tế tình trạng coi thường
PL, không coi trọng các phán quyết của Toà án hoặc dây dưa, trây ì trong thi
hành án còn diễn ra phổ biến. Mặt khác, tình trạng các cơ quan THADS chưa
kiên quyết tổ chức thi hành án theo yêu cầu của các bên là một trong những
nguyên nhân dẫn đến pháp chế XHCN trong hoạt động THADS chưa nghiêm


minh, thống nhất. Biểu hiện rõ nhất của tình trạ
ng này là số lượng bản án,
quyết định của Toà án còn tồn đọng chưa được thi hành vẫn chiếm tỷ lệ đáng
kể và chưa có xu hướng giảm. Việc vi phạm PL trong quá trình thi hành án vẫn
diễn ra phổ biến.
Những hiện tượng trên cho thấy kỷ cương của Nhà nước đang bị xem nhẹ,
pháp chế XHCN trong hoạt động THADS chưa được bảo đảm. Vì vậy, vấn đề
cấp bách
đặt ra đó là phải nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS để đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm từng
bước hạn chế tình trạng vi phạm pháp chế, bảo đảm việc tuân thủ triệt để pháp
chế XHCN trong hoạt động thi hành án. Vì lẽ đó, bảo đảm pháp chế XHCN
trong hoạt động THADS được xem là phương thức tổ chức và hoạt động của
c
ơ quan, tổ chức THADS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cũng như xây
dựng nền pháp chế XHCN nói chung. Với những đòi hỏi cả về lý luận và thực


2

tiễn đặt ra cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: “Pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” và nghiên
cứu sinh đã lựa chọn vấn đề này làm đề tài cho luận án Tiến sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trong
thời gian gần đây liên quan đến đề tài luận án “pháp chế XHCN trong hoạt
độ
ng THADS ở Việt Nam” có thể chia thành ba nhóm cơ bản như sau:
Nhóm thứ nhất - các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN nói chung
có các công trình như: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê nin;

GS.TS Trần Ngọc Đường – Nghĩ về một trong những luận điểm của V.I. Lê
nin/ Dân chủ và PL 11. –H., 1997. tr. 2 – 3; Hồ Chủ Tịch và pháp chế . - Tp.Hồ
Chí Minh : Nxb Hội luật gia Việt Nam, 1985. – 266 tr; Đảng cộng sản Việt
Nam – Văn kiện đại hội đại bi
ểu toàn quốc lần thứ II, IV, V, VI, VII, VII, IX,
X và Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng gần đây
luân thể hiện tính nhất quán, liên tục và có sự phát triển cụ thể hoá trong điều
kiện đổi mới; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Viện thông tin khoa
học – Năm vấn đề đưong đại (tài liệu tham khảo nội bộ) Hà Nội năm 2003.
Đây là tài liệu dịch từ cuốn sách “Năm vấn đề đương đại” của Trung Quốc.
Trong đó vấn đề “PL thế giới đương đại và công cuộc xây dựng pháp chế của
Trung Quốc” (từ trang 295 đến 406); Triệu Tử Bình – Học tập quán triệt Văn
kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVI “Nghiên cứu sâu sắc luật học, Đẩy
mạnh xây dựng nền pháp chế toàn diện” - Tạp chí Luật học Trung Qu
ốc số
1/2006 Bắc Kinh. Nxb. Tạp chí Luật học Trung Quốc. 2006. tr.3-6.
Nhóm thứ hai - các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN trên từng
lĩnh vực cụ thể của các tác giả trong và ngoài nước như: Tăng cường pháp chế
XHCN trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay: Luận án
phó tiến sĩ khoa học luật học / Nguyễn Nhật Hùng, 1996; Tăng cường pháp
chế XHCN về kinh tế trong quản lý nhà nước nề
n kinh tế thị trường định
hướng XHCN ỏ nước ta hiện nay: Luận án Phó Tiến sĩ Luật học của tác giả
Quách SÜ Hùng, 1996; Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp,
lập quy ở Việt Nam: Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Đỗ Ngọc Hải, 2004;
Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo ở
Việt Nam: Luậ
n án Tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Văn Sơn, 2006; v.v
Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu có liên quan đến hoạt động
THADS như: Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ

chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” do TS.Nguyễn


3

Đình Lộc làm chủ nhiệm được xem là công trình nghiên cứu lớn có liên quan
đến thi hành án nói chung và THADS nói riêng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu
cho thấy, đề tài này tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu để đưa ra các luận
giải khoa học nhằm đổi mới công tác quản lý thi hành án (kể cả dân sự và hình
sự) theo hướng gọn đầu mối đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng cộng
sản Việt Nam và định hướng cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa việc nghiên
cứu của đề tài được thực hiện trong bối cảnh Uỷ ban thường vụ Quốc hội chưa
thông qua Pháp lệnh THADS năm 2004; Đề tài cấp Nhà nước KX 04-06 về
"Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng
cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân" do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm. Đây là đề tài đi
sâu vào nghiên cứu các yêu cầu của cải cách tư pháp, hệ thống các thủ tục tư
pháp như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng với mục tiêu chung nhất là
để nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay việc tích cực xây dựng và hoàn thiện dự
thảo Bộ luật thi hành án nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết 48 và Nghị

quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trên các diễn đàn
nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế cũng đã có rất nhiều các công trình
nghiên cứu, bài viết bình luận, đánh giá về lĩnh vực thi hành án nói chung,
THADS nói riêng, tiêu biểu như: Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc
lựa chọn mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với mỗi Quốc gia của Claude
Brenner, Giáo sư trường
đại học Panthéon - Assas Cộng hòa Pháp; THADS ở

Cộng hòa Pháp - Nguyên tắc chung nhìn từ góc độ lý luận của Claude
Brenner, Giáo sư trường đại học Panthéon - Assas Cộng hòa Pháp; Báo cáo và
các đề xuất của STAR Việt Nam về dự thảo Bộ luật thi hành án của nước cộng
hòa XHCN Việt Nam, tháng 3 năm 2005 của James F. Harrigan – Chuyên gia
tư vấn pháp lý cho cơ quan Thi hành án San Francisco, California, Hoa Kỳ.
Tóm lại, thực tế đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu liên quan đến
công tác THADS, song chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp chế XHCN
trong hoạt động THADS ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp chế XHCN trong
hoạt động THADS; đánh giá thực và xác định phương hướng, giải pháp bảo
đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở nước ta hiện nay.



