Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.95 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tồn để phát triển.
Cũng từ các cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước tiến quan trọng
qua những bậc thang của thời đại, từ thuở loài người bắt đầu xuất hiện để trở
thành con người văn minh như ngày nay. Trong quá trình ấy, con người đã
tích lũy được những tư tưởng có giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của
thế giới. Dựa triển trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân lọai, tổng
kết thực tiễn thời đại triết học Mác – Lênin được hình thành và phát triển .
Nội dung của chủ nghĩa Mác – Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức
rộng lớn mang nhiều giá trị khoa học và thực tiễn trong đó chủ nghĩa duy vật
biện chứng là “hạt nhân lý luật triết học” của thế giới quan khoa học Mác –
Lênin. Đó là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật; là hệ thống
quan điểm lý luận “ được xác lập trên cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật
biện chứng đối với vấn đề cơ bản của triết học”. Xem xét sự vật hiện tượng
dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ph. Ăngghen viết: “ Vấn đề cơ
bản của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề cơ bản giữa tư duy
và tồn tại”. Mặt khác, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay chính là mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức có vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới, phát
triển đất nước. Đảng và nhà nước đã vận dụng mối liên hệ ấy vào mối liên hệ
giữa kinh tế và chính trị, vào đường lối phát triển kinh tế xã hội giúp đất nước
phát triển bền vững. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình hội nhập và quá độ
lên xã hội chủ nghĩa, việc nhận thức và vận dụng đúng mối liên hệ giữa vật
chất và ý thức vào đường lối phát triển ngày càng quan trọng. Bởi vậy em
quyết định chọn đề tài: “ Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa
vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.”
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những
thiếu sót, vì vậy em kính mong sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tận tình của thầy
giáo.


Em xin chân thành cảm ơn.
2


PHẦN I: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
1. Phạm trù vật chất và ý thức:
1.1. Phạm trù vật chất:
1.1.1. Định nghĩa về vật chất
Các nhà duy vật trước Mác tuy đã có những quan niệm về vật chất song
vẫn còn hạn chế. Ba khuynh hướng cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác
đó là: tiếp tục đồng nhất vật chất với nguyên tử; cho rằng khối lượng là đại
lượng bất biến, đặc trưng cho sự tồn tại của sự vật; vật chất, không gian, thời
gian tách rời nhau. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế khỉ XX, khoa học kĩ thuật phát
triển, các thành tựu khoa học lần lượt ra đời bác bỏ những quan điểm của các
nhà duy vật trước Mác khiến các nhà vật lí học thời kì này bị rơi vào cuộc
khủng hoảng về thế giới khách quan.
Trong bối cảnh lịch sử đó V.I.Lênin đã tổng kết những thành tựu khoa
học tự nhiên cuối thế kỉ XIX và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất “ Vật
chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy, định nghĩa của
V.I.Lênin về vật chất có những nội dung cơ bản:
• Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học, khác với vật chất với tư cách
phạm trù của khoa học chuyên ngành.
• Thứ hai, vật chất là cái tồn tại khách quan, bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức.
• Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián
tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức là sự phản ánh đối với vật
chất, vật chất là cái quyết định ý thức.

Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học. Lênin đã phân biệt rõ sự
3


khác nhau cơ bản giữa vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm
vật chất với tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc
phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ cũng như khắc phục
những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội, cung cấp căn cứ nhận thức
khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất, tạo cơ sở lý luận cho việc
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử.
1.1.2. Hình thức và phương thức tồn tại của vật chất.
 Vận động là hình thức tồn tại của vật chất.
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất – tức
được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu
của vật chất thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong
vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Dựa trên thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia
vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ giới (vận động cơ học-sự
di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lí; vận động
hóa; vận động sinh vật; vận động xã hội( chỉ có ở con người ). Các hình thức
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, một hình thức vận động này thực hiện
là tác động qua lại với những hình thức vận động khác, trong đó vận động cấp
cao bao gồm vận động cấp thấp.
Theo quan điểm của Ph. Ăngghen: “vận động” là mọi sự biến đổi nói
chung; mang tính phổ biến ( tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy); “ vận
động ” là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Thông quan vận động mà các
dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của nó, vận động của vật chất là
tự thân vận động. Vận động không bao giờ mất đi mà có thể chuyển hóa qua
lại từ hình thức này sang hình thức khác theo nguyên tắc bảo toàn. Đứng im là

trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối, chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định và chỉ xảy ra trong một

