Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.95 KB, 13 trang )

LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LỄ HỘI ĐỀN HÙNG
1.1. Đôi nét về Lễ hội Đền Hùng
Lễ hội Đền Hùng – giỗ Tổ Hùng Vương, từ bao đời nay đã ăn sâu vào trong tâm
thức của mỗi người dân Việt Nam. Thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, giữ gìn và phát
huy nguồn cội đất nước như một lẽ tự nhiên. Có thể nói hiếm dân tộc nào có ý thức
về Tổ tông mạnh mẽ và bền vững như văn hóa người Việt. Do đó, giỗ Tổ Hùng
Vương là Quốc giỗ chung của toàn dân tộc Việt Nam và kiều bào đang sinh sống ở
nước ngoài.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm
Một bài thơ nhỏ nhưng gói gọn một bản sắc văn hóa rất Việt Nam “Uống
nước nhớ nguồn”.
Giỗ Tổ tức giỗ vua Hùng - vị vua Tổ của người Việt, người có công sáng lập
nhà nước Văn Lang và mở ra thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt Nam (từ
khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ III sau Công nguyên
(SCN), cũng là nhà nước hình thành sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á cổ đại.
Như vậy, từ Văn Lang đến Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đất nước Việt
Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Văn hóa Việt Nam vì thế cũng không kém
phần đặc sắc. Không phải tự nhiên mà một nhà nghiên cứu ngoại quốc nhận định:
Việt Nam là một dân tộc có bản sắc văn hóa rất riêng. Và Văn Lang chính là cội
nguồn lịch sử, cội nguồn văn hóa dân tộc Việt Nam.
1.2. Lễ hội Đền Hùng – Cội nguồn Lịch sư
Vấn đề thời đại các vua Hùng có hay không có thật trong lịch sử là một nghi vấn
tồn tại khá lâu, bởi sử sách chính thức của ta (từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX)
chỉ có thể ghi chép theo truyền thuyết. Mà truyền thuyết thì ở phương Đông hay
phương Tây luôn có sự pha trộn các yếu tố huyền thoại, hoang đường. Những năm
kháng chiến chống Mỹ, khi Mỹ tuyên bố “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”, lại


chính là quãng thời gian chúng ta tiến hành một chiến dịch khám phá lớn nhất lúc
1


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

bấy giờ về thời kỳ Hùng Vương. Các ngành khoa học Khảo cổ học, Dân tộc học,
Lịch sử, Ngôn ngữ… đã vào cuộc. Cuộc khám phá này đã phát lộ hàng loạt các
nền văn hóa thời cổ đại. Từ nền văn hóa Sơn Vi (Phú Thọ), đến văn hóa Hòa Bình,
văn hóa Bắc Sơn, chuyển sang các nền văn hóa đồng thau với di chỉ văn hóa
Phùng Nguyên (Phú Thọ), Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Gò Mun (Phú Thọ) đến văn
hóa Đông Sơn. Những nền văn hóa đó đã chứng thực cho sự tồn tại của thời đại
Hùng Vương. Từ thành tựu lớn đó, các nhà khoa học đi đến thống nhất một nhận
định chung: thời đại Hùng Vương là sự thật lịch sử, còn về mặt văn hóa thì bắt đầu
từ nền văn hóa Phùng Nguyên (sơ kỳ đồng thau) đến đỉnh cao nhất là nền văn hóa
Đông Sơn (giai đoạn cực thịnh của hậu kỳ thời đại đồng thau, cũng là giai đoạn
khởi đầu của sự phát triển đồ sắt trên lãnh thổ Việt Nam). Còn thời đại kim khí
(đồng và sắt sớm) trên đất nước Việt Nam về cơ bản ứng với thời đại Hùng Vương
dựng nước trong truyền thuyết huyền sử, và giai đoạn Đông Sơn gắn với thời kỳ
xuất hiện quốc gia Văn Lang – Âu Lạc (theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Đông
Sơn tồn tại trong khoảng từ thế kỷ VIII – VII TCN cho đến thế kỷ III SCN). Đó là
những bằng chứng lịch sử.
Nhà nước Văn Lang ra đời với bộ máy chính quyền đơn giản. Đứng đầu là vua
gọi là vua Hùng. Dưới vua có Lạc Hầu, Lạc Tướng. Bên dưới có Bồ Chính –
người đứng đầu công xã nông thôn - gồm có Kẻ, Chiềng, Chạ. Xã hội Hùng
Vương, dân được gọi là Lạc dân, Lạc dân cày cấy lạc điền, lễ hội theo tiếng trống
đồng, chống xâm lăng bằng mũi tên đồng, đi ra bể lớn bằng thuyền lớn, trồng
nhiều lúa nước được mùa thì đựng trong thạp đồng, phụ nữ không thiếu trang sức
đẹp bằng đá quý, nam thì đóng khố, nữ thì mặc váy. Ăn trầu là thú vui thường
ngày của Lạc dân, nhuộm răng là phong tục thuần hậu, tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên, sùng bái anh hùng đã hình thành rõ nét. Ngoài chính sử, nguồn gốc dân tộc
Việt Nam còn được dựng nên từ những sự tích, huyền thoại. Tuy nhuốm màu
huyền bí, hoang đường, kỳ diệu, mỗi sự tích, huyền thoại luôn chứa đựng nhiều
“thông điệp” của tổ tiên người Việt. Sách Đại Việt Sử lược ghi rằng “đến đời
Trang Vương nhà Chu (696 – 682 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật
quy phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu
là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác… truyền được mười tám đời
đều xưng là Hùng Vương” [4, tr140]. Sự tích trên cho thấy, nhà nước Văn Lang
hình thành bằng sự hợp nhất của 15 bộ lạc anh em. Theo văn học truyền miệng
xưa của nước ta không thấy có chuyện xung đột, sát phạt nào giữa các bộ lạc. Mà
lẽ thường nhất và cho tới nay vẫn còn là trong sự lập quốc của các dân tộc, khó
2


