Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

luận văn ngoại hối và đổi mới chính sách ngoại hối ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.49 KB, 45 trang )

LUẬN VĂN:

Ngoại hối và đổi mới chính sách
ngoại hối ở Việt Nam hiện nay


Lời nói đầu
Sự hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam thông qua cơ chế thị trường là
nhu cầu khách quan có tính quy luật. Với vai trò như là chiếc cầu nối giữa kinh tế nội
địa với kinh tế thế giới bên ngoài, thì việc hình thành và phát triển thị trường ngoại
hối một cách toàn diện và hiện đại theo trình độ quốc tế là rất cần thiết. Thông qua
các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối mà hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư quốc tế,
dự trữ quốc tế... trở nên linh hoạt và hiệu quả.
Trong những năm gần đây, thị trường ngoại hối Việt Nam đã hình thành và
từng bước phát triển: chính sách quản lý ngoại hối đang dần dần được hoàn thiện phù
hợp với hướng phát triển kinh tế thị trường mở; nhũng nhân tố thị trường ngày càng
trở nên quyết định hơn trong việc xác định tỉ giá hối đoái, bước đầu đã đưa một số
giao dịch kinh doanh vào cuộc sống. Mặc dù mới ở những bước đầu phát triển,
nhưng thị trường ngoại hối Việt Nam đã tạo ra môi trường kinh doanh ngoại hối cho
các Ngân hàng Thương mại, đồng thời cung cấp những công cụ hữu hiệu để phòng
ngừa rủi ro ngoại hối đối với các công ty Xuất nhập khẩu và những nhà đầu tư quốc
tế. Tuy nhiên, thị trường ngoại hối Việt Nam còn rất non trẻ và sơ khai xét về trình
độ, quy mô thực hiện cũng như kĩ năng nghiệp vụ kinh doanh. Đặc biệt xung quanh
vấn đề chính sách quản lý ngoại hối còn nhiều vấn đề phải xem xét và tiếp tục hoàn
thiện. Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã chọn đề tài:
“Ngoại hối và đổi mới chính sách ngoại hối ở Việt Nam hiện nay”
Để nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của chính sách quản lý ngoại hối và
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách này ở Việt Nam.


Chương I


Lý luận cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối
và vai trò của đầu tư nước ngoài
1. Chính sách quản lý ngoại hối:
Chính sách quản lý ngoại hối là một chính sách quan trọng đối với bất kì một
quốc gia nào, nó có tác động đến sự thành công hay thất bại của các chính sách kinh
tế vĩ mô khác.
Quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ
phận của chính sách quản lý ngoại hối của một nước. Vì vậy, để có chính sách quản
lý ngoại hối có hiệu quả trước hết ta phải làm rõ những vấn đề liên quan trực tiếp đến
lĩnh vực này về mặt lý thuyết.
1.1

Ngoại hối
Nhu cầu của sự phát triển và xu hướng thế giới đã dần dần làm cho các giao

dịch này vượt qua biên giới một nước. Một nước muốn tồn tại và phát triển bạt buộc
phải có quan hệ trai đổi với thị trường thế giới. Chính từ những giao dịch này mà
phương thức thanh toán không ngừng phát triển, người ta không dùng vàng như trong
phương thức thanh toán cổ điển mà còn sử dụng các công cụ thanh toán khác gọi là
ngoại hối. Tuỳ theo những giác độ khác nhau mà người ta quan niệm ngoại hối khác
nhau:
+ Trên giác độ kinh doanh ngoại hối, những nhà kinh doanh hiểu ngoại hối là
những phương tiện thanh toán thể hiện dưới dạng ngoại tệ, nó bao gồm hối phiếu, séc
bằng ngoại tệ (phải dư có trên tài khoản ngân hàng nước ngoài).
+ Trên giác độ quản lý và hoạch định chính sách, ngoại hối được hiểu là toàn
bộ các loại tiền nước ngoài, các chứng từ, chứng khoán có giá trị bằng tiền nước
ngoài, các kim khí, đá quý.


1.2


Chính sách quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối là một bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia, là công cụ

vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế nhất là kinh tế đối ngoại.
Chính sách quản lý ngoại hối là những quy định pháp lý những thể lệ của
chính phủ trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng bạc đá quý, quản lý các giấy tờ
có giá trị ngoại tệ cũng như các quan hệ thanh toán tín dụng với nước ngoài.
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các luồng
vận động về ngoại hối từ nước ngoài vào và từ trong nước ra có liên quan đến quan
hệ ngoại thương cũng như những quan hệ khác bằng ngoại tệ, góp phần phát triển
ngoại thương tạo sự cân bằng cho cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị đồng
tiền, xây dựng được quỹ dự trữ ngoại hối hợp lý.
Đối tượng quản lý ngoại hối: về phương diện quản lý đối tượng nằm trong
phạm vi điều chỉnh của chính sách ngoại hối bao gồm: “người cư trú” và “người
không thường trú”.
“Người cư trú” được hiểu là toàn bộ các tổ chức, các doanh nghiệp được
thành lập theo luật hiện hành của mỗi nước, hoạt động trên lãnh thổ nước đó hoặc đặt
đại diện ở nước ngoài. Ngoài ra, người cư trú còn bao gồm cả doanh nghiệp nước
ngoài được thành lập theo luật doanh nghiệp của nước ngoài nhưng được phép hoạt
động tại nước đó.
“Người không cư trú” được hiểu là các tổ chưc doanh nghiệp được thành lập
theo luật hiện hành của một nước, không kinh doanh trong nước đó hoặc các tổ chức
kinh doanh thành lập theo luật nước ngòai không kinh doanh trên lãnh thổ nước đó
hay là các cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế, của các chính ohủ đặt tại nước
đó. Dân cư là người không cư trú là những người mang quốc tịch nước ngoài đến
nước đó không nhằm mục đích định dư.
Với một chính sách quản lý ngoại hối quản lý được nguồn vốn ra vào một
quốc gia luôn là vấn đề quan trọng, còn các vấn đề khác như sử dụng ngoại tệ, buôn
bán kinh doanh ngoại hối thì được quy định tuỳ vào đặc điểm tình hình của từng thời