4

3.2. Nhiệm vụ
(i) Làm rõ cơ sở lý luận về THADS, pháp chế XHCN nói chung và pháp
chế XHCN trong hoạt động THADS; (ii) Xác định những yếu tố đảm bảo
pháp chế XHCN trong hoạt động THADS; (iii) Đánh giá thực trạng về pháp
chế trong hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay; (iv) Tìm ra các nguyên
nhân hạn chế của pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở Việt Nam hiện
nay; (v) Xác định phương hướng, giải pháp bảo đảm pháp chế XHCN trong
hoạt độ
ng THADS ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận án
Luận án tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực
trạng qua đó đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm pháp chế XHCN trong

hoạt động THADS ở Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan cũng được
tác giả nghiên cứu ở những chừng mực cần thiết nhằm phục vụ có hiệu qu

cho đối tượng nghiên cứu chính như: THADS, hoạt động THADS và khái
niệm về pháp chế nói chung; pháp chế trong THADS ở một số nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lênin. Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như:
- Phương pháp lịch sử: Thực tiễn cho thấy, hoạt động tư pháp nói chung và
THADS nói riêng là một l
ĩnh vực có bề dày lịch sử. Vì vậy, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã tập trung nghiên cứu cả những vấn đề đã làm được,
thậm chí có những kinh nghiệm quý báu của cha ông ta đã được luật hoá có giá
trị pháp lý, nhưng nay không còn được áp dụng để làm phong phú thêm nội
dung nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phân tích: Phân tích các định hướng phát triển nhất là định
hướng cải cách tư pháp, các điều kiện khách quan, chủ quan, vấn
đề kinh tế, xã
hội của Việt nam; phân tích thực trạng đội ngũ Chấp hành viên (CHV) và phân
tích các quy định PL có liên quan để làm rõ cơ sở thực tiễn và khoa học lý luận
về phát triển đội ngũ CHV mà cụ thể là vấn đề đào tạo đội ngũ CHV.
- Phương pháp so sánh: Để việc nghiên cứu thực sự có hiệu quả, mỗi vấn
đề được đưa ra đều có sự so sánh, đối chiếu, kể c
ả so sánh đối chiếu, làm cơ sở
cho việc vận dụng linh hoạt những nội dung đã được kiểm nghiệm có hiệu quả
của nước ngoài phù hợp với tình hình của nước ta.
- Phương pháp xã hội học: khảo sát và nghiên cứu tình hình thực tiễn.



5

- Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tế,
tổng hợp các kết quả thu được, đưa ra phương hướng, giải pháp về bảo đảm
pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở Việt Nam.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của luận án
6.1. Những điểm mới của luận án:
Thứ nhất, những kết quả mớ
i và những đề xuất mới có tác dụng bổ sung,
phát triển và làm phong phú thêm vốn kiến thức đã có của chuyên ngành: (i)
Đưa ra các cơ sở khoa học và thực tiễn để minh chứng làm rõ tính chất của
THADS, bảo vệ quan điểm hoạt động THADS là hoạt động tư pháp. Ngoài ra,
Luận án còn phân tích, đánh giá và đưa ra khái niệm và các đặc trưng cơ bản
của hoạt động THADS đó là: quyền cưỡng chế THADS chỉ do Nhà nước tổ
chức thực hiện; bảo đảm sự độc lập tương đối cho CHV khi thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao; (ii) Làm phong phú thêm khái niệm về pháp chế
XHCN; (iii) xác định rõ nội dung cơ bản của bốn yếu tố bảo đảm pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS thể hiện trên các mặt đó là pháp lý, chính trị,
kinh tế và xã hội; (iv) phân tích đánh giá dựa trên cơ s
ở lý luận khoa học và
thực tiễn để chỉ ra những hạn chế của pháp chế XHCN.
Thứ hai, luận án xác định một số các giải pháp thiết thực như: (i) nâng
cao chất lượng hệ thống PL THADS theo hướng quy định các thủ tục đặc thù
đối với hoạt động THADS; tạo sự đồng bộ của PL THADS với các văn bản
PL khác có liên quan như sửa đổi quy định về
tội không chấp hành án; sửa
đổi các quy định về ra quyết định thi hành án ; (ii) Xác định rõ cơ chế và mô
hình tổ chức cơ quan THADS theo ngành dọc, giảm đầu mối, tổ chức lại cơ
quan thi hành án theo mô hình khu vực; (iii) Phát huy hơn nữa vai trò của
Tòa án đối với hoạt động THADS; (v) Đảm bảo thực hiện có hiệu quả sự

phân công, phối hợp giữa các cơ quan của Nhà nước với cơ
quan THADS
trong việc thi hành án.
6.2. Ý nghĩa của luận án
Đây là công trình nghiên cứu sâu, toàn diện, có hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn về pháp chế trong hoạt động THADS ở Việt Nam; luận án có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu PL và những
người làm công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, lu
ận án
được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm thi hành án dân sự và hoạt động thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, có rất nhiều cách quan niệm khác
nhau về THADS (có quan niệm cho rằng THADS là một hoạt động tố tụng,
song lại có quan điểm khác cho rằng THADS dân sự mang tính chất của hoạt
động hành chính tư pháp ). Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, THADS là
hoạt động tư pháp. Bởi vì, trong lĩnh vực tư pháp, để thực hiện quyền tư pháp,
Toà án nhân dân là n
ơi biểu hiện tập trung quyền tư pháp. Bên cạnh Tòa án
còn có các cơ quan tư pháp khác, trong đó "các cơ quan THADS và thi hành