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

tránh cái lẽ tranh hùng, mạnh thắng yếu thua, lớn nuốt bé. Trái lại, “Văn Lang bắt
đầu bằng sự hợp nhất cả vì lý, lẫn tình. Văn Lang tồn tại bởi sự hợp nhất. Hợp
nhất cũng là của tổ tiên ta” [3, tr204]. Thống nhất là sự tồn tại của đồng bào ta
đứng trước bất kỳ kẻ thù nào. Trải qua hàng ngàn năm, cái nghĩa lý và tình, sự
hợp nhất, đoàn kết luôn song hành với tiến trình lịch sử Việt Nam.
Truyền thuyết nổi tiếng nhất về cội nguồn dân tộc là Lạc Long Quân – Âu Cơ.
Theo sự tích Hồng Bàng giải thích thì nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là sự “kết
duyên”, hòa hợp của hai giống Rồng – Tiên. Tiên là Âu Cơ, thuộc Lục Quốc ở
trên cạn và Rồng là Lạc Long Quân thuộc Thủy quốc ở miền duyên hải, hải đảo.
“Vua đầu tiên của họ Hồng Bàng ở nước Xích Qủy là Lộc Tục, tức Kinh Dương
Vương, một hôm đi du ngoạn ở hồ Động Đình, gặp một thiếu nữ nhan sắc tuyệt
vời tự xưng là Long Nữ, con gái của Động Đình Quân. Lộc Tục kết duyên cùng
nàng ấy sinh được một người con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi cha làm vua
xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ là con gái vua Đế Lai, vua

một nước láng giềng, đẻ ra một lần trăm trứng, sau nở thành trăm người con. Một
hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: Tôi là giòng dõi Long quân mà mình là
giòng dõi Thần tiên, ăn ở với nhau lâu không được. Nay trăm đứa con trai thì
mình đem năm mươi đứa lên núi, còn năm mươi đứa con tôi đem xuống Nam
Hải. Sau Lạc Long Quân phong cho người con đầu làm vua, ở nước Văn Lang,
người ấy là Thủy tổ của giống người Việt Nam” [1, tr21]. Từ huyền thoại này, về
sau Đại Nam Quốc sử viết thành diễn ca:
….Chia con sự cũng lạ đời
Quy sơn quy hải khóc người biệt ly
Lạc Long về chốn Nam thùy
Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên
Chủ trương chọn một con hiền,
Sửa sang việc nước nối lên ngôi rồng
Hùng Vương đô ở Châu Phong
Ấy nơi Bạch Hạc hợp lòng Thao Giang
Đặt tên là nước Văn Lang
-----(Đại Nam Quốc sử)-----