kì cụ thể. Chính vì vậy, không phải chính sách ngoại hối của tất cả các nước đều


giống nhau, mỗi nước đều có đặc trưng riêng của mình. Tuy nhiên, một chính sách
quản lý ngoại hối thường nằm trong bốn giai đoạn sau:
+ Nhà nước độc quyền quản lý ngoại hối: Với chính sách này, nhà nước nắm
trong tay mình hoạt động kinh tế đối ngoại, việc vay nợ nước ngoài. Nhà nước áp đặt
tỷ giá một cách chủ quan cho việc chuyển đổi ngoại tệ ra bản tệ và ngược lại. Ngoài
ra nhà nước còn nghiêm cấm toàn bộ mua bán, kinh doanh và tàn trữ ngoại hối.
+ Chính sách thắt chặt ngoại thương ngoại hối: Với chính sách này, nhà nước
không nắm độc quyền ngoại thương ngoại hối nhưng toàn bộ việc xuất nhập khẩu
hàng hoá và tư bản vẫn bị kiểm soát chặt chẽ. Tất cả các tổ chức cá nhân có ngoại tệ
đều phải bán lại cho nhà nước qua hệ thống ngân hàng. Các tổ chức, cá nhân được
phép mở tài khoản ngoại tệ phải chịu sự giám sát của ngân hàng. Khi họ muốn sử
dụng thì phải có sự cho phép của cấp có thẩm quyền.
+ Chính sách nới lỏng ngoại thương ngoại hối: Chính sách này không quản lý
chặt chẽ quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá, cũng như các luồng vận động ngoại hối.
Nhà nước tác động vào tỷ giá hối đoái như là một thành viên của thị trường. Các tổ
chức cá nhân có nguồn thu ngoại tệ dưới mọi hình thức đều được tự do mở tài khoản
ở ngân hàng. Nhà nước sẽ mua lại khi cần thiết thông qua các công cụ về tỷ giá và lãi
suất.
+ Chính sách tự do ngoại thương ngoại hối: Nội dung của chính sách này là
thực hiện tự do hoá ngoại thương ngoại hối. Nhà nước không quản lý gắt gao hay hạn
chế giao dịch ngoại hối. Các hàng rào thương mại bị bãi bỏ, sự dịch chuyển của các
luồng hàng hoá dịch vụ là hoàn toàn do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định.
Trên đây là bốn loại hình của các chính sách quản lý ngoại hối. Tuỳ theo tình
hình kinh tế xã hội trong và ngoài nước và xu hướng chung của nền kinh tế thế giới
mà mỗi quốc gia nên chọn một mô hình thích hợp. Sự cần thiết của chính sách quản
lý ngoại hối được thể hiện ở sự tồn tại hiện nay trong nền kinh tế nước ta một khối
lượng ngoại tệ khổng lồ. Nợ nước ngoài tính đến cuối năm 1997 của nước ta đã đạt

đến con số báo động 10.159 triệu USD. Tổng số đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào
nước ta tính đến hết năm 1997 đã thực hiện là 11.799 triệu USD trong tổng số 31.438


triệu USD vốn đăng kí gần 3 tỷ vốn ODA đã được giải ngân trong tổng số gần 11 tỷ
USD vốn cam kết.
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay:
Theo dự đoán về tình hình kinh tế toàn cầu trong thời gian tới, IMF cho rằng
với sự năng động vốn có của Châu á và đặc biệt là Đông Nam á thì khu vực này rõ là
nơi có nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi lại nằm
trong khu vực năng động như vậy chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của bên ngoài
và thực tế Việt Nam đã và đang gây được sự chú ý của thế giới.
Qua giai đoạn cải cách vừa qua nền kinh tế Việt Nam đã tạm thời thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, tạo ra một ví trí vững chắc
trong nền kinh tế khu vực còn là một vấn đề khó khăn và lâu dài. Việt Nam còn thiếu
rất nhiều điều kiện như vốn, công nghệ, thiếu kiến thức kinh doanh, thiếu kinh
nghiệm... mà ta cần tích luỹ dần bằng nhiều biện pháp khác nhau mà một biện pháp
nhanh nhất phù hợp nhất mà các nước trong khu vực có điều kiện tương đối giống ta
đã áp dụng đó là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh như
theo quy định của luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
FDI là một thực tế kết quả có tính quy luật phát triển lâu dài cả về chiều rộng
và chiều sâu bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội, từ sự cuốn hút mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tự sự gia
tăng tích luỹ tư bản và công nghệ, từ nhu cầu tái cấu trúc lại nền kinh tế quốc gia
trước sức ép mãnh mẽ của cuộc cạnh tranh trên đường đua vào thế kỷ 21.
Mở cửa và hoà nhập đó là xu thế chung của toàn thế giới không một nước nào
có thể tồn tại và phát triển nếu không có giao lưu thương mại quốc tế. Bên cạnh đó
lại tồn tại những quốc gia dư thừa vốn và họ nhận thấy rằng việc kinh doanh tại một

quốc gia khác sẽ đem lại cho họ nhiều lợi nhuận hơn việc kinh doanh tại chính quốc.
Lợi nhuận đã đưa họ đến những vùng đất béo bở bên ngoài. Đó chính là lợi thế của
các nước xuất khẩu tư bản, còn các nước nhận đầu tư thì sao?