án hình sự thực hiện chức năng chuyên trách bảo vệ PL phải thuộc vào hệ
thống các cơ quan tư pháp, dưới sự quản lý thống nhất của Chính phủ về công
tác thi hành án". Hơn nữa: (i) Hoạt động THADS phần lớn thông qua vai trò
của các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các
bản án, quyết định củ
a Toà án. Mỗi cơ quan thi hành án có thẩm quyền riêng
và tương đối độc lập. Cơ quan thi hành án cấp trên không thể sử dụng mệnh
lệnh hành chính để buộc cơ quan thi hành án cấp dưới phải thực hiện các mệnh
lệnh của mình; (ii) Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ ban đầu hoặc cuối
cùng để tạo điều kiện cho các cơ quan xét xử hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao, kết quả xét xử
được thi hành trên thực tế; (iii) Chức năng của cơ quan thi
hành án là hiện thực hóa bản án, quyết định của Toà án . Các hoạt động có tính
chất hành chính như phối hợp, hoạt động quản lý cán bộ, tổ chức nhân sự… là
hoạt động có mục đích phục vụ để thực hiện có hiệu quả chức năng chính của
các cơ quan thi hành án; (iv) Nếu cho rằng thi hành án là hoạt động hành chính
- tư pháp vì hoạt độ
ng thi hành án được thực hiện bởi cơ quan thuộc hệ thống
Bộ Tư pháp (cơ quan hành chính) sẽ không có cơ sở thuyết phục vì một hoạt
động mang bản chất như thế nào không phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện
nó. Thực tế chứng minh không có sự tranh luận nhiều về vị trí của các cơ quan
tiến hành tố tụng của cơ quan điều tra thuộc Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng hay
hành vi tố tụng của một số cơ quan khác như
Hải quan, Kiểm lâm; (v) Hoạt
động thi hành án dựa trên kết quả của hoạt động xét xử, song đó cũng chỉ mới
là điều kiện cần để bảo vệ quyền lợi
của đương sự còn muốn để quyền lợi đó



7

được thực hiện thì phải có thêm một điều kiện đủ - đó là bản án phải được thi
hành trên thực tế thông qua hoạt động thi hành án.

1.1.2. Khái niệm hoạt động THADS
Khái niệm hoạt động THADS: hoạt động THADS là việc các cá nhân, cơ
quan nhà nước, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của mình
để thi hành các bản án, quyết định dân sự theo quy định của PL.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động THADS: Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt
động THADS có các đặc trưng cơ bản như sau:
- Quyền cưỡng chế
THADS chỉ do Nhà nước tổ chức thực hiện. Đặc
trưng này xuất phát từ chức năng của Nhà nước đó là duy trì và bảo đảm
trật tự xã hội.
- Bảo đảm sự độc lập trong việc đưa ra các quyết định của CHV khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao: mỗi quyết định của CHV tác động trực
tiếp đến quyề
n và lợi ích của các bên có liên quan, đồng thời liên quan trực tiếp
đến hiệu lực của bản án, quyết định của Toà án. Vì vậy, để đảm bảo công bằng
trong hoạt động THADS, khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn CHV dựa trên
niềm tin nội tâm của mình, độc lập, tuân theo bản án, quyết định của Toà án và
theo quy định của PL.
- Tôn trọng quyền tự định đoạt của người được thi hành án trong quá trình
thi hành án.
Đặc trưng này xuất phát từ nguyên tắc công nhận quyền tự định
đoạt về tài sản của chủ sở hữu. Nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình thi hành
án khi các bên không thể tự thoả thuận và có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án
tổ chức thi hành.
- Hoạt động THADS liên quan trực tiếp đến quyền con người. Mục đích

chính của hoạt động THADS đó là bảo vệ quyền lợi. Trong khi đó quy
ền lợi
này có liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người như quyền về
tài sản và các quyền nhân thân khác. Vì vậy, hoạt động THADS liên quan trực
tiếp đến quyền con người.
- Tính xung đột về quyền lợi giữa người được THADS và người phải
THADS, các bên có liên quan trong hoạt động THADS thể rất gay gắt.
- Hoạt động THADS có đặc thù riêng so với hoạt động thi hành án hình sự.
Trong hoạt độ
ng THADS quyền tự định đoạt của bên được THADS đặt lên
hàng đầu. Nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình thi hành án khi có Đơn yêu cầu
của người được thi hành án, người phải thi hành án.
Căn cứ phát sinh quan hệ hoạt động THADS:


8

- Bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành của Toà án và cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
- Đơn yêu cầu thi hành án.
1.2. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa và đặc trưng, các yếu tố bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là một chế độ của đờ
i sống chính trị - xã hội, trong đó có
sự hiện diện của một hệ thống PL đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch,
phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân; tất cả các cơ quan, tổ chức và cá
nhân đều phải tôn trọng và thực hiện PL một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính
xác. Mọi hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đều

bị xử lý theo PL.
1.2.2. Khái niệm pháp chế XHCN trong ho
ạt động THADS
Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS là sự hiện diện của hệ thống PL
THADS đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch; các bản án, quyết định
dân sự của Toà án phản ánh đúng bản chất của vụ kiện dân sự và được tuyên
đúng pháp luật cùng với việc thực hiện nghiêm chỉnh đầy đủ, đúng đắn bản án,
quyết định dân sự của các bên có liên quan. Mọi hành vi vi phạm PL về
thi
hành án đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của PL.

1.2.3. Đặc trưng của pháp chế XHCN trong hoạt động THADS
Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS có các đặc trưng cơ bản sau:
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự là sự hiện
diện của hệ thống pháp luật thi hành án dân sự đồng bộ, thống nhất, công khai,
minh bạch.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự là sự hiện
diện của bản án, quyết định c
ủa Toà án có hiệu lực pháp luật được xem là cơ
sở pháp lý của quá trình thi hành án.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự, chấp hành viên phải tự giác thực hiện đầy đủ, đúng
đắn các quy định của pháp luật.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự được biểu
hiện bằng trách nhiệm tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định
củ
a Toà án của mọi người trong xã hội.


9


- Pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự yêu cầu phải xử lý nghiêm
mọi hành vi vi phạm pháp luật thi hành án.

1.2.4. Các yếu tố bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS
Có bốn yếu tố bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS sau:
B¶o ®¶m về pháp lý:
- Bản án, quyết định dân sự phải rõ ràng, có tính khả thi.
- Công tác tổ chức thực hiện PL trong hoạt động THADS phải bảo đảm
thực sự có hiệu quả.
- Công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện PL và xử lý vi phạm PL phải
thực hiện thật s
ự có hiệu quả.
B¶o ®¶m về chính trị:
- Cần phải có một hệ thống cơ quan THADS đủ mạnh để bảo đảm pháp
chế trong hoạt động THADS.
- Bảo đảm sự phân công, phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước
với nhau trong hoạt động THADS.
- Phát huy vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc bảo đảm pháp chế.
- Bảo đảm dân ch
ủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
hoạt động THADS.
B¶o ®¶m về kinh tế:
- Phải có nền kinh tế ổn định và phát triển.
- Người có nghĩa vụ THADS, phải có khả năng về kinh tế để thực hiện
nghĩa vụ của mình.
- Nhà nước phải đảm bảo đủ kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt
động của các cơ quan THADS.
B¶o ®¶m về xã hội:
- V