4


hình thức vận động xác định. Như vậy,đứng im mang tính tương đối, tạm
thời; vận động mang tính tuyệt đối.
 Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có
hình thức kết cấu, có hình thức độ dài ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự
tồn tại và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự
của chúng. Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn
ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu
hiện trình độ, tốc độ của quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đọan
của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận
động. Không gian và thời gian đều có tính khách quan, nó không phải bất
biến mà có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
1.1.3. Tính thống nhất của thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Theo quan điểm đó, triết học
Mác-Lênin đã khẳng định: chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất,
thế giới vật chất là các có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của
con người. Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận vô hạn không được sinh
ra và cũng không bị mất đi. Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên
hệ khách quan, thống nhất với nhau. Trong thế giới vật chất không có gì khác
ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau ; là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
1.2. Phạm trù ý thức.

1.2.1. Nguồn gốc của ý thức.
 Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: bộ óc con người và hoạt động của nó cùng
mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Ý thức là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, là chức năng của bộ óc,
5


là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Ý thức không thể tách rời
khỏi hoạt động của bộ óc. Để bộ óc con người sản sinh ra được ý thức cần
phải có sự tác động của thế giới khách quan. Thế giới khách quan được phản
ánh thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc của con
người, hình thành nên ý thức.
 Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là hai nhân tố cơ bản của nguồn gốc
xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
• Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào các đối tượng
của thế giới tự nhiên nhằm thay đổi chúng cho phù hợp với nhu cầu sử dụng
của con người. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính
mình.Theo Ph.Ăngghen thì “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào
đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
• Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý
thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và phát triển. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh
nghiệm kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hện này sang thế hệ khác. Ph.
Ăngghen đã nói: “Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là
hai sức kích thích chủ yếu cải biên bộ óc của vượn thành bộ óc của con người,
cải biến tâm lý động vật thành ý thức.
Như vậy, điều kiện cần để có ý thức là nguồn gốc tự nhiên và điều kiện
đủ là nguồn gốc xã hội.
1.2.2. Bản chất của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một
cách năng động và sáng tạo. Tính năng động sáng tạo của sự phản ánh ý thức
thể hiện ở chỗ ý thức là là sự phản ánh có tính chất chủ động và tích cực của
chủ thể tùy thuộc vào mục đích thực tiễn. Tính sáng tạo được biểu hiện ở chỗ
ý thức không phản ánh nguyên si hiện thực khách quan mà có sự cải biên theo
mụch đích và nhu cầu của con người, do vậy, ý thức là hình ảnh chủ quan về
6


hiện thực khách quan. Tính năng động sáng tạo còn được thể hiện qua việc
con người có thể sáng tạo ra những biểu tượng không có thực ở hiện thực như
giả thuyết, thần thoại…
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội mà theo MácPh. Ăngghen là “ Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như
vậy đến chừng nào con người còn tồn tại”. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn
liền với họat động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật tự
nhiên mà còn cả của các quy luật xã hội. Với tính năng động ý thức đã sáng
tạo lại theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. Ý thức ra đời trong quá trình con
người lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ
động như sao chép, chụp ảnh mà còn có tính năng động. Các-Mác đã nói: “Ý
thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó”.
1.2.3. Kết cấu của ý thức.
Có ba yếu tố cơ bản hợp nhất thành ý thức: tri thức, tình cảm và ý chí.
Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
Tri thức là nhân tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức và
là điều kiện để ý thức phát triển. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự
phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể
của con người khi nhận sự tác động của ngoại cảnh. Ý chí là sự biểu hiện sức
mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua những cản trở trong quá
trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức,

một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được
mục đích của hành động nên tự đấu trang với mình và ngoại cảnh để thực
hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.
Tất cả các nhân tố tạo thành ý thức đều có mối quan hệ biện chứng với
nhau trong đó tri thức chính là hạt nhân, cốt lõi của ý thức; là nhân tố định
hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
7