Các nước nhận đầu tư và đặc biệt là những nước đang phát triển và chậm phát
triển sẽ có lợi vì họ sẽ có vốn cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, một yếu tố
sống còn mà các nước này đang thiếu thốn. Mặc dù vốn có thể huy động bằng nhiều
nguồn khác nhau như vay nợ chẳng hạn nhưng vốn FDI vẫn có ưu thế hơn hẳn vì vốn
FDI không làm tăng khoản nợ nước ngoài của nước đó.
Ngoài ra thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn giúp cho nước nhận đầu tư nhanh
chóng tiếp thu được công nghệ tiên tiến của nước ngoài, học hỏi được kinh nghiệm
quản lý kinh tế của các nước, những vấn đề mà chúng ta phải mất nhiều năm hoặc
không có được.
Với một chính sách thu hút vốn FDI hữu hiệu thì FDI sẽ có vai trò hỗ trợ đắc
lực cho phát triển năng lực sản xuất xã hội, khai thác đầy đủ có hiệu quả mọi tiềm
năng đất nước góp phần vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao động.
FDI có tác dụng rất đáng kể nhưng chúng ta cũng cần phải nhận thức đúng
đắn tránh bất cứ mọi sự ảo tưởng nào vào tính màu nhiệm của FDI gắn cho nó một
vai trò tích cực tự nhận thấy bất chấp các điều kiện bên trong của đất nước tách rời
với những cố gắng chủ quan của con người trong vai trò quản lý nhà nước về sản
xuất kinh doanh cải thiện tình hình thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
Như chúng ta đã biết chính sách đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng
của đường lối đổi mới của nhà nước ta, thực hiện chính sách kinh tế mở. Đường lối
đó là sự vận dụng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại vào công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế. Do đó, cũng cần phải tránh quan điểm sai lầm coi chính
sách về FDI như là một chính sách hướng ngoại (chỉ biết mở cửa với bên ngoài) trái
lại đó là chính sách vừa mở cửa với bên ngoài vừa tạo điều kiện phát triển nội lức.
Sau đây là một số yêu cầu quan trọng cho FDI:
+ Hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.

“Bình đẳng cùng có lợi” nguyên tắc số một trong hợp tác theo cơ chế thị
trường cũng cần áp dụng một cách nghiêm túc trong hợp tác đầu tư với nước ngoài.


Hợp tác đầu tư giữa ta với nước ngoài thực tế là tìm ra điểm gặp nhau (trong
đó hai bên cùng có lợi) để cùng sản xuất kinh doanh và chia sẻ kết quả, trên nguyên
tắc thoả thuận, tự nguyện, không bên nào áp đặt cho bên nào.
 Hiệu quả kinh tế xã hội
Đứng về lợi ích của các nhà đầu tư thì mục tiêu cao nhất đó là lợi nhuận thu
được, đó chính là hiệu quả tài chính tính bằng thu nhập trừ đi tổng chi phí. Nhưng
nhà nước xét tới một dự án không chỉ ở khía cạnh hiệu quả tài chính của nó (nhân tố
làm tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước và góp phần vào phát triển kinh tế xã
hội), mà điều không kém phần quan trọng đó là hiệu quả người ta thường dựa vào các
chỉ tiêu sau:
- Trước hết dự án đầu tư phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,
phục vụ trực tiếp hay gián tiếp cho mục tiêu đó, phù hợp nhiều hay ít với quy hoạch
chung.
- Dự án phải tạo được nhiều việc làm và nâng cao được mức sống cho người
lao động với ít vốn đầu tư.
- Dự án phải tạo ra giá trị sản lượng hàng hoá tương đối lớn nhất là hàng xuất
khẩu có chất lượng với giá cạnh tranh thông qua đổi mới công nghệ một cách hợp lý.
- Dự án chi ít ngoại tệ nhưng có khả năng thu nhiều ngoại tệ, điều này đặc biệt
quan trọng đối với các nước mà đồng bản tệ chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi.
- Dự án có khả năng thu hút được nhiều ngành nghề khác trong nước có liên
quan đến dự án.
- Cuối cùng dự án phải đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước.
 Vấn đề lựa chọn hình thức đầu tư:
Vấn đề lựa chọn hình thức hợp tác đầu tư với nước ngoài thực chất là vấn đề
cơ cấu vốn trong nước và vốn nước ngoài sao cho có lợi nhất.
Một số hình thức đầu tư quy định trong luật đầu tư nước ngoài đều có mặt

mạnh và mặt yếu của nó, do vậy phải tuỳ theo điều kiện và yêu cầu cụ thể mà lựa
chọn, không nên cứng nhắc coi một hình thức nào là ưu việt nhất. Thậm chí có