ề yếu tố gia đình: Hoạt động THADS thông thường sẽ tác động trực tiếp
đến một gia đình cụ thể nào đó của xã hội. Vì vậy, việc thực hiện PL nói chung
và PL THADS nói riêng từ mỗi gia đình sẽ là cơ sở cực kỳ quan trọng, quyết
định đến việc bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS.
- Yếu tố ngoài xã hội: Yếu tố này có liên quan yếu làng - xã của con
ngườ
i Việt Nam và phát huy vai trò của xã hội thông qua các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể.
1.3. Pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự ở một số nước
1.3.1. Sơ lược về pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự ở một số
nước


10

1.3.2. Kinh nghiệm của một số nước có thể áp dụng đối với vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Chương 1 của luận án đã nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về
hoạt động THADS, pháp chế XHCN trong hoạt động THADS, trong đó tập
trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá về tính chất, đặc điểm của hoạt động
THADS, pháp chế trong hoạt động THADS có thể rút ra một số kết luận cơ
bản như sau:
1. Tính chất của THADS là hoạt động tư pháp. Điều này phù hợp với quá
trình l
ịch sử, cũng như các quy định của PL hiện hành. Vì vậy, việc thiết kế mô
hình tổ chức, cơ chế quản lý, hoạt động của cơ quan thi hành án phải đảm bảo

tính độc lập tương đối cho CHV, người có thẩm quyền trong thi hành án.
2. Pháp chế trong hoạt động THADS không làm mất đi tính thống nhất của
pháp chế XHCN mà còn làm phong phú hơn nội dung của pháp chế nói
chung. ChÝnh ®ã là cơ sở để
phát huy vai trò của PC XHCN trong từng lĩnh
vực của đời sống xã hội.
3. Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS có những nét đặc thù riêng,
cụ thể: Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS có cơ sở pháp lý trực tiếp là
bản án, quyết định của Toà án; pháp chế XHCN trong hoạt động THADS đề
cao vai trò, trách nhiệm của CHV; trách nhiệm tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định của Toà án là trách nhiệm chung của mọi người trong
xã hội; việc thiết lậ
p, bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS có
liên quan chặt chẽ với yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc.
4. Những nguyên tắc cơ bản, đặc điểm và những yếu tố bảo đảm pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS là cơ sở để thực hiện có hiệu quả PL, đồng
thời góp phần củng cố trật PL nói chung và PL THADS nói riêng.
Tóm lại, thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luậ
n về pháp chế XHCN trong
hoạt động THADS sẽ tạo cơ sở, phương PL để đánh giá đúng thực trạng, tạo
tiền đề cho việc đưa ra các giải pháp bảo đảm chế XHCN trong hoạt động
THADS hiện nay ở nước ta.


11

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



2.1. Kết quả đạt được trong việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Về pháp luật
Với bản chất của Nhà nước dân chủ, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc
đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án. Điều này
được thể hiện ở việc Nhà nước không chỉ quan tâm đến việc xét xử
của Tòa án
mà còn quan tâm đến cả việc tổ chức thực thi các bản án, quyết định của Tòa
án. Nhất là sau khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN thì yêu cầu bảo đảm thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án càng được quan tâm. Vì vậy, công tác thể chế về
THADS đã được quan tâm hơn trước. Đặc biệt sau Hội nghị tổng kết mườ
i
năm công tác THADS năm 2003, để khắc phục những hạn chế của công tác thi
hành án, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh THADS năm
2004. Trên cơ sở của Pháp lệnh, Chính phủ, các Bộ ban ngành có liên quan đã
ban hành nhiều văn bản quy phạm PL nhằm tháo gỡ ách tắc trong hoạt động
THADS.
2.1.2. Bản án, quyết định dân sự
Bản án, quyết định dân sự của Tòa án và các quyết định khác của cơ quan
t
ổ chức có thẩm quyền là một văn bản có giá trị pháp lý ghi nhận quyền nghĩa
vụ của các bên có liên quan. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy, nên trong
những năm qua, ngoài việc không ngừng nâng cao chất lượng xét xử thì yêu
cầu nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Toà án và các cơ quan có thẩm
quyền đã được hết sức chú trọng.
2.1.3. Thực hiện PL trong hoạt động THADS
Cùng với việc không ngừ
ng hoàn thiện hệ thống PL nói chung và PL về

THADS nói riêng, công tác thực hiện PL trong hoạt động THADS được Nhà
nước đặc biệt chú trọng. Để bảo đảm thực thi bản án, quyết định của Toà án,
bên cạnh hệ thống các cơ quan quản lý THADS, hệ thống các cơ quan
THADS đã được thành lập ở cấp tỉnh, cấp huyện (riêng ở trong quân đội thì
các cơ quan THADS đợc thành lập ở cấp quân khu) với nhiệm vụ tổ
chức


12

thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Toà án và các
quyết định khác theo quy định của PL. Nhờ đó mà hiệu quả thực hiện bản
án, quyết định dân sự ngày càng nâng cao. Theo số liệu thống kê của Cục
THADS thì số lượng vụ việc mà cơ quan THADS phải tổ chức thi hành
năm sau cao hơn năm trước.
Tóm lại, trong những năm qua, chất lượng và hiệu quả công tác THADS
ngày càng được nâng cao, pháp chế XHCN trong ho
ạt động THADS ngày
càng được bảo đảm.
2.2. Hạn chế trong việc thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
Có thể kể đến một số hạn chế trong việc thực hiện pháp chế XHCN trong
hoạt động THADS ở Việt Nam hiện nay như sau:
2.2.1. PL về THADS và hệ thống các văn bản PL có liên quan đến
THADS vừa thiếu vừa bộc l
ộ nhiều bất cập
Về PL THADS: Tình trạng kém chất lượng trong hệ thống PL nói chung và
PL THADS nói riêng đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS ở nước ta:
+ Hệ thống quy định PL về thi hành án còn tản mạn, thiếu cụ thể không bảo