Theo nhà sử học người Nga P.V.Pozner: “ Sự tồn tại của các lãnh tụ người
Lạc (Việt) với tên hiệu chung “Hùng” là một sự kiện lịch sử…; truyền thuyết về
3


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân phản ánh truyền thống sử học truyền
khẩu về địa bàn cư trú cổ xưa của các bộ lạc tiền Việt, cho nên theo nghĩa đó, nó
cũng mang tính lịch sử” [8, tr 41]. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm trứng nở
trăm con, năm mươi người theo mẹ lên núi, năm mươi người theo cha xuống
biển, dân tộc hình thành từ đó. Nhà sử học Ngô Sỹ Liên không cho chuyện ấy là

hoang đường. Năm mươi người lên núi thì đã rõ, còn năm mươi người xuống
biển thì đi đâu ? Theo nhà nghiên cứu Hoàng Hải Vân: “Phải chăng do đất đai
lúc đó bị thu hẹp, dân tộc ta đã phải tự tổ chức lại, vừa phải khai phá những vùng
đất trên núi, vừa tận dụng hàng trăm hòn đảo được hình thành do biển tiến để tổ
chức lại cuộc sống. Câu chuyện năm mươi người lên núi, năm mươi người
xuống biển còn biểu hiện sự kiện phân bố dân cư đầu tiên trong lịch sử và hơn
thế nói lên sự đoàn kết (không đoàn kết thì làm sao dắt nhau lên núi, dắt nhau
xuống biển). Phải là một cộng đồng có quyền lực đủ mạnh mới có thể làm được
việc đó. Sự cố kết cộng đồng này là do nhà nước tiến hành. Muốn tồn tại trong
điều kiện lịch sử (chống thiên tai, khai hoang đất đai, chống kẻ thù) tổ tiên ta ít
nhất phải giải quyết 3 vấn đề: đoàn kết thành cộng đồng, phân bố lại dân cư và
cải tiến công cụ lao động”. Có lý lắm thay!
Về cương vực lãnh thổ Văn Lang: bờ cõi nước Xích Qủy trải dài từ Bắc
Trung Bộ đến hồ Động Đình chính là địa bàn cư trú của người Bách Việt, là khu
vực tam giác không gian gốc văn hóa Việt Nam. Bờ cõi nước Văn Lang của các
vua Hùng sau này là bộ phận của không gian gốc đó, cũng như người Lạc Việt là
một bộ phận của khối cư dân Bách Việt. Về mặt thời gian, thiên niên kỷ thứ III
TCN (trong đó có mốc truyền thuyết là năm 2879), ứng với giai đoạn đầu thời
đại đồ đồng, cũng là thời điểm hình thành chủng Nam Á (Bách Việt). Thành tựu
văn hóa chủ yếu của giai đoạn Văn Lang – Âu Lạc, sau nghề nông nghiệp lúa
nước chính là nghề luyện kim đồng. Trống đồng hiện vật điển hình của văn hóa
Đông Sơn, của văn minh nông nghiệp Việt Cổ. Trống đồng, sản phẩm đặc sắc
nhất của Văn Lang, của thời đại Hùng Vương, văn hóa Trống đồng là văn hóa
của thời đại các thủ lĩnh quân sự, trong đó thủ lĩnh miền trung du, xuất phát điểm
địa lý của sự hình thành Nhà nước – nổi bật dần lên như một thủ lĩnh tối cao và
xưng vua “Vua Hùng” – nghĩa là Bố của các thủ lĩnh mạnh. Trống đồng ngoài
chức năng biểu tượng của các thế lực thủ lĩnh còn là biểu tượng của vật thiêng
làm trung gian cho sự giao tiếp của con người và thần linh, giữa cõi sống và chết:
“Trống đồng và bài hát man
Người Nam rất sùng cầu cúng” [11. tr138]