trường hợp không nên sử dụng bất kỳ một hình thức nào có trong luật đầu tư nước
ngoài mà chỉ sử dụng hình thức thương mại hoặc đầu tư trong nước.
Đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế
Việt Nam: Tuy chỉ mới qua 11 năm hoạt động nhưng các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài đã đóng góp được khá nhiều cho nền kinh tế Việt Nam.
Theo nguồn tin của SCCT và ngân hàng nhà nước, hiện nay số vốn thực hiện
của các doanh nghiệp đã lên tới 6 tỷ USD, đây là số vốn rất lớn đối với Việt Nam
chiếm tới 1/3 GDP trong năm 1994 và gấp 2 lần kim ngạch xuất khẩu trong năm
1994. Số vốn này đã góp phần giải quyết những khó khăn về vốn cho công cuộc phát
triển kinh tế đồng thời nó cũng hỗ trợ phần nào đối với sự thâm hụt của cán cân thanh
toán quốc tế. Các doanh nghiệp hoạt động đã giải quyết được công ăn việc làm cho
khoảng 16,5 vạn lao động trong đó 6,5 vạn là nhân viên trong các doanh nghiệp còn
10 vạn người làm các công việc xây dựng cơ bản ban đầu.
Đây là đóng góp rất đáng khích lệ của các doanh nghiệp vì lợi ích kinh tế xã
hội của các dự án là khá lớn và trong tình trạng thất nghiệp rất nhiều của Việt Nam
hiện nay. Tuy chỉ có số ít các doanh nghiệp thực sự đi vào hoạt động nhưng kim
ngạch xuất khẩu đã được đánh giá là khả quan.

Năm

Kim ngạch xuất khẩu

Nghĩa vụ thuế với NSNN

1993


170 triệu USD

120 triệu USD

1994

330 triệu USD

136 triệu USD

Ta hãy thử hình dung hiện nay mới chỉ có một số doanh nghiệp đi vào hoạt
động và kể cả những doanh nghiệp đã hoạt động cũng chỉ rất cầm chừng mà kết quả
đã như vậy thì trong những năm tới khi mà có nhiều doanh nghiệp đi vào hoạt động
và hoạt động của họ đã được mở rộng thì đóng góp của các doanh nghiệp này sẽ như
thế nào?


Chắc chắn đóng góp của các doanh nghiệp này cho nền kinh tế là rất lớn và có
thể đầu tư nước ngoài sẽ trở thành mũi nhọn, trở thành mẫu chốt cho công cuộc phát
triển kinh tế, trong việc hoà nhập của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.

Chương II


Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
1. Thực trạng đầu tư nước ngoài trong những năm vừa qua:
Sau 11 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài ở VIệt Nam với nỗ lực nhằm
hoàn thiện dần hệ thống văn bản pháp lý về đầu tư, Việt Nam đã không ngừng củng
cố quan hệ ngoại giao với các nước, cũng như cải thiện môi trường đầu tư trong nước

nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn FDI, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên
phong phú và nguồn lao động dồi dào phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Những nỗ lực đó đã mang lại những kết quả ban đầu đáng khích lệ. Những
kết quả đó thể hiện qua một số điểm sau đây:
1.1

Về số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư
Mục đích của thực hiện đầu tư trực tiếp tại Việt Nam là thu hút vốn nước

ngoài để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Do vậy dấu hiệu đầu tiên và
quan trọng nhất về kết quả đạt được của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đó là số
lượng dự án và vốn đầu tư.
Theo số liệu của NHNN và uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư, tính đến
cuối tháng 4.1995 đã có hơn 200 nước và khu vực đầu tư vào Việt Nam với hơn 700
công ty và tổng số vốn lên tới trên 14 tỷ USD. Nhịp độ tăng trưởng vốn đầu tư khá
nhanh, vốn đầu tư của năm sau thường cao hơn nhiều so với năm trước. Quy mô một
dự án cũng ngày một tăng, vốn trong năm 88-90 quy mô một dự án khoảng 3,5 triệu
USD thì nay đã cao hơn nhiều, 5 tháng đầu năm 1995 quy mô một dự án đã tăng lên
18,4 triệu USD.
Về phía đối tác nước ngoài, phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực
Đông á-Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Những nước có vồn đầu tư lớn
nhất là Đài Loan, Hông Kông, Nam Triều Tiên, Singapore, úc, Nhật, Pháp, Anh, Hà
Lan...
Như vậy, từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết
tháng 12.199 nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp nước


ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37.055,66 triệu USD . Tính bình quân mỗi năm
chúng ta cấp phép cho 230 dự án với mức 3.087,97 triệu USD vốn đăng ký.
Bảng dưới đây cho ta thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta

có xu hướng tăng nhanh từ 1988 tới 1995 cả về dự án cũng như số vốn đăng ký.
Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có hai dự án đầu tư vào
lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt với
quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Như vậy, nếu xét trong thời kỳ 1988-1999
thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Việt Nam.


Số liệu vốn đầu tư trực tiếp
Vốn đăng ký (triệu USD)
Năm

Số vốn năm trước (%)

Số dự án
Tổng số

Trung bình

Vốn đăng ký

Quy mô

-

-

1988

37


371,8

10,05

1989

68

582,5

8,57

156,67

85,27

1990

108

839,0

7,77

144,03

90,67

1991


151

1322,3

8,67

157,60

112,74

1992

197

2165,0

10,99

163,73

125,46

1993

269

2900,0

10,78


133,95

98,09

1994

343

3765,6

10,98

129,85

101,86

1995

370

6530,8

17,65

173,43

160,75

1996


325

8497,3

26,15

130,11

148,16

1997

345

4649,1

13,48

54,71

51,55

1998

275

3897,4

14,17


83,83

105,12

1999

278

1534,7

5,52

39,38

38,96

2766

37055,6

Tổng

Từ 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm,
nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn: Nếu năm 1998
chỉ bằng 79,71% thì năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký
là 83,83% và 33,01%.
1.2

Tình hình thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

thời kỳ 1988-1999.
Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng

vốn mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 5.171 triệu USD
(bằng 14% tổng số vốn đăng ký và bằng 28,4% số dự án được cấp giấy phép).