đảm tính hệ thống, thống nhất.
+ Quy định của PL THADS hiện nay còn quá chung chung, thiếu khoa
học, gây khó khăn cho quá trình thi hành án.
+ Chư
a có quy định về xử lý tài sản do Tòa án tuyên kê biên để đảm bảo thi
hành án.
+ Quy định về thời hạn tự nguyện thi hành án thể hiện nhiều bất cập.
+ Chưa có cơ chế hợp lý để đảm bảo thực thi quyền hạn của CHV.
+ Trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS lại chưa rõ ràng.
+ PL hiện hành chưa có cơ chế áp dụng bắt buộc lao động để thi hành án.
+ Cơ chế
giải thích bản án, quyết định của Tòa án đang tạo ra nhiều khó
khăn vướng mắc cho cơ quan thi hành án.
+ Nhiều quy định của PL THADS còn mang nặng tính khẩu hiệu, thiếu
chặt chẽ và không có tính khả thi.
Chưa bảo đảm sự thống nhất giữa PL THADS với các văn bản PL khác có
liên quan:


13

+ Quy định giữa PL THADS với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
không thống nhất.
+ Luật phá sản năm 2004 và PLTHADS có nhiều điểm thiếu rõ ràng hoặc
chung chung, gây khó khăn cho quá trình thực hiện.
+ Bộ luật tố tụng hình sự và PLTHADS chưa có sự thống nhất trong việc
quy định thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
+ Thông tư số 01/2007/TT-BCA-C11 ngày 02 tháng 01 năm 2007 của Bộ
Công an quy định về việc tổ chứ
c đăng ký, cấp biển số phương tiện giao thông

cơ giới đường bộ chưa phù hợp với quy định của PL về THADS.
Tất cả những hạn chế về PL nêu trên có thể kể đến một số nguyên nhân cơ
bản như sau:
- Đường lối của Đảng về cải cách tư pháp nói chung và THADS nói riêng
chậm được thể chế hoá.
- Văn bản luật vẫn còn mang tính định khung nên cần ph
ải nhiều các văn
bản hướng dẫn mới có thể thực hiện.
2.2.2. Chất lượng bản án, quyết định dân sự còn có nhiều hạn chế
Chất lượng nội dung trong các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân còn
có nhiều hạn chế, gây khó khăn cho công tác THADS. Theo số liệu thống kê
năm 2006 của Cục THADS Bộ Tư pháp thì hiện nay, trong quá trình thi hành
án, cơ quan THADS đang gặp phải vướng mắc có liên quan đến trách nhiệm
c
ủa Tòa án (cụ thể: án tuyên không rõ, có sai sót là: 479 vụ việc; án có sai lầm
là: 126 vụ việc; án tuyên khó thi hành là: 372 vụ việc, chi tiết xem Phụ lục 4
Luận án).
Thực trạng nêu trên có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản như sau:
- Chưa có cơ chế rõ ràng về xác định bản án, quyết định của Toà án khi có
hiệu lực PL phải có tính khả thi.
- Chưa có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Toà án và trách
nhiệm bồi hoàn của Thẩm phán để xảy ra tình trạng xét xử sai nên chưa nâng
cao được tinh thần trách nhiệm của cơ quan này trong việc ra bản án.
2.2.3. Thực hiện PL trong hoạt động THADS còn nhiÒu bất cập
- Ý thức chấp hành bản án, quyết định của Toà án, các cơ quan có thẩm
quyền và việc thực hiện PL trong hoạt động THADS của nhiều cơ quan, tổ
chức, cá nhân còn rất kém.


14


- Chất lượng hoạt động THADS còn chưa cao, tình trạng vi phạm trình tự,
thủ tục trong hoạt động THADS của CHV, cán bộ công chức cơ quan THADS
và của một số cơ quan chức năng có liên quan vẫn còn diễn ra.
Tất cả những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan
như sau:
Về khách quan
- Người phải thi hành án không có tài sản, thu nhập hợp pháp để thi hành
án hoặc không xác định được nơi cư trú của đương sự;
- Các quy định của PL liên quan đến quyền về tài sản, đất đai,… tuy đã
được Nhà nước quan tâm, sửa đổi bổ sung nhưng những bất cập do lịch sử để
lại đến nay vẫn luôn là khó khăn vướng mắc cho các cơ quan THADS.
- Tình trạng khép kín "phép vua thua lệ làng" (PL bị đẩy xuống hàng thứ
yếu, các vấn đề vi phạm PL có thể sẽ chỉ được xem xét trong nội bộ làng xã)
đã trở thành tiềm thức
ăn sâu, bám rễ vào trong mỗi con người.
- PL giao cho các cơ quan THADS thực hiện quá nhiều công việc lẽ ra có
thể giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện sẽ có hiệu quả hơn.
- Cơ chế quản lý thi hành án THADS còn nhiều bất cập. Điều này được thể
hiện: Có nhiều cơ quan cùng được giao nhiệm vụ quản lý về thi hành án; Có
nhiều cơ quan cùng được giao nhiệm vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, cấ
p huyện trong chỉ đạo THADS, tạo ra sự trung gian, phức tạp cho hoạt
động thi hành án; phân cấp quản lý về thi hành án hiện nay tạo ra nhiều khâu
trung gian và khe hở trong quản lý, chỉ đạo thi hành án.
- Chưa có cơ chế hợp lý để tạo điều kiện cho cơ quan THADS phối hợp với
Tòa án trong việc động viên những người phạm tội và thân nhân của họ thực
hiện nghĩa vụ về dân sự.
- Tổ chứ
c bộ máy cơ quan THADS còn nhiều bất cập.

Về chủ quan
- Ý thức PL của người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ có
liên quan trong thi hành án còn rất kém.
- Đội ngũ CHV, cán bộ làm công tác thi hành án nhìn chung vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ ngày càng nặng nề, không những thiếu về số
lượng mà còn yếu về năng lực chuyên môn nghiệp vụ.


15

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của Luận án đã tập trung nghiên cứu sâu về thực trạng pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS. Có thể kết luận một số điểm như sau:
1. Hoạt động THADS ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển
biến đáng kể, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo tính nghiêm minh của
PL, tăng cường pháp chế XHCN.
2. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhấ
t định, song pháp chế XHCN
trong hoạt động THADS vẫn còn nhiều bất cập, có thể khái quát ở một số điểm
như sau:
Một là, chất lượng PL và chất lượng bản án, quyết định dân sự còn có
nhiều hạn chế.
Hai là, khâu tổ chức thực hiện PL trong hoạt động THADS ở nước ta
vẫn còn rất nhiều bất cập. Tình trạng coi thường PL trong THADS vẫn còn
diễn ra phổ biế
n; việc vi phạm PL trong quá trình thực hiện PL của các cơ
quan thi hành án, các cơ quan nhà nước vẫn còn diễn ra nhiều; công tác
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước để thực hiện tốt nhiệm vụ THADS
còn có nhiều hạn chế.