4


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

Như vậy, Văn Lang là một thực tế lịch sử, một nước bền vững lâu dài, có
bờ cõi, lịch sử, chế độ xã hội, phong tục tập quán riêng của mình. Trong thời đại
dài như thế, người Văn Lang cũng đủ điều kiện để sáng tạo một nền văn hóa có
bản sắc Văn Lang, bản sắc dân tộc riêng của mình. Phải là bản sắc Văn Lang
mới có thể đi qua “sóng lớn” hơn 1000 năm Bắc thuộc của chế độ phong kiến
phương Bắc. Một thời kỳ mà các Bách Việt khác đã bị đồng hóa, riêng Văn Lang
của người Lạc Việt không những không bị đồng hóa mà ngược lại Việt hóa văn
hóa Hán. Theo các nhà nghiên cứu, một dân tộc bị đô hộ 300 năm sẽ hoàn toàn
bị đồng hóa. Vì đâu ? Vì đâu sau hơn 1000 năm Văn Lang của các vua Hùng đã
không tan biến, để rồi lại xuất hiện với danh xưng Đại Việt, với những đặc tính
dân tộc không mất đi mà được bồi đắp, kiến tạo, xây dựng để sức mạnh dân tộc
ngày càng mãnh liệt hơn. Lý giải được vấn đề này, thật không dễ dàng, cũng như
không dễ để thuyết phục được bạn đọc. Chúng tôi cố gắng tìm về các nguyên
nhân văn hóa - cội nguồn văn hóa, mà chủ yếu là những yếu tố tâm hồn trong cội
rễ của văn hóa Văn Lang.
1.3. Lễ hội Đền Hùng – Cội nguồn Văn hóa

Hãy bắt đầu với hai tiếng “đồng bào”: Hai tiếng đồng bào là nội dung, tư
tưởng – triết lý từ truyện Hồng Bàng, Lạc Long Quân và Âu Cơ. Từ rất lâu,
không ai nhớ khởi điểm, nhưng bao đời người Việt đều một lòng tin tưởng “họ”
đầu tiên của người Việt là “Hồng Bàng” và là giống “Rồng Tiên”. Hình thành
nên thành ngữ “con Hồng cháu Lạc, con Rồng cháu Tiên”. Và hai tiếng thân
thương “đồng bào” mà người Việt Nam gọi nhau, xuất phát từ nguồn gốc mẹ Âu
Cơ sinh trăm trứng, nở trăm con. “Đồng” là cùng, “Bào” là bọc, “đồng bào =
những người cùng một bọc sinh ra”. Người Việt sống xa quê được gọi là “kiều

bào”. Thử hỏi có nơi đâu trên thế giới, cộng đồng gắn bó với nhau bằng suy nghĩ
máu thịt và nghĩa tình sâu sắc như vậy ? Từ “đồng bào” hình thành nên tình
nghĩa đồng bào đó là nội dung tư tưởng, tâm hồn của truyện họ Hồng Bàng,
truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở ra trăm con. Theo GS
Trần Văn Giàu, sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ còn là bản di chúc đầu tiên, di
chúc số một của tổ tiên: hãy yêu thương nhau, hãy sống chết có nhau. Người
trong một nước đã phải thương nhau cùng, thì người trong một nhà, cùng tổ
tiên, cùng một bọc sinh ra thì tự nhiên phải phải yêu thương thân thiết nhau hơn.
Câu đối ở khu vực đền đáng chú ý nhất là câu “Cháu chắt còn, tông tổ hãy còn,
nòi giống nhà ta sinh nở mãi. Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất
5