127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được cấp giấy
phép), 466 dự án đã bị rút giấy phép (chiếm 16,8%). Như vậy, tính đến 31.12.1999
trên lãnh thổ Việt Nam còn 2173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động,
với tổng vốn đăng ký của dự án còn hiệu lực là 36.086 triệu USD.
8000
7000

Tæng sè cam kÕt
Sè gi¶i ng©n

6000
5000
4000
3000
2000
1000
0

1995

1996

1997


1998

1999

Tæng sè cam kÕt

7500

5950

4450

4000

1980

Sè gi¶i ng©n

2230

1980

2000

800

800

Đồ thị: Cam kết FDI và thực tế giải ngân (Đơn vị: triệu USD)

Đến hết năm 1998 đã có 838 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh
(bằng 33,68% tổng số dự án được duyệt) và 624 dự án đang trong giai đoạn xây dựng
cơ bản (bằng 25,08% số dự án).
 Về cơ cấu lãnh thổ:
Trước kia tỉ trọng rất chênh lệch giữa Bắc-Nam, giữa hai trung tâm thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội thì tới nay khoảng cách này đã giảm dần.
Cho đến nay tỉ trọng vốn đổ vào phía Bắc đã tăng lên 35% sự vươn lên của
các tỉnh phía Bắc mà đặc biệt là Hà Nội một phần là do thế mạnh riêng của mỗi vùng
nhưng cũng một phần do chính sách điều chỉnh của nhà nước.


 Về địa bàn đầu tư:
Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển
dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên chính phủ đã có những chính sách khuyến
khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn,
miền núi, vùng sâu vùng xa. Tuy vậy, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư
tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi
trường kinh tế xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng được xếp theo thứ tự sau:
Cơ cấu đầu tư theo vùng thời kỳ 1988-1999 (%)
1.Đông Nam Bộ

53,13

5.Đồng bằng sông Cửu Long

2,46

2.Đồng bằng sông Hồng

29,6


6.Bắc Trung Bộ

2,38

3.Duyên hải Nam Trung Bộ

7,64

7.Tây Nguyên

0,16

4.Đông Bắc

4,46

8.Tây Bắc

0,15


Về cơ cấu theo ngành kinh tế thời kỳ 1988-1999
Ngành

Số dự án (%)

Vốn đăng ký (%)

1.Nông-Lâm nghiệp


10,6

3,59

2.Thuỷ sản

3,6

0,96

3.Công nghiệp

40,6

37,78

4.Xây dựng

10,3

12,37

5.Khách sạn, du lịch

7,8

13,13

6.Giao thông, vận tải, bưu điện


5,3

9,23

7.Tài chính, ngân hàng

1,1

0,54

8.Văn hoá, Y tế, Giáo dục

3,3

1,27

9.Các ngành dịch vụ khác

9,4

21,13

100

100

Tổng

Số liệu trên cho thấy các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ

trọng lớn cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du
lịch và dịch vụ. Các ngành nông, lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn.
 Về hình thức đầu tư
Hiện nay theo quy định luật đầu tư nước ngoài thì có các hình thức đầu tư
nước ngoài như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và
hợp đồng hợp tác liên doanh.
Liên doanh chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các hình thức đầu tư, nó chiếm tới
64,6% số dự án, chiếm 65,3% vốn đăng ký. Đứng thứ 2 là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, chiếm 27,1% số dự án và 17,5% vốn đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh
doanh chiếm 8,3% số dự án và 16,9% số vốn đăng ký.
2. Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài:


Quản lý ngoại hối đã có từ lâu nên nó gắn với chính sách tiền tệ của quốc gia
nhưng quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì chỉ
thực sự tồn tại trong những năm gần đây. Là vấn đề quá mới nên những phát sinh,
tồn tại đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và giải quyết là vấn đề bức bách và thường
xuyên xảy ra. Sau đây là nghiên cứu thực trạng của việc quản lý ngoại hối trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1

Vấn đề mở tài khoản:

2.1.1 Mở tài khoản tại ngân hàng trong nước:
Như quy định của ngân hàng nhà nước đã nêu ở trên các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chủ được mở một tài khoản đồng Việt Nam và ngoại tệ tại một
ngân hàng thương mại ở Việt Nam, còn trong trường hợp doanh nghiệp có các chi
nhánh ở địa phương khác doanh nghiệp có thể mở các tài khoản phụ tại các địa
phương này để tiện cho hoạt động.

Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý của ngân hàng nhà nước
đối với các hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì thay
bởi việc theo dõi nhiều tài khoản thanh toán khác nhau ngân hàng nhà nước chỉ phải
theo dõi hoạt động tài khoản tại một ngân hàng duy nhất mà doanh nghiệp mở tài
khoản.
Tuy nhiên hiện nay quy định này đang gây sự phản ứng mạnh mẽ của các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp này. Đặc biệt là sau công văn 67/CV-NH
cho ngân hàng nhà nước gửi tới các ngân hàng thương mại yêu cầu phải chấp hành
nghiêm chỉnh các quy định của ngân hàng nhà nước về quản lý ngoại hối trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo như thông tư số 06/TT-NH ban hành
ngày 18.9.1993. Các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại cho rằng những khó
khăn đó thể hiện như sau:
- Các công ty 100% vốn nước ngoài và các liên doanh hướng dẫn chỉ được
giao dịch với một ngân hàng, điều này giúp đơn giản hoá việc kiểm soát nhưng đồng
thời cũng mang những hiệu quả bất lợi cho các doanh nghiệp liên doanh và các công
ty 100% vốn nước ngoài.