Ba là, có nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân khách quan
dẫn đến vi phạm pháp chế trong hoạt động THADS ở nước ta hiện nay. Có thể
khái quát như tình trạng số vụ việc chưa có điề
u kiện thi hành vẫn chiếm tỷ lệ
lớn; ý thức PL của người phải thi hành án còn quá kém; cơ chế quản lý và mô
hình tổ chức các cơ quan THADS còn rất nhiều bất cập; công tác phổ biến giáo
dục PL đối với hoạt động THADS chưa được quan tâm đúng mức; cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương chưa quan tâm và đầu tư thỏa đáng đối với hoạt
động THADS.
Tóm lại, việc
đánh giá đúng thực trạng sẽ là tiền đề để đưa ra được các
phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhằm góp phần bảo đảm pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS ở nước ta hiện nay.


16

Chương 3
YÊU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

3.1. Các yêu cầu của pháp chế XHCN trong hoạt động THADS
3.1.1. Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS gãp phÇn đáp
ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Hoạt động thi hành án có hiệu quả, một mặt bảo đảm việc thực hi
ện quyền
tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, của công dân đối với
các phán quyết của Toà án nhân danh Nhà nước, mặt khác khi trật tự PL bị phá
vỡ thì PL phải có cơ chế phục hồi một cách hiệu quả nhằm khôi phục lại quyền

và lợi ích hợp pháp của các bên bị xâm phạm, trong trường hợp đó hoạt động
thi hành án sẽ là khâu then chốt để đảm b
ảo tính hiệu quả của cơ chế phục hồi
đó. Ngoài ra, nếu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã
hội một cách hữu hiệu sẽ là nhân tố làm lành mạnh hóa các quan hệ thị trường,
trong đó, hoạt động thi hành án nắm giữ khâu quyết định dựa trên phán quyết,
quyết định có hiệu lực pháp lý của cơ quan tư pháp và cơ quan tài phán.
3.1.2. Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạ
t động THADS đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi
phải có sự đổi mới, chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp nói chung và
thi hành án nói riêng. Cần phải nhấn mạnh rằng, thi hành án là một vấn đề hết
sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt độ
ng quản lý
Nhà nước, đến trật tự, kỷ cương PL và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, hay nói rộng hơn là quyền dân sự cơ bản của con
người, như quyền về tài sản, quyền lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm.
3.1.3. Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp
ở nước ta hiện nay
Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là những hoạt động vất vả, phức tạp và
tốn kém, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án,
quyết định của Toà án chỉ tồn tại trên giấy mà không được thi hành trên thực
tế. Chính vì vậy, hoạt động thi hành án nói chung và THADS nói riêng là hoạt


17


động không thể thiếu nhằm biến kết quả hoạt động các cơ quan tố tụng trước
đó trở thành hiện thực, thiết lập lại trật tự PL.
3.1.4. Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam
Trên thực tế tổ chức và hoạt động thi hành án của nước ta hiện nay chưa
thực sự trở
thành một đảm bảo vững chắc về mặt tư pháp cho người nước
ngoài sinh sống, học tập, công tác, làm ăn tại Việt Nam. Nhiều vụ việc thi hành
án có liên quan đến tổ chức, cá nhân người nước ngoài vẫn chưa được thực thi
có hiệu quả, gây ra sự khiếu kiện kéo dài. Ngoài ra, thực trạng hiện nay cho
thấy cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động của thi hành án nước ta chưa thực s

sẵn sàng với quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều vụ việc, nguyên tắc tuân theo
PL và trên cơ sở bản án, quyết định của Toà án bị phá vỡ khi các cơ quan Nhà
nước vẫn tìm mọi cách sử dụng các biện pháp hành chính, can thiệp không
đúng quy định vào hoạt động của cơ quan thi hành án, làm cho hoạt động thi
hành án làm mất đi tính khách quan, gây ra sự chậm chễ, kéo dài.
3.1.5. Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS đáp ứng yêu
cầ
u khắc phục những yếu kém của PL về THADS
Chất lượng PL có thể xem là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc bảo
đảm pháp chế XHCN nói chung và đối với pháp chế XHCN trong hoạt động
THADS nói riêng, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân mà ở đó, Nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, PL và thể hiện địa vị t
ối cao của Hiến pháp
và PL trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, như đã phân tích ở Chương 2 của
Luận án cho thấy, PL THADS ở nước ta còn nhiều bất cập. Vì vậy, bảo đảm
pháp chế XHCN trong hoạt động THADS đáp ứng yêu cầu khắc phục những
yếu kém của hệ thống PL nói chung và PL về THADS ở nước ta nói riêng.

3.2. Phương hướng bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam
- Pháp
điển hoá, bảo đảm PL về thẩm quyền, trình tự, thủ tục THADS được
quy định bằng luật do Quốc hội ban hành.
- Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS được thực hiện trên
cơ sở xác định phạm vi, nội dung và những bước đi phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực.


18

- Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS phải đặt trong nội
dung tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Kết hợp giáo dục thuyết phục với việc kiên quyết áp dụng cưỡng chế
trong hoạt động THADS.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động THADS.
3.3. Các giải pháp bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạ
t động thi hành
án dân sự ở Việt Nam
3.3.1. Về pháp luật
Xây dựng hệ thống PL cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt
động THADS:
Một là, hoàn thiện PL về THADS theo hướng:
+ Bỏ quy định thời hiệu thi hành án, thay vào đó quy định cụ thể việc trả lại
đơn yêu cầu thi hành án khi người phải thi hành án không có điều kiện thi
hành, đồng thời ghi nhận quyền yêu cầu thi hành án tr
ở lại của người được thi
hành án khi nào người phải thi hành án có điều kiện thi hành.

+ Quy định một số thủ tục đặc thù đối với các tài sản như bất động sản,
phương tiện giao thông
+ Bỏ quy định tài sản đã kê biên được định giá theo thoả thuận giữa người
được thi hành án, người phải thi hành án và chủ sở hữu chung trong trường
hợp kê biên tài sản chung.
+ Bỏ quy định CHV
ấn định thời hạn tự nguyện 30 ngày để người phải thi
hành án tự nguyện thi hành như quy định tại khoản 3 Điều 6 Pháp lệnh
THADS năm 2004. Thay vào đó, PL nên quy định cụ thể, trách nhiệm của
CHV phải kiểm tra, xác minh điều kiện thi hành của người phải thi hành án để
áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn để hạn chế người phải thi hành án tẩu
tán tài sản.
+ Quy định cho phép CHV có quyền khám xét nơ
i ở và ở trên người của
người phải thi hành án để truy tìm tài sản thi hành án.
+ Quy định cụ thể cơ chế giải thích bản án: theo hướng cơ quan đã ra bản
án, quyết định cần phải giải thích nội dung bản án bằng một quyết định của
Toà án để làm cơ sở pháp lý để cơ quan thi hành án thực hiện.