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

nước vững bền lâu”.
Thứ hai, nhà nước Văn Lang ra đời, xuất phát từ nhu cầu dựng nước và giữ
nước. Rất rõ ràng, theo quy luật chung về sự hình thành các nhà nước cổ đại: từ
xã hội Công xã nguyên thủy, nền sản xuất bắt đầu dư thừa của cải, tư hữu xuất
hiện phá vỡ nguyên tắc vàng “bình đẳng”. Xã hội xuất hiện giai cấp, tầng lớp
khác nhau, mâu thuẫn xã hội đòi hỏi một nhà nước ra đời. Tuy nhiên, xã hội Việt
Nam thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đã có các thành phần xã hội khác nhau, nhưng
chưa xuất hiện hiện tượng mâu thuẫn xã hội đến mức đối kháng. Mà nhà nước
hình thành, do nhu cầu đoàn kết, hiệp lực để chống thiên tai, khai hoang đất đai,
chống kẻ thù ngoại xâm. Do đó, dựng nước đi liền với giữ nước. Việt Nam là một
dân tộc, một quốc gia thống nhất ngay từ buổi đầu. Từ thời Văn Lang cho đến
nay, quy luật hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam và quốc gia Việt
Nam là dựng nước và giữ nước. Dựng nước để tự cường giữ nước và giữ nước để
dựng nước, do vậy dựng nước và giữ nước là biểu tượng của lòng yêu nước Việt
Nam. Như vậy, văn hóa đặc sắc của dân tộc từ thời Văn Lang của vua Hùng là

yêu nước, yêu nước trở thành truyền thống, thành chủ nghĩa yêu nước. Một trong
những sắc thái biểu hiện mang tính đặc thù ấy là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã
được linh thiêng, tâm linh hóa thành một thứ “tín ngưỡng”. Nếu như mỗi gia đình
chúng ta có cha mẹ, thì cả dân tộc cũng có cha sinh, mẹ dưỡng. Trong nhà thờ gia
tiên, trong làng thờ thần Hoàng, thì trong nước người Việt Nam thờ Vua Tổ - Vua
Hùng. Ở đây, lòng yêu nước không còn chỉ là một thứ tình cảm, tư tưởng thuần
túy, mà chừng nào nó đã trở thành một phạm trù linh thiêng, nó vượt lên trên thế
giới thường nhật, trần tục thành cái để người ta phụng thờ. Huyền thoại Lạc Long
Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng nở thành trăm con là cội nguồn của dân tộc.
Phong tục mỗi năm đến ngày mùng Mười tháng Ba, tất cả đều hướng về Phong
Châu mà giỗ tổ Hùng Vương – ngày giỗ chung của cả một dân tộc – không phải
dân tộc nào cũng có. Đối với người Hồi Giáo, Mecca là thánh địa, thì với người
Việt Nam, đất tổ quê cha cũng là thánh địa. Trải qua những giai đoạn thăng trầm
trong suốt chiều dài lịch sử, những gì của cha ông để lại là trường tồn muôn đời
cho con cháu. “Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ nước”, người Việt Nam không ai có thể quên được lời nói bất hủ đó của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, để giữ được nước, dân tộc ta cần bản lĩnh. Yêu nước phải bản lĩnh
là một lẽ tự nhiên. Bản lĩnh là một khái niệm vừa trừu tượng, nhưng cũng vừa rất
6


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

cụ thể. Vì sao cần bản lĩnh? Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc ta là một
minh chứng sống động cho điều trên. Bản lĩnh hình thành từ thời Văn Lang của
các vua Hùng. Không bản lĩnh thì làm sao có đủ gan mật chống chọi với hơn
ngàn năm đô hộ của các triều đại phương Bắc. Từ nhà Triệu (179 – 111 TCN);
Hán (Tây Hán (111 TCN – 25 SCN); Đông Hán (25 SCN - 222); Ngô (222 –
280); Tấn (280 – 420); Tống (420 – 479); Tề

(479 – 505); Lương (505 – 543); Tùy (606 – 723); Đường (723 – 905) đều thực
hiện chính chống đồng hóa trên mọi lĩnh vực. Nếu không bản lĩnh giữ mình, bản
lĩnh đấu tranh, bản lĩnh tự chủ thì làm sao có thế kỷ X – thế kỷ dân tộc chúng ta
tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Đồng thời với tiến trình độc lập, tự chủ là quá
trình đấu tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm. Và thời gian chống ngoại xâm
trong lịch sử Việt Nam cộng lại lên đến 12 thế kỷ chiếm hơn một nửa thời gian
lịch sử (tính từ cuộc kháng chiến chống Tần vào thế kỷ III trước công nguyên cho
đến thời đại nay) [2, tr23]. Chúng ta đã có đủ bản lĩnh vượt qua những nghịch lý
để đi tới, những thế lực ngoại xâm hung bạo vốn trường kỳ theo đuổi mục tiêu
thôn tính dân tộc ta, một dân tộc cứ khăng khăng không chịu thuần phục, không
chịu đồng hóa. Nếu không có bản lĩnh, dân tộc này đã bị diệt vong từ lâu rồi. Do
vậy, muốn tồn tại và phát triển thì phải phát huy đến mức cao nhất khí phách “có
cứng mới đứng được đầu gió”, “sóng cả không ngả tay chèo.