- Các công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh cho rằng bằng việc áp
dụng quy định một ngân hàng, ngân hàng vô hình chung đã hạn chế lượng tiền mà
các công ty này được phép hoặc mong muốn đi vay từ thị trường.
- Nhu cầu đi vay của các doanh nghiệp là tất yêu và nó có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của doanh nghiệp, nó làm giảm bớt các dự án đầu tư của một số công ty và
có thể ảnh hưởng xấu đến dự án. Theo thông báo của ngân hàng ngoại thương Pháp
BFCE tại ngân hàng đã có tới 4 dự án đình hoãn vô thời hạn.
- Các ngân hàng cho rằng: Việc áp dụng quy định một ngân hàng dẫn đến rủi
ro lớn trong việc cho vay của các ngân hàng do khó đáp ứng được tốt các khoản vay
của các doanh nghiệp nhất là các khoản vay lớn. Thực tế là ở Việt Nam hiện nay các
ngân hàng khó đáp ứng được nhu cầu vay lớn của các doanh nghiệp.
Hơn nữa việc này làm giảm hiệu quả của các dịch vụ khách hàng của ngân

hàng thương mại, các ngân hàng đều muốn các doanh nghiệp vay vốn phải mở tài
khoản thanh toán tại ngân hàng của họ. Những kiến nghị này là phù hợp với yêu cầu
của các doanh nghiệp và nền kinh tế thị trường nhưng nhìn chung họ đã chưa hiểu kĩ
quan điểm của cơ quan quản lý. Trên thực tế, ngân hàng nhà nước chỉ hạn chế việc
mở tài khoản thanh toán để dễ dàng hơn trong việc quản lý ngoại hối của các doanh
nghiệp này ma không hạn chế việc mở tài khoản trong nước nhằm mục đích vay vốn.
Các doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản thanh toán nhưng có thể nhiều tài
khoản tiền vay.

2.1.2 Vấn đề mở tài khoản ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng nhà nước đã quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được quyền mở tài khoản tại ngân hàng với mục đích:
- Tiếp nhận vốn vay của nước ngoài
- Gửi một phần doanh thu của doanh nghiệp trong phạm vi số tiền gốc và lãi
của khoản vay đến hạn phải trả
- Thanh toán các khoản chi phù hợp với hợp đồng vay vốn


- Chi trả nợ và lãi đến hạn
Qua thực tế kiểm tra và báo cáo của các doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước đã
thấy có nhiều tài khoản mở hoặc có hoặc có nhiều khoản vay chưa được ngân hàng
nhà nước xác nhận. Thực tế này cần phải được khắc phục nhanh chóng bởi vì với
những tài khoản mở ở ngân hàng trong nước việc chuyển tiền và thanh toán vẫn nằm
trong phạm vi quốc gia, ngân hàng nhà nước vẫn có thể tác động được khi cần thiết
trong khi tài khoản mở ở nước ngoài thì nếu không quản lý chặt chẽ sẽ rất dễ gây ra
các tiêu cực hoặc ảnh hưởng bất lợi cho phía Việt Nam.
2.2

Vấn đề chuyển vốn vào:
Nhìn lại sau 11 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 6 tỷ


USD vốn thực hiện đó là điều đáng mừng. Tuy 6 tỷ USD vốn thực hiện chưa là gì đối
với các nước khác nhưng đối với Việt Nam nó đã nói lên nhiều điều.
Với 6 tỷ USD mà 16,5 vạn người đã có việc làm. Nhiều dây chuyền công nghệ
mới đã được đưa vào Việt Nam tạo điều kiện sản xuất được những hàng hóa có chất
lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vốn chuyển vào cũng làm
cải thiện phần nào cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam vốn đã thường xuyên
thâm hụt.
Vốn chuyển vào có tác động quan trọng như vậy nhưng nếu vốn chuyển vào
không được kiểm soát chặt chẽ thì nó có thể gây ra những hậu quả xấu về sau này đòi
hỏi ngân hàng phải quản lý được.
Nhưng vốn ngoại tệ đưa vào nhiều có thể dẫn đến sự hợp lý của chính sách
tiền tệ hiện tại, ngoài ra nó cũng có thể dẫn đến tăng lượng đôla trong điều kiện đồng
Việt Nam chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi.
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bên nước ngoài
phải chuyển vốn pháp định vào Việt Nam theo đúng tiến độ góp vốn đã ghi trong hợp
đồng.
Quy định rất cụ thể nhưng trên thực tế các doanh nghiệp không thực hiện cam
kết của mình trước đây. Họ chuyển vốn vào không theo lệnh góp vốn còn về phía
ngân hàng nhà nước cũng không có điều kiện nắm được chắc chắn dòng vốn ngoại tệ