19

+ Quy định cụ thể chế tài đối với người đứng đầu của cơ quan, tổ chức
trong trường hợp bên phải thi hành án là cơ quan, tổ chức (nhất là các cơ quan
Nhà nước).
+ Quy định cụ thể về cơ chế bảo đảm thân thể, tính mạng sức khoẻ của
CHV và cán bộ thi hành án để họ thực sự yên tâm công tác, đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
+ Hoàn thiệ
n các quy định PL về xử lý vi phạm trong THADS:

- Xác định rõ các hành vi vi phạm PL THADS bằng các quy định cụ thể
của PL.
- Phân loại cụ thể các chủ thể để có biện pháp xử lý phù hợp.
+ Quy định rõ thẩm quyền xử lý vi phạm trọng hoạt động THADS.
Hai là, hoàn thiện các quy định của PL khác có liên quan đến hoạt động
THADS:
+ Sửa đổi Bộ luật tố tụng dân sự theo hướng quy định thẩ
m quyền đi đôi
với xác định trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị khi thực hiện
quyền hoãn, tạm đình thi hành án qua đó tăng cường tính chung thẩm của
bản án.
+ Để đảm bảo tính thực thi của PL, cần phải hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự đối với tội không chấp hành án theo hướng xác định rõ theo
từng hành vi.
+ Sửa đổi, bổ sung Bộ luậ
t tố tụng hình sự và Bộ luật tố tụng dân sự để quy
định cụ thể chế tài đối với trường hợp người có thẩm quyền trong tố tụng hình
sự và dân sự do chậm chễ hoặc cố tình không áp dụng kịp thời các biện pháp
kê biên tài sản của người phạm tội và của những người phải thực hiện nghĩa vụ
dân sự nên để họ tẩ
u tán tài sản gây khó khăn cho quá trình thi hành án.
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm thống nhất việc Thủ trưởng cơ quan
thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án đối với Hình phạt tiền; Tịch thu
tài sản, truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; d) Xử lý vật chứng,
tài sản đã thu giữ;
+ Quy định hạn chế và tiến tới bỏ việc thanh toán bằng sử dụng tiền mặt
sang hình thứ
c quản lý và thanh toán thông qua tài khoản.
+ Quy định rõ chế tài đối với các trường hợp bỏ lọt tội phạm liên quan đến
hoạt động THADS.



20

Ba là, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của PL THADS với hệ thống PL
hiện hành. Muốn vậy: (i) Phải thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, rà soát
các văn bản quy phạm PL về THADS, qua đó kịp thời sửa đổi, bổ sung các
quy định nhằm khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa PL về
THADS với các văn bản PL có liên quan; (ii) Trong quá trình xây dựng văn
bản cần có sự phối hợp ch
ặt chẽ giữa cơ quan chủ trì soạn thảo với các cơ quan
có liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước mà văn bản đó điều chỉnh để tạo sự
đồng thuận trong việc quy định về những vấn đề có liên quan mật thiết với
nhau sao cho thống nhất; (iii) Bộ Tư pháp, vừa là cơ quan giúp Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác THADS trong cả n
ước, vừa là cơ
quan giúp Chính phủ trong công tác xây dựng PL, kiểm tra văn bản quy phạm
PL nên cần phát huy vai trò quan trọng của mình để thực thi chức năng nhiệm
vụ nêu trên thật hiệu quả để giảm thiểu đến mức tối đa những trường hợp mâu
thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm PL về THADS.
3.3.2. Nhóm các giải pháp bảo đảm về pháp lý
Nâng cao chất lượng bản án, quyết đị
nh dân sự:
Một là, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn
thống nhất cách ghi án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án
trong việc thực thi nhiệm vụ theo quy định của PL.
Hai là, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cần hướng dẫn các
Toà án địa phương trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử không tuyên xử
mức tiền cụ thể cho các vụ việc dễ d
ẫn đến sự ảnh hưởng của quá trình biến

động thị trường.
Đẩy mạnh công tác tổ chức thực hiện PL về THADS:
Một là, hạn chế và tiến tới từng bước loại bỏ tình trạng vi phạm những điều
PL cấm của các chủ thể trong hoạt động THADS:
+ Ngăn chặn kịp thời và tiến tới xóa bỏ tình trạng chống đối ngườ
i thi hành
công vụ trong hoạt động THADS.
+ Khắc phục tình trạng Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi
hành án hoặc ra các quyết định khác có liên quan trái PL; CHV không thi hành
đúng bản án, quyết định của Toà án, trì hoãn việc thi hành án, áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án trái PL, vi phạm quy chế CHV. Đẩy mạnh công
tác rà soát, phân loại án để xử lý theo đúng quy định của PL.
Hai là, khuyến khích việc tự giác thực hiện nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể trong hoạt
động THADS:


21

Ba là, các cơ quan tư pháp đặc biệt là các cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
Toà án cần phải kiên quyết đưa ra và xét xử nghiêm những trường hợp cản trở,
chống đối và không chấp hành án nhằm lập lại trật tự kỷ cương thi hành án,
góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện PL trong
hoạt động THADS.
3.3.3. Nhóm các giải pháp bảo đảm về chính trị
- L
ựa chọn mô hình tổ chức của cơ quan THADS đảm bảo gọn nhẹ, hiệu
quả. Để nâng cao hiệu quả, bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động
THADS, mô hình tổ chức cơ quan THADS cần xây dựng theo hướng quản lý