7


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ

CHƯƠNG 2. LỄ HỘI ĐỀN HÙNG TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN NĂM 1945
2.1. Lễ hội Đền Hùng từ nguồn gốc đến thế kỷ XVIII
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân tộc,
của đất nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc
Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ

người Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được gọi là ngày Giỗ
Tổ Hùng Vương.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm
tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn ra với nhiều
hoạt động văn hoá dân gian và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với Lễ rước
kiệu và dâng hương tại Đền Thượng.
Từ xa xưa Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của
người Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời
vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng:
“...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là
Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa.
Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay
đổi...”.

8


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ
Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền
Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ
Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn
đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
2.2. Lễ hội Đền Hùng từ thế kỷ XIX đến năm 1945
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê
Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc
tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri
Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang
đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa
thu làm định kỳ.
Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê

Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm
làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn
ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp.

9


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ
CHƯƠNG 3. LỄ HỘI ĐỀN HÙNG TỪ NGUỒN GỐC ĐẾN NĂM 1945
3.1.1. Lễ hội Đền Hùng từ năm sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1954
Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền Hùng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều đã về thăm
viếng tại đây. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống
nước nhớ nguồn”, ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh của Chủ Tịch nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công
chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động
Giỗ Tổ Hùng Vương - hướng về cội nguồn dân tộc.
Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ mới được
thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng một tấm bản đồ
Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị
xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng
nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
3.1.1. Lễ hội Đền Hùng từ năm 1954 đến 2000
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có hai lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và
19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo
vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ,
thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”.
Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo

là ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thông tin - thể thao phối hợp với các
ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm
lịch).
3.1.2. Lễ hội Đền Hùng từ năm 2000 đến nay
Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong
đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể
như sau:
10


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ
- “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hoá Thông tin và Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng hương.
- “Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy ban Nhân dân
tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ
dâng hương.
- “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân dân
tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng
hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.
Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê
chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao động được nghỉ
làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch). Kể từ
đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang ý
nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương hằng năm là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà
mọi trái tim dù đang sống và làm việc ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi
cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng. Trong ngày này, nhân dân cả nước còn có
điều kiện để tham gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các

Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.
Trong hồ sơ đề trình UNESCO công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương”
là di sản văn hoá thế giới đã nêu rõ giá trị của di sản là thể hiện lòng tôn kính đối
với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Theo
đánh giá của các chuyên gia UNESCO, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã
đáp ứng được tiêu chí quan trọng nhất trong 5 tiêu chí, đó là, di sản có giá trị nổi
bật mang tính toàn cầu, khích lệ ý thức chung của mọi dân tộc trong việc thúc đẩy
giá trị đó. Vì vậy, ngày 6/12/2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ”, biểu tượng của tinh thần đại đoàn kết,

11


LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ
truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam là Di sản văn
hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước
và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng thời còn là
dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc
đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý
truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

12



LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SƯ
1. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, H, 2002
2. Huỳnh Công Bá, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2008
3. Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, GS Nhà giáo nhân dân Trần Văn Giàu,

Nxb Giáo dục, H, 1996.

4. Phan Huy Lê, Lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Đại học và Chuyên nghiệp, H,

1987.
5. Phan Ngọc, Bản Sắc Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, H, 2002
6. Lê Văn Quán, Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb Lao Động, H, 2007
7. Vũ Ngọc Khánh, Vũ Thụy An, Lễ hội Việt Nam, Nxb Thanh niên, H, 2007
8. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Tp Hồ Chí Minh
9. Lê Ngọc Trà, Văn hóa Việt Nam Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Gíao dục, H,
2007.
10. Đặng Đức Siêu, Hành trình văn hóa Việt Nam, Nxb Lao Động. H, 2002

13



×