chuyển vào có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác lập cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam và toàn bộ chính sách tiền tệ nói chung.
Hơn nữa việc buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng cam kết về tiến độ
chuyển vốn sẽ có lợi cho bên Việt Nam bởi một số nguyên nhân:
-Vốn ngoại tệ chuyển vào là rất quý trong tình trạng thiếu ngoại tệ của ta hiện
nay và trong điều kiện đồng Việt Nam chưa thể thành đồng tiền tự do chuyển đổi.
-Số ngoại tệ chuyển vào lớn nên bên nước ngoài có xu hướng chậm chuyển
bởi chỉ cần chậm một ngày họ đã có lợi khá nhiều chứ chưa nói gì đến cả tháng, cả

năm. Trong khi có những doanh nghiệp cần những khoản chi trong ngày hoặc thậm
chí một vài ngày để thực hiện những công vụ cấp bách thì buộc bên nước ngoài thực
hiện cam kết là cần thiết.
Ví dụ, sau đây là một phương thức mà bên nước ngoài thường sử dụng do
những sơ hở về phía Việt Nam. Khi thực hiện dự án A, hai bên cam kết bên Việt
Nam đóng góp 30% vốn pháp định, bên nước ngoài đóng góp 70% vốn pháp định.
Lịch đóng góp của phía nước ngoài được quy định như sau: 1 tháng sau khi nhận
được giấy phép kinh doanh của SCCI, bên nước ngoài phải chuyển vào 25% vốn
pháp định, 50% sẽ đóng góp sau một năm và 25% còn lại sẽ đóng góp sau 1 năm tiếp
theo. Như vậy, phải sau 2 năm bên nước ngoài mới đóng góp đủ số vốn pháp định
trong khi lợi nhuận họ được chia theo tỷ lệ 7/3 ngay từ năm đầu tiên, đó còn chưa kể
đến tình trạng hiện nay đa số các doanh nghiệp lại không thực hiện việc góp vốn
pháp định theo như cam kết.
Chính vì vậy, ngân hàng nhà nước phải tìm biện pháp để kiểm soát được việc
chuyển vốn của bên nước ngoài bảo đảm quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam
và nhà nước Việt Nam.
Ngoài việc quản lý nguồn ngoại tệ chuyển vào một yêu cầu cấp thiết khác đó
là quản lý vốn góp bằng máy móc thiết bị.
Nó không phải là ngoại tệ nhưng liên quan đến lượng ngoại tệ mà bên nước
ngoài được chuyển ra. Bởi vì theo như quy định của nhà nước các doanh nghiệp được


chuyển ra nước ngoài số vốn góp khi kết thúc dự án mà vốn góp lại bao gồm vốn góp
bằng tiền, bưàng máy móc thiết bị hay bằng phát minh.
Tuy hiện nay việc chuyển vốn góp này chưa phát sinh do các dự án đều mới
được thực hiện nhưng sau này khi các dự án hoàn thành bên nước ngoài sẽ chuyển số
ngoại tệ của mình về nước thì nếu không nắm được số vốn chuyển ra làm sao chúng
ta chuẩn bị được ngoại tệ cho tương lai. Một sự thiếu tính toán, chuẩn bị thiếu chu
đáo sẽ gây ra những hậu quả rất khó lường trước được.
Vấn đề vốn góp bằng máy móc thiết bị hiện vẫn gây nhiều tranh cãi, các bên

không thống nhất được với nhau và giá trị của máy móc thiết bị góp vào. Bên Việt
Nam cho rằng bên nước ngoài đánh giá máy móc thiết bị đưa vào cao hơn giá trị thực
của nó.
2.3

Vấn đề chuyển vốn ra nước ngoài
Quản lý việc vốn vào đã rất quan trọng nhưng quản lý việc chuyển vốn ra còn

quan trọng hơn do nguồn ngoại tệ khan hiếm của ta hiện nay. Thắt chặt việc chuyển
ngoại tệ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là quan điểm của những nhà lãnh đạo nhưng thắt
chặt ở đây cũng chỉ ở trong chừng mực nào đó phù hợp với chủ trương “mở cửa” của
đất nước.
Thực tế hiện nay khi các doanh nghiệp có đủ các điều kiện quy định đã đóng
đủ vốn pháp định và làm đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam đều có thể
chuyển vốn ra nước ngoài qua con đường các ngân hàng thương mại mà không cần
phải báo cáo với ngân hàng nhà nước, đó là một tồn tại mà cần phải khắc phục trong
thời gian tới. Bởi vì nếu ngân hàng không nắm được lượng ngoại tệ chuyển ra khỏi
quốc gia thì rất có thể dẫn đến một sự sai lệch nào đó trong việc điều hành chính sách
tiền tệ quốc gia.
Hãy chỉ nhìn ra một nước ngay gần ta là Thái Lan, ngân hàng nhà nước Thái
Lan nắm được số liệu vốn chuyển ra, chuyển vào quốc gia trong từng ngày nhờ vào
hệ thống số liệu do các ngân hàng thương mại cung cấp.
Phải chăng ngân hàng nhà nước Việt Nam không có khả năng thực hiện điều
này: Thật ra ngân hàng nhà nước Việt Nam hoàn toàn có khả năng nắm được số liệu


đó nếu các ngân hàng thương mại kết hợp tốt với ngân hàng nhà nước, họ có trách
nhiệm đối với lĩnh vực này. Hiện nay tình trạng trên vẫn còn tồn tại do ta chưa có
một chế độ báo cáo thông tin của các ngân hàng thương mại.
2.4