theo ngành dọc, cụ thể như sau: (i) Tổng Cục thi hành án thuộc Bộ Tư pháp;
(ii) Cục thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực thuộc Tổng Cục
Thi hành án; (iii)
Chi cục thi hành án khu vực (không tổ chức theo quận,
huyện) trực thuộc Cục thi hành án cấp tỉnh. Tuy nhiên, để đảm bảo mô hình cơ
quan THADS đồng bộ với hệ thống cơ quan Toà án, trong giai đoạn trước mắt,
vẫn tổ chức cơ quan THADS phù hợp với đơn vị hành chính. Về lâu dài tổ
chức lại theo mô hình khu vực để đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả.
Riêng đối với cơ
quan quản lý và cơ quan thi hành án trong quân đội tổ
chức như sau: Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng sẽ có tên gọi
là Cục Thi hành án quân sự; Cơ quan thi hành án quân khu và quân chủng Hải
quân sẽ có tên gọi là Thi hành án quân khu và quân chủng Hải quân.
- Khắc phục tình trạng thiếu và yếu của đội ngũ CHV.
- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan
trong THADS.
- Nâng cao trách nhiệm của Tòa án nhân dân các cấp trong hoạt động
THADS.
- Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tố
t chức năng kiểm sát hoạt động
THADS.
- Thành lập lực lượng Cảnh sát tư pháp.
- Bảo đảm dân chủ trong hoạt động THADS:
3.3.4. Nhóm các giải pháp bảo đảm về kinh tế
- Tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân.
- Khẩn trương triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt.
- Thực hiện nghiêm các quy định về giao dịch dân sự có bảo đảm.


22


- Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho các cơ quan
THADS.
- Giải quyết tốt chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác THADS.
3.3.5. Nhãm c¸c gi¶i ph¸p b¶o ®¶m về xã hội
- Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, bảo đảm pháp chế.
- Giáo dục trách nhiệm công vụ, đạo đức nghề nghiệp của CHV.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 của Luận án đã tập trung nghiên cứu và đưa ra phương hướng,
giải pháp để đảm bảo pháp chế trong hoạt động THADS ở nước ta hiện nay.
Có thể kết luận một số nội dung sau:
1. Phải nâng cao chất lượng hệ thống PL nói chung và PL THADS nói
riêng, tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động
THADS.
2. Xác định rõ cơ chế và mô hình tổ chứ
c cơ quan THADS theo ngành dọc,
giảm đầu mối, tổ chức lại cơ quan thi hành án theo mô hình khu vực.
3. Từng bước thực hiện xã hội hóa đối với hoạt động THADS, trước mắt
tập trung vào khâu thu lệ phí thi hành án và giao một số hoạt động không nhất
thiết phải do cơ quan THADS thực hiện để cơ quan này tập trung vào nhiệm
vụ chính được giao.
4. Phát huy hơn nữa vai trò của Tòa án đối với hoạt động
THADS, trong đó
đặt trọng tâm ở việc nâng cao chất lượng ra bản án, đồng thời phát huy vai trò
của Tòa án trong việc giáo dục, thuyết phục để đương sự và các bên có liên
quan (nhất là đối với người phạm tội và thân nhân của họ) thực hiện nghĩa vụ
dân sự trước và trong phiên tòa xét xử.
5. Đảm bảo thực hiện có hiệu quả sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan

của Nhà nước với c
ơ quan THADS trong việc thi hành án.
6. Tăng cường công tác phổ biến giáo dục PL, nâng cao ý thức PL của
nhân dân, ý thức công vụ cho cán bộ, công chức trong thi hành án.
7. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động THADS.



23

KẾT LUẬN

Nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế là xây dựng xây nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để thực hiện được nhiệm
vụ đó, bên cạnh khâu hoàn thiện hệ thống PL thì vấn đề tổ chức thực hiện PL
có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì, không thể nói – đã xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền khi vẫn còn tình trạng "khinh nhờn" PL, bản án, quyết
định của Toà án nhân dân nhà nước, có hiệu lực PL nhưng không được thi
hành. Do đó, yêu cầu xuyên suốt của quá trình THADS - phải bảo đảm nguyên
tắc pháp chế XHCN. Đây chính là bộ phận quan trọng cấu thành nền pháp chế
XHCN ở Việt Nam. Nội hàm cơ bản của nó là - bản án, quyết định của Toà án
có hiệu lực PL, có điều kiện thi hành, phải được thi hành nghiêm chỉnh, tri
ệt
để, chính xác, kịp thời, dân chủ, khách quan. Pháp chế XHCN trong hoạt động
THADS có những đặc điểm và những yếu tố bảo đảm riêng. Những đặc điểm
và những yếu tố bảo đảm này là cơ sở phương pháp luận cho quá trình đánh
giá thực trạng, đồng thời đưa ra phương hướng, giải pháp để bảo đảm pháp chế
XHCN trong hoạt động THADS ở Việt Nam.
Pháp chế XHCN có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm, nâng
cao hiệu quả hoạt động THADS. Vai trò đó được thể hiện trên các phương
diện cơ bản như sau:
- Bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực PL phải được người phải thi
hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc
thi hành án nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân tôn trọng.
- Không phân biệt bên phải THADS là cá nhân, cơ quan, tổ chức, nếu có
nghĩa vụ thì phải thực hiện nghĩa vụ của mình cho bên có quyền một cách bình
đẳng, dân chủ.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân không có thẩm quyền theo quy định của PL
thì không được can thiệp trái PL vào quá tổ chức thi hành án của CHV và cơ
quan THADS.


24

- Mọi hành vi can thiệp, cản trở, chống đối việc thi hành bản án, quyết định
của Toà án bị xử lý nghiêm minh theo quy định của PL.
- Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cá nhân có trách nhiệm thực
hiện đầ
y đủ yêu cầu của CHV trong việc thi hành án.
Bảo đảm pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở Việt Nam là một
yêu cầu khách quan. Nhìn lại thực tế hoạt động THADS thời gian qua cho
thấy, hiệu quả hoạt động THADS chưa cao, cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động
thi hành án đã và đang bộc lộ khá nhiều bất cập, pháp chế XHCN trong hoạt

động THADS bị vi phạm. Những bất cập đó
ở các mức độ khác nhau đã và
đang tác động trực tiếp, gián tiếp đến hiệu quả hoạt động THADS.
Tuy nhiên, bảo đảm pháp chế XHCN có liên quan đến hàng loạt các vấn
đề. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ
và sự quyết tâm của các ngành các cấp, đặc biệt là các cơ quan tư pháp nói
chung và Bộ Tư pháp nói riêng. Hơn nữa, bảo đảm pháp chế XHCN trong
hoạt động THADS chính là một trong rất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động THADS ở nước ta hiện nay. Chỉ trên những điều kiện tổng thể
đó thì mới thực sự nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án và mới có sự phát
triển bền vững, đồng thời thực sự đáp ứng được yêu cầu đổi mới kinh tế và hội
nhập quốc tế
của nước ta.

×