2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
2.1. Vật chất quyết định ý thức.
 Về nguồn gốc:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con
người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Các yếu tố tạo thành nguồn
gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức hoặc là chính bản thân thế giới vật
chất hoặc là những dạng tồn tại của vật chất nên vật chất là nguồn gốc của ý
thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới
vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Lao động và ngôn ngữ thuộc về nguồn gốc xã hội của ý thức song đó
cũng là những dạng tồn tại của vật chất cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức.
 Về nội dung và sự biến đổi, phát triển của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới
vật chất nên vật chất quyết định nội dung của ý thức. Tất cả hiện tượng ý thức
đều hình thành trên những điều kiện sống và hoạt động thực tiễn của con
người và xã hội loài người.
Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo. Sự vận động, tồn tại của ý thức, hình thức biểu
hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự thay đổi
của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất

nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức
biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. Bên cạnh đó vật chất là điều
kiện khách quan để thực hiện hóa ý thức tư tưởng. Những chủ trương kế
hoạch của con người chỉ được thực hiện trên những cơ sở vật chất quyết định.
Vật chất quyết định tính năng động sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực
tiễn. Do vậy vật chất quyết định tính phong phú đa dạng nhiều vẻ của ý thức.
2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
8


Tính độc lập tương đối của ý thức được biểu hiện qua: ý thức thường lạc
hậu hơn so với vật chất, ý thức có tính kế thừa và ý thức có thể vượt trước vật
chất đặc biệt là trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
của con người, nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Ý
thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở ấy con
người đề ra phương pháp xây dựng khoa học, lựa chọn phương pháp để thực
hiện mục tiêu làm thay đổi hiện thực. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất
là sự phản ánh tinh thần, sáng tạo và chủ động chứ không máy móc, nguyên
si. Ý thức chỉ phát huy được vai trò của mình khi có sự kết hợp chặt chẽ giữa
nhân tố chủ quan với điều kiện khách quan.
Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng chủ yếu: tích cực và tiêu
cực.
• Nếu ý thức phản ánh đúng về điều kiện vật chất, hoàn cảnh sẽ giúp con người
nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có nghị lực, có ý chí hành động của con
người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua
những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình - đó là sự tác
động tích cực của ý thức.
• Nếu ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì ngay từ đầu hướng hành động của con người đã đi ngược lại

các quy luật khách quan, hành động ấy có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động
thực tiễn, đối với hiện thực khách quan – đó là sự tác động tiêu cực của ý
thức.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối vừa có tính
tương đối. Vật chất quyết định ý thức là tuyệt đối. Tuy nhiên trong một số
trường hợp cụ thể hoặc trong một giai đoạn ngắn ý thức lại tác động và quyết
định trở lại vật chất.

9


Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống quan
hệ xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác
động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ
sở để xem xét các mối quan hệ như chủ thể và khách thể, lí luận và thực tiễn,
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
3. Ý nghĩa của phương pháp luận.
Vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
tôn trọng khách quan, nhận thức và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Cần phải xem xét đối tượng đúng như trong thực tế, như nó tồn tại và phải
xuất phát từ thực tế khách quan. Phải tôn trọng và hành động đúng theo quy
luật bởi quy luật tồn tại khách quan và tất yếu, con người không thể xóa bỏ,
sáng tạo hay thay đổi.
Ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động, chủ
quan đặc biệt cần phát huy vai trò của tri thức khoa học, chú ý phát triển giáo
dục, đào tại, xây dựng mối quan hệ nhân sinh quan tích cực và tạo môi trường
xã hội thuận lợi để phát triển.
Chúng ta không nên tuyệt đối hóa vai trò của vật chất trong mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức cũng như không nên tuyệt đối hóa ý thức

mà hạ thấp, đánh giá không đúng về điều kiện vật chất hay quá trông chờ, ỷ
lại vào điều kiện vật chất. Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính
khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người cũng là một yếu tố
quan trọng trong quá trình nhận thức.

10


PHẦN 2: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật chất. Trong
nhiều trường hợp ý thức lý luận lại quyết định sự thành bại của con người.
Điều đó được thể hiện rõ trong đường lối chủ trương đổi mới, phát triển đất
nước đặc biệt là kinh tế của Đảng ta và trong mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. Nếu đường lối chính sách của Đảng phù hợp với quy luật phát triển
thì sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược lại nếu đường lối chính sách của
đảng đi ngược lại với quy luật phát triển thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh
tế. Như vậy, kinh tế- vật chất là tính thức nhất, chính trị- ý thức là tính thứ hai.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng được thể hiện rõ trong quá trình
xây dựng, đổi mới đất nước.
Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, “ Đảng ta đã phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định
phương hướng về xây dựng cơ sở vật chất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí
kinh tế. Biểu hiện của nó là ta đã quá chủ quan trong việc đánh giá sai lệch về
tốc độ cải thiện kinh tế mà hệ quả của nó là việc đề ra những chỉ tiêu quá cao
so với khả năng thực tại. Như vậy Đảng ta đã vi phạm nguyên tắc khách quan
của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, nền kinh tế phía Bắc
bị phá hoại, nền kinh tế phía Nam bị đảo lộn và suy sụp. Cơ sở vật chất yếu

kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp, nền nông nghiệp bị
tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ IV lại đề
ra những chỉ tiêu cho kế hoạch 5 năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản
xuất quá khả năng như: phấn đấu trong 5 năm trồng được ít nhất 1,2 triệu
hécta rừng; đến năm 1980 khai thác được 1 triêu tấn cá biển trở lên, đưa sản
lượng than lên 10 triệu tấn; sản xuất được 2 triệu tấn xi măng…Đến năm
1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt 50-60% đề ra, nền kinh tế chậm phát triển.
11


Tại Đại hội lần thứ V ta vẫn chưa rút ra được nguyên nhân cũng như chủ
trương chính sách toàn diện. Phải từ Đại hội Đảng lần thứ VI trở đi Đảng mới
rút ra được bài học quan trọng đó là: : “ Mọi đường lối chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế tôn trọng khách quan”, những sai lầm là do “ bệnh
chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận”, cơ sở vật chất còn yếu kém
thì không thể phát triển đất nước. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội cần phải có cơ sở vật chất phát triển. Để có được điều này Đảng ta chủ
trương:
• Phát triển nền kinh tế hành hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn
khổ pháp luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành
phần kinh tế quốc doanh và tập thể đóng vai trò chủ đạo.
• Mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài,
phát triển cơ sở hạ tầng.
• Tận dụng mọi nguồn lực, tài lực trong nước để đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
• Nắm vững nguyên lý ý thức có tác động tích cực trở lại đối với vật chất Đảng
ta đề ra chủ trương đổi mới mà đổi mới trước hết là về tư duy. Đổi mới tư duy
chính là điều kiện tiền đề để đổi mới hoạt động thực tiễn.
• Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam

cho hành động. Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò
nhân tố của con người.
Với các chủ trương trên ta nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức. Ý thức tác động trở lại vật chất được thể hiện rõ ở chỗ ý thức
quyết định sự thành bại của con người trong hoạt động thực tiễn do đó cần
khắc phục thái độ trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh. Cần hình thành một ý thức
đúng, tổ chức hoạt động theo quy luật triệt để khai thác điều kiện khách quan.
Trong hành động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa
học cho nhân dân nói chung và cán bộ đảng viên nói riêng.
KẾT LUẬN
12


Vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có
trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội
dung của ý thức; ý thức là sự phản ánh của hiện thức khách quan của thế giới
vật chất. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội, có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất theo hai hướng tích cực và tiêu
cực. Mối tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là
ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các
quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Quá trình đổi mới đất nước là quá trình lâu dài đòi hỏi phải có sự đoàn
kết của cả dân tộc Việt Nam, toàn Đảng toàn dân phải nhạy bén, tỉnh táo với
thời cuộc. Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đạt được những thành tựu
to lớn nhờ Đảng đã kịp thời khắc phục sai lầm, nghiên cứu tìm ra những mặt
hạn chế từ đó vận dụng đúng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
và công cuộc đổi mới đất nước. Những thành công đạt được trong quá trình
đổi mới ngày càg khẳng địng con đường đúng đắn mà Đảng ta đã chọn. Đồng
thời qua đó ta cũng thấy rõ được tầm quan trọng của việc hiểu và vận dụng

mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào thực tiễn cuộc sống con
người cũng như rút ra được bài học quan trọng đó là: khi xem xét nhìn nhận
sự vật, hiện tượng phải xem xét một cách khách quan đúng như nó tồn tại
tránh sai lầm chủ quan duy ý chí mà đánh giá sai sự vật hiện tượng khỏi cái
vốn có của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
13


1.

Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin( Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính Trị

2.

Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội – 2011.
Lịch sử Việt Nam:
/>option=com_weblinks&catid=2&Itemid=36

3.
4.
5.
6.

Văn kiện đại hội lần thứ IV.
Văn kiện đại hội lần thứ V.
Văn kiện đại hội lần thứ VI.

Ý thức triết học Mác – Lênin: />%C3%9D_th%E1%BB%A9c_(tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB

7.

%8Dc_Marx-Lenin)
Công cụ tìm kiếm: />
14



×