Vấn đề về tỷ giá
Một thực tế không thể phủ nhận là sự nỗ lực và thành công của ngân hàng nhà

nước trong việc giữ tỷ giá ổn định trong thời gian qua, sự ổn định ở đây không phải
là sự cứng nhắc mà là tỷ giá có tác động thúc đẩy phát triển sản xuất, trợ giúp sự tăng
trưởng kinh tế.
Từ chế độ nhiều tỷ giá trước đây này Việt Nam đã thực hiện chế độ một tỷ giá
hình thành theo quan hệ cung cầu thị trường và có sự điều chỉnh của nhà nước.Với
chế độ tỷ giá như vậy, phía đối tác nước ngoài nói riêng và các nhà kinh doanh nói
chung đã yên tâm hơn trong việc bỏ vốn vào kinh doanh mà không lo sợ về biến
động của tỷ giá.
Tuy nhiên cũng còn nhiều tiếng kêu từ phía nhà sản xuất, họ cho rằng tỷ giá
của Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý, ngân hàng nhà nước đã xác định tỷ giá cao
hơn giá trị thực của nó và theo họ cần phải phá giá đồng Việt Nam, đưa đồng Việt
Nam về với giá trị thực của nó nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng Việt
Nam có sức cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
Đây là phản ánh của các doanh nghiệp nhưng đó cũng chỉ là những phản ánh,
ngân hàng nhà nước có trách nhiệm xem xét đánh giá nhưng chấp nhận hay không đó
lại là một vấn đề khác. Họ nói phải phá giá nhưng chưa nhận thức được tác hại ghê
gớm của việc phá giá không đúng đối với nền kinh tế như thế nào. Chỉ cần một sự
biến động của tỷ giá thôi có thể phá tan thành quả của bao năm cải cách, phá tan
những cái đã có, mà để đạt được chúng ta phải lao tâm khổ tứ rất nhiều.
Thực tế là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ tồn tại tại ở
Việt Nam trong 12 năm qua nhưng ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá tới hoạt động
của những doanh nghiệp này không phải là không có. Theo uỷ ban nhà nước về hợp
tác và đầu tư đẻ có một số dự án không thực hiện được do sự biến động của tỷ giá đã


làm đảo lộn đến những tính toán ban đầu của họ. Ta có thể thấy được sự biến động tỷ

giá của đồng Việt Nam với USD qua bảng sau:


Số liệu tỷ giá USD thời kỳ 1988-1998 (Đơn vị: VNĐ)
Năm

Tỷ giá chính thức

Tỷ giá thị trường tự do

1988

3000

5000

1989

3900

4200

1990

5790

6800

1991


9640

11.975

1992

11.125

11.300

1993

10.695

10.545

1994

10.890

10.990

1995

11.007

11.660

1996


11.124

10.929

1997

11.065

10.864

1998

11.325

10.949

16000
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
0

ChÝnh thøc

1988


ChÝnh thøc 3000
5000
Tù do

1990

1992

1994

1995

1997

Tù do

5790 11125 10890 11007 11065
6800 11300 10990 11660 10864

Đồ thị: Biến động tỷ giá trong thời kỳ 1988-1998
Như vậy năm 1988 là năm có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên đến
thời điểm 1998 tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng lên 2,2 lần và tỷ giá do ngân hàng


nhà nước công bố đã tăng lên gần 4 lần. Chỉ trong vòng 10 năm mà tỷ giá biến động
lớn như vậy thì việc dự kiến quả là khó khăn.
Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp đổ vỡ do sự biến động này không
nhiều và chủ yếu tập trung vào những năm đầu vì đây là giai đoạn hết sức khó khăn
và đầy biến động trên thị trường Việt Nam, còn thời gian từ 1991 đến nay có thể nói
ngân hàng nhà nước đã kiểm soát được tình hình nhưng để đạt được một tỷ giá chuẩn

xác hơn chúng ta còn phải cố gắng nhiều. Vấn đề chuyển đổi tiền tệ của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như với các nước khác vấn đề ngoại tệ là thứ
yếu thì với Việt Nam, việc bảo đảm ngoại tệ cho các doanh nghiệp lại trở nên hết sức
khẩn thiết mà ai trực tiếp làm vấn đề này mới thấy được.
Tiếng kêu than của các nhà đầu tư đã làm đau đầu các nhà chức trách. Hàng
ngày ngân hàng nhà nước liên tục phải tiếp, giải thích những chất vấn của các nhà
đầu tư về vấn đề này.
Vấn đề này thực sự phát sinh từ khi nghị định 396/Ttg và đặc biệt sau công
văn 67/CV-NH của ngân hàng nhà nước gửi tới toàn bộ các ngân hàng thương mại
yêu cầu các ngân hàng thương mại chỉ được bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài khi có giấy phép của ngân hàng nhà nước.
Sau công văn 67/CV-NH các ngân hàng thương mại đã không bán ngoại tệ
cho các doanh nghiệp nếu doanh nghiệp chưa có giấy phép của ngân hàng nhà nước
và kết quả là các doanh nghiệp này bị khủng hoảng về nguồn ngoại tệ. Nhu cầu ngoại
tệ của họ quá lớn trong khi nguồn thu ít không đủ đáp ưhngs mà đặc biệt là các doanh
nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại. Trong khi lượng ngoại tệ dùng để bán cho
các doanh nghiệp này chỉ khoảng 130 triệu USD/năm. Trước khó khăn đó buộc ngân
hàng nhà nước phải tìm biện pháp khắc phục vì mặc dù nó là vấn đề không chỉ ảnh
hưởng đến các dự án đang hoạt động mà còn ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp sau này.
Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam năm 1999
(tính trung bình trong tháng) Đơn vị: đồng/USD


×